|
30.4.2009:
Under Construction!
Tin Văn tưởng niệm 30 Tháng Tư năm 2009 bằng cách đọc
Thượng Đế đã chết trong
thành phố của Malaparte.
“La Peau”de Malaparte
Nhưng
thua trận như vậy coi bộ khó hơn thắng trận rất nhiều!
Tuy 30 năm mới có ngày hôm nay, nhưng dân Mít Miền Nam, Ngụy hay không
Ngụy, đều biết họ thua trận.
Trừ đám khốn kiếp VC nằm vùng. Tất nhiên.
Chúng, phải đợi 30 năm sau nữa, mới thấm đòn.
Nhân
nói đến VC nằm vùng, Gấu
lại nhớ đến cái vụ DH không hiểu tại làm sao đồng bọn của ông ăn phải
thứ gì mà
gen đột biến, thành ruồi: Đây là đề tài lớn của Koestler trong cuốn Janus: 'Something has "snapped" inside the brain.
It
is no longer necessarily
a function which will lead us to a better world, but something demonic,
possessed, perhaps even evil'.
JANUS:
A SUMMING UP by ARTHUR
KOESTLER
'The
most adventurous,
polymathic - and readable - scientific populariser of the age offers
iIl.1anus
a summing-up of a quarter of a century's study and speculations on the
life
sciences and their philosophic implications'
THE
GUARDIAN
'Koestler
has an interesting
theme to propose. It is this: the human brain has developed a terrible
biological flaw, such that it is working now against the survival of
the race.
'Something has "snapped" inside the brain. It is no longer necessarily
a function which will lead us to a better world, but something demonic,
possessed, perhaps even evil'
BOOKS
& BOOKMEN
'The
anguished humanity of
Koestler's concepts and the lucid energy of his style command respect.
Here is
one of the major political "experiencers" and most widely-informed
spirits of the age turning to the crux of human survival on a ravaged
planet.
The title of the book tells not only of a central allegory of division
in the
human species. It stands for the rare tension in Koestler's discourses:
between
desolation and zest, between darkness and noon'
THE
SUNDAY TIMES
30.4.2008: Người
xa vắng biết đâu nấm nhà buồn?
Time's publetter [?]
celebrated
his
decision to stay and published a picture of him standing on a now
deserted street smoking a cigarette and looking pugnacious.
Time
tán dương
quyết định ở lại của Phạm Xuân Ẩn và đăng hình ông, với vẻ mặt căng
thẳng,
đứng hút thuốc lá giữa con phố hoang vắng của Sài Gòn.
Tuyệt
cú mèo!
Thành phố này giờ này thuộc về ta, vị thần Janus hai mặt!
Ẩn
hả, nhớ chứ!
*
Khi
Nguyễn Hoàng sợ Trịnh
Kiểm làm thịt, bỏ chạy đất Bắc, tin theo lời ông thầy bói Trạng Trình,
Hoành
Sơn Nhất Đái Vạn Đại Dung Thân.... và thành lập ra Đàng Trong, ông
không hề có
ý định trở về thăm Đàng Ngoài, nhưng Đàng Ngoài không hề quên ông, và
lẽ dĩ nhiên,
không thể không thèm nhỏ nước miếng, ấy chết, nước rãi, miền đất phì
nhiêu Đàng
Trong này, khi coi đây mới là nhà của mình! [Đàng Trong mà!] Chính lý
do "kinh
tế" đẻ ra cuộc chiến Trịnh Nguyễn
ngày nào. Nhưng trong đó, còn có lý do
tình cảm thần bí, của cái gọi là tình máu mủ ruột thịt, một giọt máu
đào, dù loãng
cách mấy, thì vẫn còn hơn một ao nước lã. Nguyễn Hoàng và Trịnh Kiểm
ngoài
cái tình bà con họ hàng, còn cái tình Bắc Kít!
*
Hồi nhỏ, thằng bé Bắc Kỳ là
Hai Lúa đọc những truyện ngắn của Tô Hoài, và thật là thèm, như ông Tô
Hoài, và
những nhân vật của ông thèm, cái thiên đường, nơi chỉ có nắng ấm, mưa
rào thật
nhanh và tạnh cũng thật nhanh, [Ôi nỗi đắng cay phải từ
giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó giữa đồn điền
cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc, nơi chỉ có hai mùa mưa
nắng, không
còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên ác nghiệt,
mà từ
lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày
tháng... Một
chuyến
đi]. Giấc mộng lớn đó,
biến ước mơ
thành hiện thực, sỏi đá thành cơm gạo, nhờ những người như Cao Bồi, sau
bao
nhiêu năm xâm nhập Miền Nam, không 'nằm gai nếm mật' mà ăn uống thỏa
thuê, nếm
toàn xâm banh với rượu vang đỏ, đã hoàn tất, kể như là từ ngày 30 Tháng
Tư năm
1975. Nước Việt Nam
từ nay là một.
Những người như Cao Bồi, khi
họ làm chuyện này, là mong cái điều thật là tuyệt vời: Biến cả nước
Việt Nam thành
thiên đường, như thiên đường Miền Nam.
Than ôi, giấc đại mộng của họ
bị đảo ngược: Cả nước biến thành một xứ Bắc Kỳ, còn khốn nạn, đen tối,
thê thảm
hơn tất cả những thời đại Bắc Kỳ đã từng có, kể từ khi miền đất này
được thành
lập, từ bùn đỏ sông Hồng.
