|
What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger
"... and what
are poets for in a destitude time?", Holderlin hỏi, trong bài điếu
"Bánh mì và Rưọu vang".
Thời của đêm thế gian là thời điêu đứng: The time of the world's night
is the
destitude time.
*
Is Rainer Maria Rilke a poet in a destitude time? How is his poetry
related to
the destitution of the time? How deeply does it reach into the abyss?
Where
does the poet go, assuming he goes where he can go?
Liệu có phải Rilke là nhà thơ của thời điêu đứng?
Như thế nào, làm thế nào, thơ của ông móc nối với sự điêu đứng của thời
gian?
Sâu thẳm cỡ nào, thơ của ông với xuống vực thẳm? Nhà thơ đi đâu, giả dụ
như có
một nơi chốn nhà thơ có thể đi?
*
Từ 'thời gian', ở đây có nghĩa, thời gian mà chúng ta còn thuộc về nó.
Với kinh
nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy sinh của Đấng Ky Tô
Christ
đánh dấu bắt đầu và chấm dứt ngày của những vị thần, the day of the
gods. Đêm
xuống, và kể từ đó, ba ngôi nhập một, the 'united three' - Herakles,
Dionysos,
và Christ - rời bỏ thế gian, buổi chiều của thế gian chìm dần vào đêm
tối của
nó. Đêm thế gian trải dài bóng tối của nó. Đây là thời thần linh trễ
hẹn [The
era is defined by the god's failure to arrive], thời khiếm khuyết thần
linh,
default of god. Thời khiếm khuyến thần linh mà Holderlin kinh nghiệm
không có
nghĩa chối bỏ liên hệ giữa thần và người và nhà thờ. Khiếm khuyết thần
linh có
nghĩa, chẳng còn thần linh tóm thâu người và vật thành một mối, và bằng
một mối
thâu gom như thế, lịch sử thế gian được đặt để, và con người dong duổi
cùng với
nó.
*
“Hồi Võ Phiến sang chơi Paris và đóng đô tại nhà tôi ở
Bagnolet, có bận tôi
hỏi, theo ông, Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ hay nhà văn. Võ Phiến đã
đáp
không do dự: là một nhà văn.”
Kiệt Tấn
*
Nhận xét của Võ Phiến, theo tôi, sai.
Ngay từ năm 1973, khi viết về TTT, trong số Văn đặc biệt về ông, Gấu
này đã
phán, nay xin ghi lại ở đây:
1. Một vài ý nghĩ nho nhỏ về thơ Thanh Tâm Tuyền.
Bởi vì tiểu thuyết, truyện, truyện ngắn vốn dễ đọc hơn thơ, kịch, cho
nên, đối
với số đông độc giả, Thanh Tâm Tuyền thành công về mặt văn xuôi hơn là
thơ.
Nhưng đối với một thiểu số độc giả thường lưu tâm tới vấn để văn
chương, những
tập Tôi không còn cô độc, Liên đêm mặt trời tìm thấy đã định
nghĩa thế
nào là thơ, thơ tự do, thơ TTT.
*
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Holderlin
Có thể, thơ Thanh Tâm Tuyền cũng như thơ của một số thi sĩ khác cùng
thời với
ông, một cách gián tiếp, nhằm trả lời câu hỏi trên của Holderlin.
Bởi vì, người ta vẫn thường quan niệm thơ, từ ngàn xưa, vẫn chỉ là
những gì phù
du, thơ chỉ có trong một thời bình.
Cớ sao lại có thi sĩ, trong một thời đại nhiễu nhương
như thế này?
