Tribute
|
Seventeen
copies sold, of which eleven at trade price to free circulating
libraries
beyond the seas. Getting known.
—Krapp’s Last Tape
In 1969,
when news came that her husband had been awarded the Nobel Prize for
Literature, Suzanne Beckett is said to have exclaimed, “Quelle
catastrophe!” She knew her man.
“Ever tried.
Ever failed. No matter. Try again. Fail again. Fail better.”
Worstward Ho
Note: Cái tít này, Worstward
Ho, NTV đã
từng dịch là “Tiến Lên Tàn Mạt.”
Nhưng Ho, ở đây, làm liên tưởng đến Bác
Hồ, và những tiếng la trên toàn thế giới, vào thời kỳ đó, "Ho, Ho, Ho!", và như thế, cái tít
còn
tiên đoán sự tàn mạt của xứ Mít.
Lạ thay là sự liên
tưởng!
[To K. NQT]
« Đúng là 1 thảm
họa »,
Gấu Cái than, khi GCC được Nobel.
Hà, hà!
Tôi muốn
tình tôi
Je voudrais
que mon amour meure
qu' il
pleuve sur le cimetière
et les
ruelles où je vais
pleuvant
celle qui crut m'aimer
Samuel
Beckett
Bản tiếng
Anh của chính tác giả:
I would like
my love to die
and the rain
to be raining on the graveyard
and on me
walking the streets
mourning her
who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn
tình Gấu chết,
Và mưa rơi
trên nghĩa địa,
trên đường
phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa
khóc
người
tưởng
rằng người
yêu Gấu
Beckett
một thoảng nhớ
Tôi muốn
tình tôi
Letters from Beckett
The Making of Samuel Beckett
By J.M.
Coetzee
The Letters of Samuel
Beckett, Volume 1: 1929–1940
edited
by Martha Dow
Fehsenfeld and Lois More Overbeck
Cambridge University Press, 782 pp., $50.00
Love, styes and stools
The
first volume of Samuel
Beckett's letters is a treasure trove, says Nicholas Lezard
Một mỏ vàng, thư gửi bạn ta,
của Beckett
"One does one's best to
prefer Spring, in vain." [tạm dịch: Cố cách mấy thì cũng vô ích: Thích
Mùa Xuân]
One recalls the story about
his comment, made many years later, to a friend who was with him
watching
cricket on a sunny day and who had just said, perhaps forgetting to
whom he was
talking, that it was the kind of day that made you glad to be alive; "I
wouldn't go as far as that" was the (apocryphal) reply. [B. kể về lần
ngồi với bạn coi chơi cricket, vào một ngày nắng đẹp, và ông bạn gật
gù, đời ơi là đời, đẹp ơi là đẹp, sống ơi là sống: Tôi chằng hề muốn
quá cỡ thợ mộc tới mức đó!]
Tôi
trở về nhà và viết.
Nửa đêm. Trời mưa.
Không phải nửa đêm. Không phải trời mưa.
Hết thuốc chữa,
cái chuyện anh có mặt ở trên cõi đời này.
Nhưng hãy chờ
đợi tiếng cười ở đằng sau hư vô.
Không gì tiếu lâm [funnier] hơn bất hạnh.
Câu tiếng Tây, khác, câu tiếng Anh:
Rien n'est plus grotesque que le malheur.
Không có gì quê kệch hơn là cái bất hạnh
Chủ
nghĩa anh hùng của cái hư vô
*
Samuel
Beckett, một thoáng
nhớ...
Tưởng
niệm Mai Thảo, và hai
ông Tây, bạn ông, là J. Walker
và Martell.
Sơ
Dạ Hương
Mr.
Beckett đã chết. Vậy thì Paris,
cũng thế. Tôi nghe
người ta nói ông chết tối thứ Sáu tuần
rồi. Vậy thì là, tất cả những người hùng của tôi đã chết, kể từ tối thứ
Sáu
tuần rồi.
Tếu thật, cuộc đời bám dính
lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông rụng răng, tôi
lớ ngớ
buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại liền: "Có
cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều xấu xa
trở thành
tồi tệ hơn". Thế là cả hai đứa
chúng tôi cười đến vãi đái ra.
Mr. Beckett biết chọc quê.
Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp. "Phải ly đúp mới
được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".
Vào khoảng đầu thập niên
1970, tôi ở Paris
với một người bạn là Jean-Paul Delamorte, một tiểu thuyết gia hụt, a
romancier
manqué. Lindon (bên tạp chí Nửa Đêm, Minuit) vừa mới cho ra lò những
bài viết
mới nhất của Beckett, bằng tiếng Pháp, nhan đề là Foirade, Foirade,
Foirade I,
Foirade II. Vì có hẹn khuya này uống một "tăng" với ông, tôi hỏi
Jean-Paul, foirade thực sự
nghĩa là gì.
Jean-Paul hèm lên hèm xuống,
chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra là...