*
"After all, there is
such a thing as truth"
[Nói cho cùng, có cái thứ đó,
một cái gì từa tựa như là sự thực]
Victor Serge: Trường hợp Đồng
chí Tulayev
Susan Sontag trích dẫn làm đề
từ cho bài viết về Victor Serge: Không bị vùi
giập [Unextinguished]: Làm sao giải thích sự chìm
vào tối tăm quên lãng của một trong những vị anh hùng bảnh nhất, cả về
đạo hạnh
lẫn văn chương của thế kỷ 20: Victor Serge? Làm thế nào mà hiểu được
cái sự lơ
là không được biết đến của cuốn Trường hợp Đồng chí Tulayev, một cuốn
tiểu
thuyết tuyệt vời, đã từng được lại khám phá ra, rồi lại chìm vào quên
lãng,
ngay từ khi vừa được xuất bản, một năm sau khi ông mất, 1947?
Phải chăng, đó là do không có
xứ sở nào nhận [claim] ông ?
*
Gấu này cứ trở đi trở lại với
kỷ niệm, lần vô một thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm cuốn Ngôn ngữ và Câm
lặng của
Steiner lên, và mường tượng ra cái trang Tin Văn sau này trên cõi ảo….
Tuổi trẻ của tôi đúng là thật
tuyệt vời, nếu tôi không vớ phải những cuốn sách viết về Lò Thiêu.
Tam Ích
Trường hợp Tam Ích đi theo Cộng Sản thì cũng
giống như Koestler khi gia nhập Đảng Cộng Sản Đức: Hitler ante portas? (1)
(1) Hitler đang chờ
ở ngay đầu ngõ!
*
Marx
lật ngược
triết học Hegel, ra chủ nghĩa Marx.
Nếu như thế, Gấu lật ngược kinh nghiệm Tam Ích, ra trang Tin Văn, mà ở
dưới nền
của nó, là vấn nạn:
Giả như dân Mít chúng ta, nhất là đám Yankee mũi tẹt,
biết đến Lò Thiêu, liệu có để xẩy ra Lò Cải Tạo?
Một cuộc cách
mạng thì thường là giải pháp khốn nạn nhất
Thieves
must sit in prison
Bọ hay không bọ, ruồi
hay không ruồi:
Trộm
cướp thì phải ngồi trong nhà tù.
Putin
là tên sát nhân tập thể
hay nhà ái quốc vĩ đại của nước Nga? Đây là đề tài của hai cuốn sách
đối nghịch
nhau mới ra lò.
Trong Thời của những tên giết
người, hai tác giả của nó lần theo những tài sản kếch xù của
những ông Trùm KGB
kế tiếp nhau và khẳng định, Putin là một trong những đại ác ôn côn đồ
quyền uy
nhất của nó, và là người sau chót cho tới nay, trong cái dòng Trùm đó,
thực sự là
chủ nhân của Gấu Mẹ Vĩ Đại!
NMG vs Lưu
Vong
NMG là một nhà văn
tham
vọng
cùng mình, không phải thứ nhà văn thường thường bậc trung như ông giả
đò khiêm
tốn.
Trong văn chương hiện đại, có
hai tay bắt Nguyễn Huệ đội mồ sống lại để phục vụ cho tham vọng văn học
&
chính trị của họ, đó là Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Mộng Giác. Một
ông, cho Quang
Trung ra Bắc, sau khi đuổi Mãn Thanh, xong, nhớ chuyện Cao Biền dựng
cột đồng, bèn
nhét cứt vào miệng đám sĩ phu Bắc Hà, hy vọng chúng tỉnh ra, bớt ác đi;
một ông
muốn đổi hẳn căn cước, định mệnh Mít, thay vì Nam, thì Bắc tiến!
Lire,
Đọc, số Tháng Tư 2008
La réponse gît sur les genoux
des dieux, comme dit Homère.
Câu trả lời thì nằm ở đầu gối
những vị thần, như Homère nói.
Sự thực thì nằm ở ngón tay
trỏ của Đức Thánh Trần, như dân Mít nói.
Ente apparatchiks et
capitalisme sauvage
Giữa đám con ông cháu cha và
chủ nghĩa tư bản dã man
Người ta chửi ông nhổ vào nồi
cháo ái quốc, nhét cái gì đó vào miệng sĩ phu Bắc Hà, và....
Sous le couvert d'histoires
anodines perce une critique sociale féroce. Nguyên HuyThiêp dérange.
Dưới cái vỏ những câu chuyện
làm xàm, là một mũi dùi phê phán xã hội.
Hung bạo, tàn khốc. NHT quậy.
Ở Việt Nam,
văn chương lâu nay bị kết án phải lèm bèm ca ngợi chủ nghĩa cộng sản và
nghĩa
cả của nó. Văn chương luôn sống dưới sự canh chừng tối đa của con mắt
của con
nhân dân, ngay cả khi chế độ kiểm duyệt ra lệnh, hãy cởi trói cho đám
chúng nó.
Nhưng đếch ăn thua gì, đối với nhà văn thứ thiệt. Đừng hòng họ lầm thị
trường
tự do và tự do ăn nói. Đúng là trường hợp tay trùm của đám này, là NHT,
sinh
tại Hà Nội năm 1950 [vậy mà tưởng bằng tuổi Gấu, 1937]. Vào thời độc
tài, ông
viết dưới chiếc áo khoác của Gogol, và giấu bản thảo ở dưới hầm nhà,
trong lúc
ngấu nghiến Pouchkine hay Flaubert, để khỏi chết vì buồn chán.