Đọc Thanh Tâm Tuyền
[Bài này mất tiêu! NQT]
Ngay từ những ngày
1973, khi chưa chấm dứt cuộc chiến, Gấu này đã nhìn ra, thơ TTT, đúng
là thứ
thơ của thời điêu đứng, đúng như Heidegger coi Rilke là thi sĩ của thời
điêu đứng:
Là thi sĩ của thời điêu đứng , có nghĩa là: hát, chú tâm đến dấu chân
để lại
của những vị thần trong khi bỏ chạy. Chính vì thế, vào thời gian của
đêm tối,
thi sĩ nói điều thiêng. Chính vì thế, trong ngôn ngữ của Holderlin, đêm
thế giới
là "đêm thiêng" (1)
Être poète en temps de détresse, c'est alors : chantant, être attentif
à la
trace des dieux enfuis. Voilà pourquoi, au temps de la nuit du monde,
le poète
dit le sacré. Voilà pourquoi, dans la langue de Holderlin, la nuit du
monde est
la « nuit sacrée ».
Pourquoi des poètes en temps de détresse? Heidegger
*
(1) Trong Mảng Lưu Vong, La Part d'Exil, Le Huu Khoa coi Trịnh
Công Sơn
là chim thiêng hót lời mệnh bạc
[Trinh Cong Son: L'oiseau sacré chante le destin tragique]
*
Holderlin phán:
Ở nơi nào có nguy nàn,
Ở đó có cứu rỗi
Mais où est le péril, là
Croit aussi ce qui sauve
Holderlin, IV, 190
Nếu thế, so sánh thơ TTT với những nhà thơ tiền chiến, đúng là "coi
thường" ông, theo Gấu, và, chẳng biết gì về thơ, về vực thẳm, về đêm
đen
chia cách ông với những nhà thơ mà ông và nhóm Sáng Tạo đả phá:
Một cách nào đó, những dòng thơ tiền chiến mở ra vực thẳm, đêm đen.
Một cách nào đó, thơ TTT, và của một số bạn bè của ông, như Tô Thùy
Yên, nhạc
Trịnh Công Sơn... là thơ nhạc của thời điêu đứng.
*
Một lần, nhằm giải thích một nhận định của Đặng Tiến, TTT không có
truyền nhân,
Gấu đã trích dẫn một số câu văn của TTT, để chứng tỏ, ông làm thơ khi
viết văn.
Muốn là truyền nhân của ông, phải là một nhà thơ, chứ không phải nhà
văn.
Như tay Ninh Hạ cho biết, TTT có lần nói với ông ta, ông thấy làm thơ
dễ hơn là
viết văn, là cũng theo nghĩa đó.
Vả chăng, tuy nhà văn, viết đủ thứ, nhưng chỉ Một Chủ Nhật Khác
đúng là
một cuốn tiểu thuyết.
Giáng
Sinh, ngồi nhà
'đọc chơi' vài bài thơ!
Note:
Từ 'đọc chơi' này, GNV
thuổng.
No
Longer and Not Yet
Tại Âu châu, một đứt đoạn tuyệt
đối của
liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến. Những ‘lèm bèm’ của
đám trí
thức về một thoái trào cần thiết của văn minh Tây phương hay thế hệ bỏ
đi nổi
tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự
thực
của nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ
đầu óc ‘tự
do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong
hoặc giật
lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi
sên liên
tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah Arendt, thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm
sao mà
đám Sáng Tạo, bằng mọi cách, ‘đả phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền
chiến: Họ
nhìn ra cái sợi sên bị đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Khoanh vùng vào văn chương Âu châu mà nói, cái hố thẳm mở ra một không
gian
trống và thời gian rỗng này, nhìn rõ nhất là ở sự lệch pha, không đồng
điệu,
giữa hai ông khổng lồ, hai vị sư phụ vĩ đại nhất của thời đại chúng ta,
đó là
Marcel Proust và Franz Kafka. Proust là lời giã từ cuối cùng, đẹp như
mơ, gửi
tới thế giới của thế kỷ 19, và khi chúng ta trở lại với tác phẩm của
ông, viết
trong âm điệu "no longer", "không còn nữa”, ["than ôi, hoa
rụng bên kia sông mất rồi, hết rồi, hết rồi, em ơi chiều nay cơn mộng
tan rồi”,
"ố là là", hết Loan, hết Dũng, hết Đôi Bạn mất rồi…], và thế là cái
tâm trạng não nề [‘từ lúc đưa em về là biết xa ngàn trùng’] khiến chúng
ta vãi
lệ chứa chan!