ơ hơ... đúng rồi, disgusting"[1].
Khi tôi lập lại với Beckett,
ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?! Đúng là lố bịch!".
Nơi chốn: Chúng tôi đang ngồi
tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi tụ tập đàn đúm của
đám viết
lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi giải phẫu cườm mắt, Beckett
đeo cặp
kính dầy như đít chai Coke. Tướng tá nhà
văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi. Vừa ló đầu vô, bị thiên
hạ
chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái tay ngừng đớp hít,
bằng ấy
cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai cái đít chai Cô ca Cô la,
chẳng
hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.
Ông giải thích, về phản ứng
của ông, với từ "disgusting" của Jean-Paul, bằng cách chứng tỏ, ông
đã chọn từ foirade một cách hết sức là "nghiêm túc", và ông đang
"động não" cố tìm ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp với nó.
"Foirade: disgusting?
Thật là hoàn toàn vô nghĩa!. Une Foirade là một sự thất bại thảm
thương... Một
điều gì người ta toan tính, nhưng toan tính này thật ra chỉ là một sự
thất bại,
tuy nhiên vẫn phải toan tính, bởi vì thật xứng đáng, không thể chối cãi
được...
vậy đó, một 'thất bại mếu' (a
lamentable failure)."
Tới đây, hình như mọi thực
khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi, như muốn nuốt lấy
từng
lời vọt ra khỏi miệng Beckett. Và nhà văn của chúng ta thêm vô, kèm nụ
cười rất
ư là "bỏ đi": "Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có nghĩa là phát rắm
ướt [2]!
(Mấy tháng sau đó, trong một
tiệm sách ở New York,
tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh của Foirades. Tên tiếng Anh: Fizzles).
*
Giữa đông, giữa năm 1973,
lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm cái trò đọc thơ,
vào lúc
tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con phố Dragon.... với cái giá
năm chục
đô. Tôi có cái uống với Beckett vào lúc bẩy giờ. Tôi đâu dám xì ra cái
chuyện
đọc thơ, bởi vì:
1. Tôi nghĩ ông
chẳng ưa cái chuyện đọc thơ
trước công chúng, cho dù phải cạp đất.
2. Ông gần như
chẳng bao giờ làm chuyện đó.
Trong lúc cà kê, ông có vẻ
đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải không?" Tôi chới
với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn bè tới đông,
hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là tôi đã làm ông
đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn bạn, tôi
không
bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông yêu cầu tôi đọc
một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo ông, cái giá năm
mươi đô
là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên vẫn bắt tôi đọc thơ cho
bằng được.
Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử, bài "Trên Đại Lộ Raspail":
How easily our only smile
smiles.
We will never agree or
disagree.
The pretty girl is
perfected
in her passing.
Our love lives within the
space of a quietly closing door [3].
Ông chăm chú nghe, mắt nhắm
tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ, c...! " Tôi bật
lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn cắp của
bạn!"
"Không, không. Tôi chưa
hề nghe nó trong đời..."
"Không, không, của
bạn! Bài 'Dieppe'..., bạn chấm dứt với 'the
space of a
door that opens and shuts'
"Ô! Đúng thế thực." Nhưng rồi, bỗng nhiên,
ông thêm
vô: "Ô, c...!"
"Chuyện gì nữa,
hả?", tôi hỏi.
"Tôi chôm của Dante,
chính tôi! (me-self)."
(Theo bài viết của Israel
Horovitz, trong Tạp chí The Paris
Review, Mùa Xuân 1997).
[1] Ghê tởm.
[2] wet fart.
[3] Tạm dịch:
Nụ cười độc nhất của
chúng
ta, sao dễ dàng quá vậy
(Thôi đừng tè he ra
mà
làm gì).
Người đẹp đẹp thật khi
thoáng
qua.
Tình mình đọng lại giữa
lần
cửa khép. (1)
Bạn đọc có thể liên
tưởng, từ
foirade, tới wet fart, tới bài thơ vịnh "bạch mã", trong chuyện tiếu
lâm Việt Nam.
Note: Bài này, đã
đăng
trên tạp chí
Văn, và trên VHNT của PCL. Một độc giả VHNT mail, chỉnh, ‘agree’, đồng
ý, và ‘disagree’, không đồng ý,
làm sao lại dịch là ‘tè he’?
Sự
thực, Gấu dịch ‘tếu’, vì
nghĩ đến cái cảnh ‘tình mình đọng lại giữa hai lần cửa khép’.
Có
thể, bài thơ còn nói ‘chuyện đó’
chăng? NQT
je suis ce cours de sable qui
glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the
receding mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Note: To K & O:
Dịch giùm.
Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú.
Và luôn thể, với bài thơ, cũng của Beckett, sau đây.
Tôi muốn tình tôi....
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình Gấu
chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu
Samuel
Beckett, một thoáng
nhớ...
|
|