Ông có cái can đảm của một người luôn cảnh giác, và quay lưng lại với
ba cái trò
tuyên truyền và những giáo điều của chủ nghĩa hiện thực xã hội. Cuối
thập niên
1980, lợi dụng một chút trời quang mây tạnh, ông cho ra lò một ông
Tướng Về
Hưu không giống ai, qua đó, ông phạng một nước Việt Nam hư ruỗng vì
tham
nhũng, đói khổ, bị vét sạch đến cạn láng. Người ta trách ông đã nhổ vô
nồi cháo
ái quốc, và ông lại thấy mình, một thứ cùi hủi của chế độ kiểm duyệt.
Ông tiếp
tục quậy, tới ngày hôm nay, tại một xứ sở mà một vài cuốn tiểu thuyết
của ông
vẫn bị cấm. Ông cũng bó buộc phải đi vòng qua những chướng ngại và viết
một số
tác phẩm có tính ẩn dụ. Bốn truyện ngắn tập hợp trong Ông chú Hoạt
của tôi
phải đọc ở bậc thứ nhì: sau ẩn dụ, dưới mặt véc ni của những câu chuyện
không
quan trọng, người ta khám phá ra một sự chỉ trích, phê phán xã hội, một
cách
khốc liệt, hung dữ, và thường xuyên. Nó nhắm vào một nước Việt Nam, nơi
mà
những giá trị cổ xưa của tinh thần Phật giáo bị nhạo báng bởi tầng lớp
cán bộ
con ông cháu cha, chúng cuỗm quyền lực, một phía, còn phía kia, là
những con
rồng của chủ nghĩa tư bản dã man, nó biến những thành phố thành những
rừng rú
tàn nhẫn, không xót thương. Ông trình ra một người thu nhặt cứt, một
ông già bị
gia đình xua đuổi vì yêu thơ, một cô gái chuyên nuôi chim chóc, đau đớn
vì
những con sơn ca bị nuôi dậy để đấu đá lẫn nhau trong rạp xiếc.
NHT vẽ ra một xã hội đang trong tuyệt vọng - bạo lực tiềm ẩn, chế độ
thối
ruỗng, khốn cùng cùng cực. Trên thực tại đó, nhà văn tung ra những cánh
hoa của
một lối viết lung linh, tế nhị, và hóm hỉnh, mà ông ta tập luyện nó,
như một
một phương thức chữa bệnh. Với những từ sau đây, chỉ cách dùng: "Đừng
cười, văn chương thứ thực có thể là chẳng hiểu, chẳng lĩnh hội, chẳng
thấu đáo.
Câu trả lời thì ở đầu gối những vị thần, nói như Homère."
[Câu này, do NHT trích dẫn, qua bài viết dưới đây, cũng của Clavel, cho
biết]
André Clavel
“Mon oncle Hoat” [Ông chú Hoạt của tôi] par Nguyên Huy Thiêp, traduit
du
vietnamien par Sean James Rosé, Tuong Vi Rigal et Philippe Dumont, 110
p.,
L'Aube, 11,80 €
“La Peau”de Malaparte
Trên
net, đang có mấy cú nóng
hổi, chắc không phải do gần tới 30 Tháng Tư.
PD vinh
qui bái tổ.
TCS bị
một ông bạn thân lôi ra tố,
có tham vọng chính trị.
Trong
những bài chửi TC, bài
này thảm hại nhất.
Tại sao?
Ấy là
bởi vì, sau khi anh VC
nằm vùng này lên lớp đủ thứ, [Tôi
ngạc nhiên đến bây giờ rồi mà ông
không nhận
ra được rằng chính vì trong quá khứ, ai cũng tin sống tin chết vào
những cái
mình cho là “chân lý” là “chính nghĩa” gì gì đó mà chúng ta chia phe ra
tàn hại
lẫn nhau, tạo điều kiện cho các thứ ngoại nhân đưa bom đạn và ý thức hệ
vào phá
tan tành đất nước? Chẳng lẽ tới tuổi này rồi, sau khi cuộc chiến đã tàn
từ lâu
với bao nhiêu là thay đổi khắp mọi nơi, ông hoạ sĩ họ Trịnh vẫn khư khư
tự cho
mình cái sứ mệnh ôm mãi tấm cô trung cho một thực thể chính trị bóng
ma, coi đó
là cao sang, lý tưởng có thể làm mẫu mực để kết án một cách không khoan
nhượng
các kiểu cách ngây thơ chính trị khác không cùng tính chất với sự xác
tín của
ông?], thì bèn gán cho TC cái tội, viết bài tố TCS, chỉ để góp
tiếng
nói
cùng với lũ Chống Cộng điên cuồng hải ngoại trong tưởng niệm Tháng Tư
Đen!
Bởi vì cái nền móng xã hội
mang chở những oán hận dai dẳng ấy vẫn chưa được dọn sạch. Những tâm
thức tàn
dư của một thời xung đột đã qua, nay vẫn còn đè nặng lên tâm tư nhiều
người
Việt, từ bên đây đến bên kia, vung vãi ra cả trên mặt trái đất….
Lữ Phương.
Sở dĩ như vậy, là do những
gì
xẩy ra sau 30 Tháng Tư 1975, chứ không phải trước đó. Và tưởng niệm
Tháng Tư Đen,
là cũng do đó. Ông VC nằm vùng này sao không tự hỏi, giả như sau 30
Tháng Tư
1975 chúng ta có một đất nước Việt Nam ‘tươm tất’, thì liệu có
‘từ bên
đây đến bên kia’ chăng?