Kafka, về một mặt khác, là người đương thời với chúng ta, chỉ tới một
giới hạn.
Sự tình như thể, ông viết từ một điểm thuận tiện cho ông, nghĩa là, từ
một
tương lai xa xa, như thể, ông chỉ có thể ‘ở nhà’ trong một thế giới
‘not yet’,
"chưa có nhưng sẽ có". Godot sẽ tới, nhưng chiều nay, thì chưa! Điều
này đẩy chúng ta vào một cái vị thế xa xa, bất cứ khi nào chúng ta đọc,
và bàn
về tác phẩm của ông, một khoảng cách chẳng bao giờ trở nên nhỏ lại, mặc
dù chúng
ta biết nghệ thuật của ông thì là biểu hiện của một thế giới tương lai
nào đó,
cũng là thế giới của chúng ta – giả như chúng ta có được tương lai!
Nếu Nhất Linh, ông Trùm tiền
chiến, đóng vai
Proust, thì Kafka Mít, là Thanh Tâm Tuyền!
Cái hố thẳm giữa họ, được cuộc chiến khốn kiếp làm đầy.
*
Tất cả những nhà văn và thi sĩ lớn khác của Âu Châu tìm thấy chỗ, và
những
chuẩn mức đo lường của họ ở đâu đó giữa hai vị thầy đã mất này. Nhưng
sách của
Hermann Broch rớt vào một phạm trù khác hẳn so với số còn lại. Ông có
chung,
với Proust giọng độc thoại nội tâm, và với Kafka sự chối bỏ hoàn toàn
và triệt
để, điều mua vui, giải trí, cũng như sự bận bịu với cái siêu hình. Ông
chia sẻ
với Proust một sự yêu mến quá đỗi, thật là thâm sâu, với cõi đời, như
là nó
được trao cho chúng ta; và ông chia sẻ với Kafka, niềm tin tưởng, rằng,
“người
hùng” của tiểu thuyết thì hết còn là một nhân vật với một số phẩm chất
được
định nghĩa tới nơi tới chốn, mà chỉ là “một con người như thế đó” (bởi
vì đối
với cuộc đời thực của một con người và nhà thơ, Virgil chỉ là một cơ
hội cho
những dự đoán triết học của Broch) - tất cả thì đều thực, và những lịch
sử của
văn học sau này có thể sẽ nói ra điều này.
Điều quan trọng hơn – ít ra vào lúc này, là, tác phẩm của Broch – qua
những đề
tài mà nó quan tâm, qua trọn tính uyên nguyên, qua giọng rất đỗi thơ
tuyệt vời
của nó – có một điều gì giống như một đường dây dẫn bị thiếu, mất, giữa
Proust
và Kafka, giữa một quá khứ mà chúng ta đã mất và không thể nào lấy lại
được và
một tương lai chưa ở trong tay. Nói một cách khác, cuốn sách, tự thân
nó, thì
giống như một cây cầu mà Virgil cố gắng băng qua hố thẳm của quãng
không giữa
“không còn nữa” và “chưa nhưng sẽ có”. Và kể từ khi mà cái hố thẳm này
thì
thực, rất đỗi thực, kể từ khi mỗi năm nó lại mỗi sâu thêm, đáng sợ
thêm, kể từ
năm định mệnh 1914 trở đi, cho tới khi những cơ xưởng của Thần Chết
được dựng
lên ở ngay trái tim của Âu Châu, cắt đứt luôn sợi dây đã cũ mòn mà nhờ
nó chúng
ta còn bám víu được với thực thể hơn hai ngàn năm lịch sử; và, kể từ
khi chúng
ta hoàn toàn sống trong “cõi trống rỗng”, đối đầu với một thực tại mù
tịt về ý
tưởng truyền thống về thế giới và con người có thể thắp sáng – quý báu
như thể
truyền thống này vẫn còn nằm ở trong tim của chúng ta – chúng ta phải
cám ơn sâu
xa tác phẩm thi ca lớn lao cố bám víu thật tuyệt vọng vào đề tài này.