Không phải oán hận
dai dẳng, không phải tâm thức tàn dư. Đây là một câu hỏi
sống chết đối
với tất cả chúng ta. Nhìn như nhà thứ trưởng văn hóa MTGP, "oán hận dai
dẳng, tâm thức tàn dư", theo Gấu, là cố tình chạy tội,
bởi vì nếu không có đám VC nằm vùng, là
không thể nào mất Miền Nam. NQT
*
Trong
số những bài tưởng niệm
TCS, ngay khi ông vừa nằm xuống, nhanh chân lẹ tay nhất, là bài của
NQT, theo như
DT, “Chánh Tổng An Nam”:
Giữa một rừng than khóc ki
khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác
và dũng
cảm. Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ
... sai.
Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình ... ngoài đề. Tình Nhớ thì
can dự
gì đến phản chiến? Bài hát đại khái :
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về
quá thênh thang
Ôi áo
xưa lồng lộng
Đã xô
dạt trời chiều ...
Nói về
nhạc phản chiến , cứ
gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?
*
Tuy
nhiên, theo Gấu, cái tay đọc
lời bi ai [elegy] tới nhất, về TCS là tay Le Huu Khoa (1), khi lọc ra
chỉ một lời
nhạc của TCS:
Chim thiêng hót lời mệnh bạc. Đúng là cả cuộc đời của TCS gói
ghém ở trong câu này.
(1) Le Huu Khoa, trong La Part
d'Exil, gồm những bài của Linda Lê (Les pieds nus); Le Huu Khoa (Vo
Phien, la
littérature comme un bâton d'un aveugle); Xuan Phuc (L'exil des
lettrés, une
voile au lointain de la mer); Le Huu Khoa (Kiet Tan, brisure du sens
dans
l'écriture nue); Pham Duy (Karma imparfait et renaissance infinie); To
Thuy Yen
(Sans nom. Je reviens comme un fantome humilié); Trinh Cong Son
(L'oiseau sacré chante le destin tragique);
Trinh Van Thao (Posface:
Dialogue à peine imaginaire entre écrivains vietnamiens sur la
littérature
d'exil); nhà xb Đại học Provence 1995.].
Còn nếu nói chuyện 'mượn hoa cúng Phật', thì câu của Canetti đúng là
ứng vào TCS.
*
Viết về TCS, một lần, Gấu
này đã viện tới Elias Canetti, nhà văn Đức, Nobel văn chương, khi ông
mừng sinh nhật lần thứ năm mươi nhà văn Herman Broch:
Đừng sợ nữa. Bạn sợ như vậy
là đã quá đủ cho đám tụi mình rồi. Tất cả chúng mình đều phải chết.
Nhưng bạn chưa chắc đã phải chết. Có lẽ những bản rất tình ca của bạn,
là cái phải đại diện cho cả lũ chúng mình với hậu thế. Bạn đã phục vụ
chúng tớ bằng tình bạn trung thành và chân thực. Thời của lũ chúng ta
chắc là chưa buông tha cho bạn đâu.
[Nguyên văn tiếng Đức, bản
dịch tiếng Anh của Joachim Neugroschel, trong Lương Tâm Của Chữ, The
Conscience of Words : Don' t be afraid, you have been afraid enough for
us. We have all to die; but it is still not certain whether you too
have to die. Perhaps your very words are what must represent us to
posterity. You have served us with loyalty and honesty. The age will
not release you].
TCS vs LS
SANS NOM *
Je reviens comme un fantôme humilié...
Les écrivains exilés vietnamiens en Occident reçoivent souvent les
textes des
amis écrivains au pays qui vivent de tragiques années d'emprisonnement.
En
voici un qui revient de l'enfer, sans haine. Le prisonnier libéré
devient
immédiatement l'exilé de sa ville, de sa maison, de ses proches, du
cosmos.
L'aliénation efface la mémoire. Le prisonnier-exilé est seul face à son
nouveau
monde.
L'auteur de ce texte est un poète qui a eu une grande influence dans la
vie
littéraire au Sud-Vietnam avant 1975. Il a été emprisonné à plusieurs
reprises,
il est actuellement considéré
comme un des écrivains qui sont les plus « inhumainement » traités par
le
régime. Ses rares poèmes circulent prudemment au pays et en Occident et
constituent par la force du témoignage un cadre solide pour la survie
de la
mémoire d'un peuple qui s'estperdue dès les premières heures du
totalitarisme.
* Par suite de son
départ en exil en 1993, nous pouvons maintenant publier le poème avec
le nom de
son auteur : To Thuy Yen.
Không Tên *
Ta về như bóng ma
hờn tủi.
Những nhà văn lưu
vong Việt Nam
luôn nhận được những bản văn của bạn bè còn ở trong nước. Những người
này trải
qua những năm tháng tù tội bi thảm. Và đây là một, của một người về từ
địa
ngục, không hận thù. Người tù được thả ngay lập tức trở thành kẻ lưu
vong, đối
với thành phố, căn nhà, những người thân quen, gần gụi, và, vũ trụ, của
anh ta.
Sự vong thân, phóng thể xóa nhòa hồi ức, kỷ niệm. Người tù-lưu vong trơ
trọi,
đối diện với thế giới mới của anh ta.
Tác giả của bài
thơ này là một thi sĩ đã có một ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống văn
học tại
Nam Việt Nam
trước 1975. Ông đã bị bắt tù nhiều lần, và hiện được coi là một trong
những nhà
văn bị đối xử một cách phi nhân nhất bởi chế độ. Những bài thơ hiếm hoi
của ông
được lưu truyền một cách thận trọng ở trong nước, và ở Tây Phương, và
nó tạo
nên, bằng sức mạnh của chứng tích, một cái khung vững chắc, cho sự sống
còn của
hồi ức, của một dân tộc, đã đánh mất chính nó, ngay từ những giờ phút
đầu tiên
của chế độ toàn trị.
* Sau khi tác giả
ra khỏi nước, sống cuộc đời lưu vong vào năm 1993, chúng tôi có thể
điền tên
ông vào chỗ Không Tên, ở đầu bài viết:
Tô Thùy Yên: Ta
Về
Ta về như bóng
ma hờn tủi
Lê Hữu Khoa
[Bản tiếng Việt,
dịch từ bản tiếng Pháp, của Tin Văn]
*
Revenir
Je reviens, seule
ombre sur un grand chemin,
personne n'a écrit un seul petit poème sur mu chemise,
la douleur noue encore mes tripes,
dix ans, la pierre commence à saisir cette souffrance,
Seigneur, dix ans de mort subite
dans la forêt sacrée et le silence éternel,
dix ans, le visage gris noie son reflet dans les eaux étroites.
Dix ans m ont transformé en singe de la création.
Je reviens à travers les villages, les maisons.
Je regarde, étrange surprise, mon ancien ciel, mon ancienne
terre.
J'entends la fin de la poussière, les jours s'envolent.
Tiens. Le ciel s'est abaissé,
la vie silencieuse et pâle s'est pétrifiée,
dix ans, je vois bien la vieillesse du monde,
la terre aussi a perdu ses couleurs...
Je reviens, semblable à des vers déséquilibrés
par la ruine d'un monde mythique, blanc d'oubli,
toile d'araignée, la fumée, les insectes rampants,
mes anciens invités disparus, mes nouveaux invités absents.
Je reviens, je découvre le fétiche sacré caché,
réveillez-vous bois, réveillez-vous pierres,
écoutez le cauchemar de mes dix ans,
je le dirai une seule fois, puis oubliez-le avec moi,
je me promène cet après-midi seul, indifférent,
je sollicite les arbres et la maison.
les fleurs de pamplemousses s'ouvrent, allez-y,
dix ans. aviez-vous pensé à voire homme lointain ?
Je reviens comme un fils détruit
la vie ruinée et
bouleversée.
J'appelle le temps derrière la fenêtre,
les yeux pleins de larmes retenues.
J'entends bien le sang du passé s'écouler.
Je voudrais qu'il revienne
pour savoir que je l'ai perdu...
Je reviens en penchant la tête,
je sens encore le poids de l'univers indulgent,
je remercie les fleurs qui s'ouvrent.
Le monde est joyeux de chaque solitude.
Je remercie, je pleure, mon sang coule encore.
Mes tripes comme des pierres
à mes pieds se dénouent.
Je reviens comme un rêve mythique...
la lune reflète mes brûlures,
imprime ma vie, perpétue le souvenir.
Enfant devant la joie et la tristesse,
vivre et se mettre en face de tes oublis.
Je reviens comme un cours d'eau du passé,
des étoiles scintillantes après dix ans sont floues
Mes amis sont-ils déjà morts ?
Pourquoi la vie s'adoucit-elle maintenant ?
Emmenez-moi dans l'obscurité de vos tombes.
Je reviens comme un fantôme humilié
qui se perd dans le temps pour se retrouver seul.
Je ramasse tous les objets abandonnés
de crainte qu'un jour les cendres
n'en soient plus reconnaissables...
To Thuy Yen
Traduit par Le Huu Khoa
Nguyên tác: Ta về [Đặc
Trưng]
*
Trịnh Công Sơn:
Chim Thiêng Hót Lời Mệnh Bạc
L'oiseau sacré
chante le destin tragique
*
Un jour se
noyer et flotter
[Cũng sẽ chìm
trôi]
Ah ! la lune en
haut
Assis je suis en
bas
La course de l'eau
la limpidité
Mon âme l’eau
trouble
Les hérons
s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la
vie proches
Mais les pas
ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en
haut
Assis je suis en
bas
Les chemins tordus
La lumière
soudaine
Depuis l'oiseau
sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de
l'infini
Se noie disparaît
sans appel de retour
Lời Việt::
Nhật nguyệt í-a
trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong
veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a bay
qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời í-a
không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt í-a
trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường í-a cong
queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a chim
thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt í-a vô
biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm
Partir et
revenir
[Một cõi đi về]
Les années
écoulées les départs
Partir tourner la
vie les fatigues
Les épaules aux
deux bouts de la lune
Le reflet
transversal de cent ans partir et revenir
Quelle sera la parole
des arbres
Quelle sera la
parole de l'herbe étrangère
Un seul coucher du
soleil dans l'ivresse
Quelle vie légère
appartient déjà au passé
Ruine du printemps
ruine de l'été
Un jour d'automne
l'écho du galop au loin
Nuage couvre la
tête soleil sur les épaules
Les pas s'en vont
les rivières savent rester
Soudain l'otage de
l'amour m'appelle
A l’intérieur
apparaît l'ombre de l’être
Le détour de la
pluie dans l'âme
Une pluie fine
Cent ans l'infini
la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu sera
chez moi
Les chemins les
détours les cercles en ruine
Le côté a' herbe
le côté de rêve
Chaque parole du
crépuscule
Chaque parole de
la terre des tombes
Voix de la mer des
fleuves de leurs sources.