Điều khá kỳ quặc là tác phẩm trước đó của Broch chẳng hề tiên đoán, ông
sẽ ị ra Cái Chết của Virgil. Những kẻ mộng du, ngoại trừ
những phẩm chất của nó,
như là một cuốn tiểu thuyết, chỉ cho thấy một điều là, tác giả của nó
thì đầy ứ
tài kể chuyện, xuyên suốt tác phẩm, ông tỏ ra nôn nóng với tác phẩm của
riêng
mình: ông nói với độc giả của mình, tốt nhất, hãy cố mà tìm cho ra kết
cục của
câu chuyện, đừng trông mong ở nơi ông; ông lơ là nhân vật, tình tiết và
chỉ
xoắn mãi vào những ức đoán dài dòng về bản chất của lịch sử. Cho tới
một thời
điểm nào đó, Broch quả là một tay kể chuyện tốt, chịu chơi, biết chọc
cười, làm
độc giả vui, nhưng không phải là một thi sĩ lớn.
Cái biến động làm cho Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với màn
cuối u
tối của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch thức
giấc…
Ui chao, đọc đoạn
trên đây, làm sao không nghĩ đến ông anh nhà thơ cho được! Ông tỉnh
giấc, trở
thành nhà thơ, đúng vào màn cuối u tối của miền đất ông ra đời, rời bỏ
nó, đúng
lúc đêm đen chụp xuống, 1954.
Biến động làm Broch thành
một nhà
thơ có vẻ trùng hợp với giai đoạn u tối sau cùng của Âu Châu. Khi bóng
đêm chụp
xuống, thế là a ê hấp, Broch thức dậy. Ông tỉnh giấc trước thực tại
khiến ông
ngỡ ngàng và thế là ông lập tức chuyển dịch nó vào trong một giấc mơ,
quá xứng
hợp với một người thức giấc trong đêm. Giấc mơ này là Cái Chết của
Virgil.
Những nhà phê bình phán, cuốn sách được viết bằng một thứ văn xuôi trữ
tình,
điều này không hẳn đã đúng. Văn phong, độc nhất, do căng thẳng dồn nén,
rất
giống những lời cầu khấn trong những thánh ca Homer, trong đó Thượng Đế
được
con người kêu gọi hoài hoài, mỗi lần là mỗi nơi chốn Thượng Đế cư ngụ,
mỗi
khung cảnh thần thoại, nơi khấn bái, thờ phụng, như thể kẻ cầu nguyện
phải cảm
thấy chắc chắc, tuyệt đối chắc chắn, anh ta không thể nào quên Thượng
Đế. Trong
cùng đường hướng như vậy, Broch cầu khấn Đời sống, hay Cái chết, hay
Tình yêu,
hay Thời gian, hay Không gian, như thể ông muốn hoàn toàn chắc chắn,
tuyệt đối
chắc chắc, ông không quên một điểm nào. Điều này đem cho cuộc độc
thoại
khẩn thiết tình cảm thê thiết của nó và làm bật ra hành động căng
thẳng, tập
trung từ dự đoán rất thực […]
Đề tài của cuốn sách của Broch, như cái tít chỉ ra, là 24 giờ chót của
cuộc đời
Virgil. Nhưng cái chết thì được coi như không phải là một sự kiện mà là
một
thành tựu tối hậu của con người - hoặc theo nghĩa, những khoảnh khắc
hấp hối là
cơ may sau cùng và độc nhất để biết đời sống là cái gì, hay theo nghĩa,
đó là
thời khắc mà con người phán đoán về chính cuộc đời của mình, kẻ đang
chết đó.
Phán đoán này không phải là tự buộc tội, bởi vì lúc đó đã quá muộn để
mà mất
thì giờ với một việc như thế, cũng không phải tự biện minh, bởi vì, nếu
như
thế, thì việc này lại quá sớm; đó là cố gắng tối hậu để tìm ra sự thực,
lời nói
chung quyết của trọn câu chuyện. Điều này làm cho phán đoán sau cùng là
chuyện
của con người, con người tự tính sổ với con người, tránh cho Thượng Đế
khỏi
vướng bận vào chuyện tầm phào như thế!
Nhà thơ
Hữu Loan đã ra đi
Hình ảnh đưa nhà thờ (1) Hữu
Loan về nơi an nghỉ
Note: Cái tít đánh máy sai.
Nhà thơ
Boris Pasternak mất
ngày 30 Tháng Năm 1960. Đám tang của ông là một sự kiện lạ thường, và
phải nói, kỳ bí, mystical event: dấu hiệu đầu tiên cho thấy quyền lực
vô biên của nhà
nước không thể vượt nổi thi ca.
Cái thông báo của nhà nước thì rất ư là khiêm tốn,
chiếm một chỗ thật khiêm nhường, và thật nhỏ xíu, và cái lời nhắn,
advice, độc
nhất về đám tang, thì là một mẩu giấy viết tay, vô danh, dán bên cạnh ô
cửa bán
vé tầu ở ga Kev Station ở Moscow, nơi những hành khách mua vé đi
Peredelkino,
thuộc địa của nhà văn, the writers’colony, ở ngoại vi Moscow.
Mẩu giấy ghi:
“4 giờ chiều ngày Thứ Năm, 2
Tháng Sáu, đám tang Boris Pasternak, nhà thơ vĩ đại nhất của nước Nga
ngày này, the present day, bắt đầu cử hành”.
Lời nhắn tin bị gỡ đi nhiều lần, và
lại được dán lên bởi một bàn tay vô danh.
Nghi lễ Chính Thống giáo được
cử hành thầm lặng tại nhà, dacha, Pasternak, chiều hôm trước. Sáng hôm
sau, bốn
dương cầm gia hàng đầu, leading pianists – Stanislav Neigauz, Andrei
Volskonky,
Marya Yudina (bà này đã từng gọi Stalin là tên tội lỗi lớn, a great
sinner), và
Sviatoslav Richter – trình diễn mấy giờ đồng hồ. Trong số những người
khiêng hòm
ra khỏi nhà, có Andrei Sinyavsky và Yuli Daniel (sau bị bắt vì những
bài viết ly khai), và Lev Kopelev. Vừa ra bên ngoài là họ đụng đầu với
một biển
người, trên mặt người nào cũng đượm nét đau thương - bạn bè, sinh viên,
công nhân,
thợ thuyền và dân quê. Một ông Hữu Thỉnh mũi lõ, thuộc Hội Nhà Văn Liên
Xô, mở
cửa chiếc xe limousine lớn, mầu đen, và tính ghé vai khiêng hòm, nhưng
đám sinh
viên la lớn, đi chỗ khác chơi. Rất nhiều người nài nỉ cho ghé tí tay,
tí vai vô
hòm, đưa thi sĩ tới nghĩa trang.
D.M. Thomas: Cái chết của một
thi sĩ, Death of a poet [in Alexander
Solzhenitsyn: A
century in his life]
Nhà thơ
HL hình như cũng gọi
Bác Hồ của chúng ta bằng cái tên gì gì đó!
*
Thứ
Sáu, ngày 8 tháng 3 năm
1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky (tháng
Năm 24,
1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel văn chương 1987, tại nhà thờ St.
John the
Divine, New York, có lẽ đã đúng như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống
vị kỷ,
những người bạn của ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn, the
achievements,
ngôn ngữ - the language - của người quá cố:
Death
will come and will find
a body
whose silent peace will
reflect death's approach
like any woman's face
(Chết sẽ tới và sẽ thấy một
xác thân
mà sự bình an lặng lẽ sẽ phản
chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của một người
đàn bà nào đó).
Tuy
sống lưu vong gần như
suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu
mong ông
sống thêm 4 năm nữa là "thế kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng vẹn
toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái chết của ông khiến cho căn
nhà Nga
bây giờ mới thực sự trống rỗng.