Alors qu'on rentre
on se souvient déjà qu'on partira
Partir vers les
monts
Revenir vers le
large
Les bras de la vie
n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent
impossible souffle tout au long de la
jeunesse
Trinh Cong Son
Traduit par Le Huu
Khoa
Connu avec Pham
Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam
actuel, Trinh Cong Son se
veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ».
Son œuvre
raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour
et de
la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la
souffrance,
ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des
guerres
offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme,
du
taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de
l'être.
Được biết đến cùng
với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt
Nam hiện
nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát
"những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu
vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp.
Từng
bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những
bài ca
của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy
đi cầy
lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu
có, tư
tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra
nỗi vô
thường của kiếp người.
Le Huu Khoa:
Mảng lưu vong [La Part d'Exil]
*
Note: Tks K. Gấu
*
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et le camp
Poète majeur de la
littérature vietnamienne moderne, Thanh Tam Tuyen a apporté une double
contribution originale à la vie littéraire après 1945. En poésie, il
marque la rupture avec l'ancienne tradition de la musicalité poétique
et représente dans ce domaine la génération des poètes du mouvement Tho
tu do (poésie en vers libres). Ses deux premiers recueils de poèmes :
Je ne suis plus solitaire et Lien, la nuit et le soleil retrouvé ont
donné naissance à une génération qui « fait de la poésie » et « ne fait
plus des vers ».
En prose, son
premier récit Foyer du feu marquait aussi un point de non-retour par
rapport à l'ancienne technique de narration. Chez Thanh Tarn Tuyen, la
concision du message contribue à l'accélération des rythmes et à la
maîtrise du sens esthétique.
Reconnu mais peu
étudié en profondeur par la critique durant la guerre de 1954-1975, il
reste à l'heure actuelle l'auteur le plus redoutable de la critique
littéraire vietnamienne, par sa démarche créative complexe et par sa
théorie littéraire synthétique. Tout cela sur fond d'une invention
nouvelle de la musicalité poétique.
Thanh Tam Tuyen
fait partie des écrivains qui ont le mieux saisi la destruction du
Vietnam par les guerres mais il est aussi un des ceux qui ont connu la
répression du régime totalitaire actuel, qui ont vécu l'emprisonnement,
les camps de rééducation pendant de longues années sous la répression
du nouveau régime entre 1975 et 1990. Il évoque ici ce que fut son
expérience de l'écriture sous la répression.
Quelle a été votre
expérience littéraire durant la guerre de 1954 à 1975 ?
Hormis la poésie,
j'ai eu deux périodes marquées par mes deux livres en prose. Le
premier, Bêp lua (Foyer du feu, 1954) décrit l'ambiance de Hanoi avant
1954, où ceux qui partent comme ceux qui restent sont contraints à des
choix forcés, la séparation ou la mort. La réaction de la critique des
écrivains révolutionnaires fut immédiate. Dans un compte rendu de Van
Nghê (Littérature et Art), un critique m'a demandé : « Pendant que le
peuple du nord du pays est en train de livrer toutes ses forces pour
construire le socialisme, ou va le personnage du Foyer de feu ? » J'ai
répondu : « II va vers la destruction de l'histoire », chaque écrivain
est un survivant.
Mon deuxième
livre, Ung Thu (Cancer, 1970) peut être considéré comme le prolongement
de Foyer de feu. Le Cancer est l'existence de notre acceptation entre
la vanité et la tiédeur de la mort. Ce livre n'a jamais été publié.
En 1974, à un ami
à l'étranger qui me demandait : « Pourquoi descendre de la montagne ? »
(c'est-à-dire pourquoi exposer sa vie au cœur des événements), j'ai
répondu :
...Je me rappelle
que je ne me souviens de rien
comme un arbre
liquide ses feuilles à la saison de la vieillesse
comme un bout de
bois lourd au gré de la course de l'eau
flotte et rejoint
la plaine
comme les roseaux
sur les rives
avec leurs cheveux
blancs lâchés emmenés par le ciel
Face aux désordres
et à la confusion du temps après 1975, j'ai pensé avoir déjà vécu toute
ma vie, le temps qui me restait était quelque chose en trop, je ne me
donnais plus la peine d'y penser. La désillusion était totale. En 1975,
le nouveau régime m'envoyait en camp de rééducation avec mes amis « de
la même fête et dans le même bateau », nous quittions la plaine pour
les monts avec calme et indifférence, sans désespoir et sans espoir.
J'ai pensé «
disparaître » sans espoir de retour, pourquoi pas comme le déchet
emporté par l'inondation de l'histoire. Mais je me trompais. On
m'envoyait vers le nord, dans les forêts de haute montagne isolées du
monde extérieur, on me lâchait dans la nature, la « liberté » va avec «
l'objectif sur le bois coupé par jour », je m'entraînais à monter et
descendre en glissant avec l'opportunité de m'évadcr. Mais chaque jour
je retrouvais le chemin de retour au camp.
Qu'est-ce qui
m'appelait à y retourner ? Est-ce le « rien de l'espoir », ou est-ce la
désillusion de l'homme abandonné, de l'homme désespéré ? J'étais
vraiment à ce moment-là dans l'espoir de l'inexistence, dans une zone
impénétrable, dans l'état de non-relation. Ce n'est pas clair pour moi.