Ông sang Mỹ, nhập tịch Mỹ,
yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo luận bằng tiếng Anh. Nhưng nước Nga là
một xứ
đáo để (Chắc đáo để cũng chẳng thua gì quê hương của mi...): Anh càng
rẫy ra,
nó càng bám chặt lấy anh cho tới hơi thở chót.
-Bao
giờ ông về?.
-Có thể, tôi không biết. Có
lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi nên về. Tôi sẽ không về. Đâu có ai cần
tôi ở
đó?
-Đừng nói bậy, họ sẽ không để
ông một mình đâu. Họ sẽ công kênh ông trên đường phố... tới tận Moscow... Tới
Petersburg...
Ông sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu ông muốn.
-Đó là điều khiến tôi không
muốn về. Tôi đâu cần ai ở đó.
Nhà Thơ Hữu Loan: Giải thưởng
văn chương Khởi Hành 2007
Bài
viết này, bạn NXH chọn đúng
ngày 22, Tháng Ba, 2010,
là ngày cách đây 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta,
để đăng
trên VOA, như là một tưởng nhớ của tất cả chúng ta,
trong lúc cùng tưởng nhớ sự
ra đi của nhà thơ Hữu Loan, ở trong nước.
Tưởng nhớ nhà thơ Thanh
Tâm
Tuyền
Thứ Hai, 22 tháng 3 2010
*
Ngày 22
tháng 3 năm nay,
2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về
thơ của
ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải
được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra
thế giới
bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta
khó cảm
hay yêu thơ của ông.”
Và, nhận xét của D.M. Thomas,
trong cuốn tiểu sử nhà văn Solzhenitsyn, ["Alexander Solzhenitsyn: A
Century in his Life" By D. M. Thomas, St. Martin's Press], về sự ra đi
của
nhà thơ Pasternak, có thể áp dụng vào trường hợp nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền, nếu
chúng ta nhớ lại, tình cảm sửng sốt, bàng hoàng của đồng bào hải ngoại,
khi
được tin ông mất:
“Nỗi đau của dân Nga khi nhà
thơ Pasternak qua đời vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Xô
Viết.”
The explosion of grief and
celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in
Soviet
history.
*
Nhân dịp tưởng nhớ nhà thơ
năm nay, chúng ta tìm hỏi ý nghĩa của sự chọn lựa, “Tôi là kẻ sống sót,
nhưng
tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn”, của ông, sau
khi ra
khỏi trại tù.
Liệu đây có nghĩa là, từ chối
viết? (1)
Như rất nhiều tác giả khác,
cũng như ông, thí dụ như một Melville, nhà văn nổi tiếng Mỹ, qua nhân
vật nổi
tiếng của ông, Bartleby, với câu nói nổi tiếng: I would prefer not to:
Tôi chọn
đừng.
Báo Văn
học Pháp, Le Magazine
Littéraire, số đặc biệt về Văn chương và những trại tù [La littérature
et les
camps], trong bài viết mở đầu, Thư gửi độc giả, Lettre aux lecteur,
dưới nhan
đề Hội chứng Bartleby, Jean-Louis Hue viết:
Nghĩ đến chuyện từ bỏ viết,
Melville tưởng tượng ra nhân vật Bartleby, thách đố câm lặng và hư vô,
đã chọn
lựa một giải pháp là tự nhốt mình trong văn phòng, vắng mặt trước những
kẻ
khác, và trước chính mình. “Tôi chọn lựa đừng” [I would prefer not to,
khi được
dịch sang tiếng Pháp, là, “Je préférais ne pas le faire”, và mới nhất,
“Je
préférais pas”].
Trong số những nhà văn “Tôi
chọn lựa đừng” này, có, kể sơ sơ, Rimbaud, Robert Walser, J.D.
Salinger… và nhà
thơ Celan, sống sót Lò Thiêu, sau tự sát.
Liệu thái độ “Tôi chọn lựa
đừng” này, là cũng của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sau trại tù cải tạo?
(1)
Après ma libération, sur le
chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier
et
écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je
ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis
toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au
camp: «II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe,
comme si
rien n'était modifié.»
Et maintenant je me dis:
«Quand serai-je capable d'une telle chose?» Pour re-écrire.
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et
le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại
tù
Propos recueillis et traduits
par Le Huu Khoa
Khi ra
khỏi trại tù, trên
đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ
lưu giữ
trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi
chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ,
khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy
ra,
chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi:
"Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?”
Thanh Tâm Tuyền
*
La poésie entre la guerre
et
le camp
Thơ giữa chiến tranh và
trại
tù
Văn chương và những trại tù
La litérature et les camps
Trại Cải Tạo vs Lò Thiêu
Hai cái tít nói lên tất cả!
[NQT]
*
Bài
viết thực ra, chỉ là một
cái dàn bài, bạn NXH cần bài gấp quá, cho đúng dịp tưởng nhớ ngày nhà
thơ từ giã
chúng ta; tuy nhiên “luận điểm” (1) của bài viết thì đã đưa ra
được rồi.
Rằng,
cái sự từ chối không làm
nhà văn nữa của TTT, nó liên can đến Lò Cải Tạo. Nó liên can đến câu
phán của
Adorno:
Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ
thì thật là dã man.
Nói một cách khác, sau 30 Tháng
Tư 1975, giả như còn văn học Mít, thì nó bắt buộc phải trả lời cho được
câu hỏi:
Tại sao Lò Cải Tạo?
(1)
Phạm Gia Thanh (Việt Nam)
Ở bài này ông Nguyễn Quốc Trụ
chỉ góp nhặt linh tinh rồi chép lại chứ không có một luận điểm gì cả.
Dàn bài
cũng tùy tiện. Tôi không hiểu tại sao nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng lại
chọn đăng
và VOA lại đồng ý cho đăng. Nản quá ạ.
Độc giả VOA
Cám ơn
đã góp ý.
Bài này tôi định viết ngay sau khi nhà thơ TTT mất, nhưng ngại, sẽ có
người cho
rằng dựa hơi cái chết của nhà thơ đế đánh bóng mình.
Bây giờ, 5 năm qua đi,
viết, thoải mái hơn.
NQT
Bài trả
lời phỏng vấn Le Huu
Khoa, “Thơ giữa chiến tranh..”, nằm trong loạt bài của Le Huu Khoa, có
tên
chung là Mảng Lưu
Vong, 1995.
Le Magazine Littéraire, Văn chương và Trại Tù,
Tháng Giêng, 2005.
TTT ra
đi tháng 3, 2006.
Gấu tin
rằng, nhà thơ chưa
đọc số báo Le Magazine Littéraire trên,
vậy mà
bài viết của ông nằm
vào đúng dòng đó.
Một
bên, là Lò Cải Tạo: Thơ giữa chiến tranh và Trại Tù
Một bên
là Lò Thiêu:
Văn chương và Trại Tù
Trong những kỳ tới, TV sẽ
giới thiệu một số bài quan trọng trong số báo trên.
Họ gọi tên cái không thể gọi tên, Ils ont nommé
l’innomable, par Pierre
Mertens.
Văn hóa
thì đi đời nhà ma ở trong trại tù ư?, La
culture est-elle morte à Auschwitz? par Theodor W. Adorno.
Cuộc du ngoạn lớn của hồi ức. Le grand voyage de la
mémoire, par Jorge Semprun…
Và, áp dụng câu phán của Adorno
vô hoàn
cảnh và thực tế Mít, đề xuất vấn nạn: Giả như cố đấm ăn xôi, hăm hở
viết, sau
Lò Cải Tạo, thì cái sản phẩm đó, có thể coi là văn chương Mít?
Nó rõ hơn, giả như cứ vờ câu hỏi “Tại sao Lò Cải Tạo”, viết “như chẳng
có gì
xẩy ra”, “không chịu chọn đừng”, thì được cái gì?