Pourtant j'étais persuadé que j'étais ressuscité, c'est-à-dire que la
poésie revenait, j'en étais heureux. J'étais même timide comme lorsque
j'étais jeune, avec mes premiers poèmes, je les cachais à mes amis au
camp, je n'osais pas les montrer.
Quand vous vivez
indifféremment jour après jour, sans penser à l'avenir, sans vous
souvenir du passé, sans aucun souci du présent, que vous reste-t-il ?
Il vous reste ce qui existe déjà en vous, dans vous, et cette chose-là
existe malgré votre volonté.
Pour traverser ces
jours de ténèbres, de pluie, de canicule, de gel, de tempête, de
saisons, je cherchais le plaisir dans cette chose-là, en moi, elle
était la seule que j'emmenais, qui était toujours dans mon corps.
En moi que
restait-il ? La famille, les amis. Les poèmes, bien sûr, lus et
intériorisés. Le moment venu, la mémoire se mobilisait vite, elle les
lisait pour moi seul. Là-bas, souvent, vous pouviez rencontrer des
lumières étranges. Le temps des ruines renforce la poésie.
A tremper dans le
temps « sans histoire » ou plutôt sans l'histoire de l'extérieur, on
découvre que les jours, les mois dans la vie sont sans direction, sans
but, nus. Absolument nus. L'inexistence de la vie donne la paix
intérieure. Cet état poétique paisible règne sur le calme de l'univers.
De là, chaque
poème est un temps clos, détaché du mouvement de la vie. Le temps
soudain de l'angoisse devenait le temps condensé, il n'y a pas de
différence entre la suspension et l'envol.
Or, faire de la
poésie dans un camp de redressement, c'est aussi retourner à la poésie
de tradition populaire. Le régime du travail dans les camps, c'est une
journée intensive de huit heures, sans week-end ; chaque prisonnier a
son univers : une natte ; quelque cinquante ou soixante prisonniers sur
deux étages, tous sous une toile de plus de cent personnes. L'écriture
est un luxe : une place assise, le temps d'écrire. Avec les cadences
imposées aux prisonniers, le froid, la faim..., qui oserait penser à la
création ?
Même un génie, une
force surnaturelle ne pourrait dépasser ces « contraintes ».
Pourtant en
vietnamien, on dit « faire de la poésie » (lam tho), personne ne dit «
écrire de la poésie ». Donc, on peut faire de la poésie partout, dans
n'importe quelle position : en marchant, debout, couclié, assis,
éveillé... La poésie vous rejoint sans rendez-vous, sans fixer le jour,
ni l'heure. On ne peut la chercher parce que l'on ne sait pas ou elle
est. Il ne vous reste qu'un travail simple ; l'accueillir et discuter
avec elle. Elle vous demande une seule chose : garder votre parole pure
et plus tard cette parole décidera de sa propre vie.
Elle est souvent
discrète, elle entre parfois par la porte centrale, parfois par le
petit chemin, soyez a l'écoute, attentif. Elle aime bien se masquer, se
voiler, alors si votre mémoire n'est pas en éveil, vous ne pouvez
l'identifier.
Pendant votre «
travail pour l'objectif révolutionnaire », elle arrive. Soudainement,
en plein champ, en pleine forêt... Elle arrive, elle vous recommande de
vous arrêter. Vous commencez à voir le ciel et à oublier les mouvements
mécaniques. Elle vous emmène aussitôt vers l'état de l'âge intérieur,
paisible. Cette autoexistence donne la joie. Parce que lorsque la
poésie vous lâche, après votre retour dans cette vie que vous avez osé
quitter, vous voyez que cette vie-là se transformera en rythme de vos
vers. Ce qui fait que l'on travaille avec les bras, pendant que les
oreilles courent après les rythmes, la musique du poème. Cette harmonie
donnera l'équilibre nécessaire entre le travail qui se limite aux
gestes et la mémoire qui stocke.
Mais concrètement
la difficulté de faire la poésie dans les camps demeure. Car il est
impossible de rédiger les poèmes, ce qui pourtant est l'état final de
la création : la joie de lire à haute voix et de partager avec vos
proches. La poésie doit être lue et écoutée, tel est son destin final.
Destin d'une parole mais aussi destin de la mémoire de plusieurs
personnes.
Après ma
libération, sur le chemin du retour, la première chose que j'ai faite,
a été de me replier et écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma
détention.
Je suis un
survivant, mais je ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant
souhaité depuis toujours.
J'ai écrit dans ma
mémoire au camp : « II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne
s'était passe, comme si rien n'était modifié. »
Et maintenant je
me dis : « Quand serai-je capable d'une telle chose ? » Pour re-écrire.
Khi ra khỏi trại
tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những
bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống
sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu
vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như
chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự
hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Lại viết?
Propos recueillis
et traduits par Le Huu Khoa
Note: Bài phỏng
vấn này, Gấu được bạn Ngô Thế Vinh gửi cho, khi vừa ra ngoài này ít
lâu, chừng 1996-97.
Sau qua Paris,
1999, được Kiệt Tấn cho cả toàn tập, bản copy từ bản của Le Huu Khoa
tặng ông.
Gấu đã từng nói
chuyện với nhà thơ về bài phỏng vấn trên. Cái tít Thơ giữa chiến tranh
và trại tù, như thế, ông đã từng biết.
Không hiểu cái tít
KINH NGHIỆM SÁNG TÁC TRONG TÙ ông
cũng đã từng biết?
Larmes les
cailloux verts
Je sais qu'il
existe des gens qui pleurent seuls
sans s'arrêter une
seule minute
ces gens pleurent
mais leurs larmes
ne quittent pas
leurs cœurs
connais-tu ces
larmes
ce sont les
cailloux verts
Lệ đá xanh
Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
(...)
Le soleil cristal
Nắng thuỷ tinh
[Phục sinh]
(...)
J'ai envie de
pleurer comme
j'ai envie de vomir
dehors
le soleil est
cristal
j'invoque mon nom
pour barrer la tristesse
je crie mon nom
pour barrer la colère
j'ai envie de
vivre autant que de mourir
(...)
Les nuits
Đêm
(...)
Les nuits les
guerres s'oublient
les yeux noirs de
silence
j'arpente la ville
en trêve
la solitude n'est
pas encore brûlée par le soleil
elle s'accommode
d'un froid mort
(...)
Les poteaux
électriques
Cột điện [Dạ khúc]
(...)
J'ai peur que les
poteaux électriques ne tombent
que les fils
électriques ne s'enroulent
et n'étouffent à
mort nos espoirs
viens je t'emmène
on s'en va
suis-moi dans le parc
je ne suis qu'un
fou
je te serre dans
mes bras
or je pense déjà à
toi les jours qui viennent
(...)
Thanh Tam Tuyen
Traduit par Le Huu
Khoa
La Part d'Exile
Thanh Tâm Tuyền
Thơ giữa chiến
tranh và trại tù.
Nhà thơ chủ yếu
của văn học Việt Nam hiện đại, Thanh Tâm Tuyền đã hai lần đóng góp, và
đóng góp nào cũng mang tính uyên nguyên, cho cuộc sống văn học sau
1945.
Về thơ, ông cắt
đứt truyền thống cổ điển về nhạc tính trong thơ, và trong mảnh đất mới
mẻ này, ông là người đại diện của nó: người sáng lập ra trường phái thơ
tự do. Hai tập thơ đầu 'Tôi Không Còn Cô Độc' và 'Liên Đêm Mặt Trời Tìm
Thấy' khai sinh ra một thế hệ "làm thơ", "không làm những câu thơ".
Về văn xuôi,
truyện kể đầu tay, Bếp Lửa, cũng đánh dấu sự không thể trở lại với cách
kể chuyện cũ nữa. Tính ngắn gọn của thông điệp làm tăng nhịp văn và làm
chủ cảm quan thẩm mỹ.
Được nhìn nhận,
nhưng không được nghiên cứu sâu, bởi giới phê bình trong thời kỳ chiến
tranh 1954-1975, tuy nhiên, vào lúc này, ông quả là một tác giả đáng
gờm của giới phê bình văn học Việt Nam, bởi tính đa dạng trong đường
hướng sáng tạo, và bởi lý thuyết văn học mang tính tổng hợp. Tất cả
điều này sở dĩ có được, là nhờ dựa trên một phát kiến mới mẻ của ông về
nhạc tính của thơ.
Thanh Tâm Tuyền
thuộc trong số những nhà văn sớm cảm nhận sự huỷ hoại của đất nước Việt
Nam chiến tranh triền miên nhưng ông cũng là một trong số những người
hiểu thế nào là sống trong một chế độ toàn trị kìm kẹp như chế độ hiện
thời, trải qua tù đầy, trại cải tạo, trong nhiều năm ròng rã, dưới sự
áp bức của chế độ mới, từ năm 1975 tới 1990. Ông kể lại sau đây, kinh
nghiệm viết của ông, dưới áp bức, kìm kẹp.
Kinh nghiệm văn
chương của ông trong thời kỳ chiến tranh từ 1954 tới 1975?
Ngoài thơ ra, tôi
trải qua hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn đầu,
Bếp Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là
những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng
của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một
nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây
dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời:
"Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống
sót.
Tác phẩm thứ nhì
của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là
chấp nhận giữa vô thường và chút hơi ấm của nỗi chết Cuốn sách chẳng
bao giờ được in ra.
Vào năm 1974 một
người bạn ở hải ngoại hỏi tôi: "Tại sao xuống núi ?" (nghĩa là tại sao
phơi đời mình ra giữa những biến động? ), tôi đã trả lời:
... Tôi nhớ là
chẳng nhớ gì
như cây kia trút
lá mùa già
như khúc củi nặng
nề trôi theo giòng nước xuống tới đồng bằng
Nguồn
Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù
30.4.2009:
Under Construction!
Tin Văn tưởng niệm 30 Tháng Tư năm 2009 bằng cách đọc
Thượng Đế đã chết trong
thành phố của Malaparte.
“La Peau”de Malaparte
Nhưng thua trận như vậy coi bộ khó hơn thắng trận rất nhiều!
Tuy 30 năm mới có ngày hôm nay, nhưng dân Mít Miền Nam, Ngụy hay không
Ngụy, đều biết họ thua trận.
Một cuộc cách
mạng thì thường là giải pháp khốn nạn nhất
*
“Ở đây [Cambodia],
người ta kháo nhau rằng người Việt Nam
có tiêu chuẩn phẩm hạnh thấp hơn người
Khmer; và trong khi người Việt Nam
bán con gái của mình, người Khmer không bao giờ làm điều ấy.”
… nơi mà cả “sự vô tội cũng
được bày bán.”
Nguồn
Con nít
Miền Nam cũng chịu
cảnh nhục nhã này, ở thủ đô Pnom Penh, Cam
pu chia.
|
|