Nhà thơ
Hữu Loan đã ra đi
Nhà Thơ Hữu Loan: Giải thưởng
văn chương Khởi Hành 2007
Trao
đổi với Hữu Loan, nhà
thơ
Tuesday, March 23, 2010
Con người, Tích xưa, Việc
cũ
LTS - Nhà thơ Viên Linh viết
bài này năm 2007, đăng trên Khởi Hành, nhân dịp quyết định trao giải
Văn Chương
Toàn Sự Nghiệp Khởi Hành 2007 cho nhà thơ Hữu Loan. Tác giả Viên Linh
trao bài viết
này cho Người Việt Trẻ
đúng vào ngày có tin Hữu Loan qua đời. Xin đăng lại
nguyên văn.
Người Việt
TV
là nơi đầu tiên khui ra vụ
giải thưởng VL này, do nhớ mài mại, và bèn gõ Google, ra số báo Khởi
Hành, bèn
la ỏm tỏi lên, bởi vì hầu như tất cả đều vờ vụ này, ở chính nơi xẩy ra
vụ này,
tếu thế.
Tuy nhiên, số báo đó, còn rất
nhiều bài vở, chi tiết, hình ảnh thú vị. Thí dụ bài viết Hà Thượng
Nhân, tên tuổi
những vị Mạnh Thường Quân… TV đi một đường link như vậy, là để độc giả
TV cùng
hài lòng với tấm lòng của VL, của tờ KH và độc giả của nó.
"Ông Số Hai" có tính hơi đố kỵ, giả như TV không la om lên,
chắc gì...!
Chứng
cớ:
Bài đăng ở Người Vịt Trẻ chứ đâu trang trọng ở Người Vịt Già!
Một thi sĩ mất đi, đâu phải
chuyện thường?
Hồi "Ông Số 1" ra đi, cũng đã
lem nhem rồi!
*
Ông số một quả
đúng là ông anh của Hai Lúa. Tuy không phải ruột thịt mà sợ còn quá cả
ruột
thịt. Trong ba đứa, hai ông con ruột, là nhà thơ, và ông em, me-xừ C.
bạn thân
của HL, thì, tuy là phận ghẻ, nhưng HL được cụ thương yêu còn quá con
ruột. Có
những chuyện mà một bà mẹ chỉ thích nói cho thằng con nuôi nghe, ở đời
thường
vậy. Vì hai thằng con ruột ít chịu ngồi nghe cụ nói, hoặc, ôi dào, mẹ
ơi, nói
hoài chuyện đó, mệt lắm, đại khái như vậy. Đã có lần, ông số một cằn
nhằn, tại
sao những chuyện như thế mà mẹ cũng nói cho thằng Trụ nó nghe?
Hai Lúa này hay nhắc ông số một, là vậy, chứ không phải ông là sư phụ,
thần
tượng trong văn chương của Hai Lúa. Ông là sư phụ, là thần tượng, hay
giản đơn
hơn, ông anh ở đời. Những gì Hai Lúa hay nhắc tới, nếu có liên quan tới
ông, là
những kỷ niệm những ngày cả ba anh em sống quây quần dưới gối của bà
cụ, chúng
có "tính tự thuật" nhiều hơn là "chất văn chương". Nói vậy,
để trả lời nhà thơ Viên Linh, đã nhiều lần "cảnh cáo" Hai Lúa, mày,
hay Jennifer Tran, mà không nhắc tới ông số một, là bịnh liền tức thì!
Nhưng nhờ ông, mà HL tìm ra ông thầy văn của mình.
Tự
Kiểm
Viên
Linh: TTT từng khen tao
một câu, thú vô cùng, chẳng dính dáng gì tới thơ.
Ngưng một tị, chàng nói tiếp:
-Cách tao ứng xử trong vụ
thằng... Mày nhớ vụ đó không?
Nhớ,
sao không nhớ?
Vài cảm
nghĩ về thơ Thanh Tâm Tuyền
Thường Quán Note: Bài độc
giả
[không phải tác giả TQ] sưu tầm và gửi TV
Tks. NQT
|