Salman
Rushdie
Những
đứa con giờ Tý
Chương 1
Miếng
vải đục lỗ
Ngày
xửa ngày xưa… tôi sinh
ra tại thành phố Bombay.
Ô, như vậy không được, có nơi sinh nhưng thiếu ngày tháng. Tôi sinh ra
tại bảo
sanh viện của bác sĩ Narlikar ngày 15 tháng Tám, 1947. Ô, vẫn không
được, sinh
giờ nào? Sinh giờ nào là một điều rất
quan trọng. Nếu vậy, tôi sinh ra vào lúc ban đêm. Vẫn chưa được. Như
vậy nói
lại, tôi sinh ra đúng nửa đêm, chuông đồng hồ đổ muời hai tiếng, và hai
cây kim
như hai cánh tay bắt tay nhau, trân trọng chào mừng tôi ra đời. Và điều
này mới
thật là quan trọng: Vào đúng 12 giờ đêm ngày 15 Tháng Tám năm 1947, Ấn
Độ tuyên
bố độc lập, tôi lóp ngóp ra đời. Có những tiếng hào hển. Và ngoài kia,
bên
ngoài cửa sổ, tưng bừng sặc sỡ những
pháo bông, lũ lượt những dòng người. Vài phút sau, cha tôi té bể mũi.
Nhưng một
biến cố như thế thì thật quá nhỏ nhoi so với điều xẩy ra cho tôi vào
giây phút
khuya khoắt trọng đại đó: Bởi vì nhờ ở tính bạo chúa thần bí của những
chiếc
đồng hồ, trong dáng điệu hai cây kim bắt chéo tay nhau trân trọng chào
mừng như
thế, tôi như được trói chặt tay trao cho lịch sử, và số mệnh tôi cũng
bị xiềng
chặt với số mệnh xứ sở tôi. Trong ba thập kỷ kế tiếp đó, thật vô phương
đào
tẩu. Những ông thầy, bà thầy tiên tri về tôi, báo chí chào mừng tôi ra
đời,
chính trị gia phê chuẩn sự xác thực của tôi. Tôi chẳng có tiếng nói về
những sự
kiện như vậy. Tôi, Saleem Sinai, với những cái nick tiếp nối theo sau,
Thằng
thò lò mũi xanh, thằng mặt dơ, thằng trụi lông, thằng sụt sịt mũi, Ông
Phật,
và, chưa hết, Mẩu mặt trăng,
tất cả những biệt danh như thế cũng theo
tôi mà
tưng bừng can thiệp vào với Số mệnh – và ngay cả ở thời điểm đẹp đẽ
nhất, thì
vẫn là một sự can thiệp rất ư là nguy nàn. Nguy nàn đến nỗi, tôi chẳng
có lấy
một phút, để mà lau cái mũi thò lò của mình.
Hỡi ơi,
bây giờ, vào giờ này,
quỹ thời gian kể như cạn kiệt đối với tôi, và nếu như chưa cạn kiệt,
thì tôi
cũng chẳng biết làm gì với nó, hoặc ngược lại, nó cũng chẳng biết dùng
tôi vào
việc gì. Chẳng mấy nả, tôi ba mươi mốt tuổi trời. Có thể. Nếu cái thân
thể rệu
rạo này cho phép. Nhưng tôi chẳng có chút hy vọng chi về cái chuyện
dành dụm
đời mình, và tôi cũng chẳng trông mong gì có được một ngàn lẻ một đêm
bầy ra
trước mắt. Tôi phải làm việc, cật lực làm việc, như người đẹp
Scheherazade, nếu
tôi muốn hiểu ra một điều gì đó, đúng như vậy. Điều mà tôi sợ nhất, đó
là sự
phi lý.
Và có
rất nhiều điều để kể,
quá nhiều, biết bao cuộc đời, biến động, phép lạ, nơi chốn, điều này
tiếng kia,
những dây mơ rễ má như thế quyện vào nhau, dầy đặc, tạo thành thiên la
địa võng
của những chuyện không đâu và trần tục. Tôi là kẻ nuốt chửng hằng hà sa
số
những cuộc đời, và để hiểu chỉ tôi thôi, bạn cũng sẽ phải nuốt chửng
hằng hà sa
số những cuộc đời. Một con số khổng lồ những cuộc đời như vậy được nuốt
vô,
được tiêu hóa, chúng xô đẩy, chen lấn, kèn cựa nhau, cố vạch ra một lối
đi ở
bên trong tôi, được dẫn dắt bởi hồi ức của một miếng vải, được sử dụng
làm một
tấm khăn trải giường lớn, mầu trắng, với một cái lỗ tròn tròn, chừng
bẩy inches
ở giữa, và, như được móc vào giấc mơ về một miếng vải hình vuông, đục
lỗ, bị
cắt ra thành nhiều mảnh - miếng vải này chính là bùa chú, là ‘hạt vừng
kia hãy
mở ra” của tôi – tôi phải bắt đầu tạo dựng lại cuộc đời của mình, từ
điểm nó
thực sự bắt đầu, ba mươi hai năm trước đó, cũng sờ sờ, cũng hiển nhiên
trước
mắt, như là sự ra đời của tôi, dính tí máu tội ác, và bị chi phối bởi
những
chiếc đồng hồ.
(Nhân
tiện, xin nói thêm,
miếng vải trải giường cũng dính ba giọt máu đỏ, cũ xì, từ đời thuở nào.
Như
kinh Koran phán: Hãy cầu nguyện, nhân danh Đức Sáng Tạo, Người đã tạo
ra con
người, từ một cục máu).
Vào một
buổi sáng, ở Kashmir, vào đầu mùa
Xuân năm 1015, ông tôi, Aadam Aziz
đập mũi vào mặt đất cứng như đá vì giá lạnh, trong lúc cầu nguyện. Ba
giọt máu,
khô quánh liền sau khi từ lỗ mũi bên trái chảy ra bên ngoài khí trời
giá
lạnh, nằm lăn lóc trước mắt ông tôi trên
tấm thảm cầu nguyện, biến thành ba hòn bi ve. Ông tôi cố gượng dậy, rồi
cố quì
trở lại, và một khi đầu ngửng cao, ông nhận ra mình đã khóc, và những
giọt nước
mắt thì cũng đã khô quánh lại. Vào đúng thời điểm đó, trong lúc gỡ
những viên
kim cương ra khỏi lông mi, ông quyết định, là sẽ chẳng bao giờ hôn mặt
đất, vì
bất cứ ai, thần thánh cũng không và người trần thì cũng không. Một
quyết định
như thế, hỡi ơi, cũng tạo một lỗ hổng ở trong ông tôi, một sự trống
vắng, ở
phần thiết yếu sống động bên trong con người ông, khiến ông trở nên rất
dễ bị
tổn thương, bởi những người đàn bà, và lịch sử. Lúc đầu, ông không nhận
ra sự
kiện này, và cũng chẳng thèm bận tâm, và, mặc dù vừa hoàn tất môn học y
khoa,
ông đứng dậy, cuộn tấm thảm lại, trông chẳng khác gì một điếu xì gà
khổng lồ,
kẹp nó ở bên dưới cánh tay phải, và ông ngắm nhìn thung lũng bằng cặp
mắt trong
sáng vì đã được giải thoát những hòn bi ve nước mắt.
Thế
giới lại trở nên mới. Sau
thời kỳ thai nghén mùa đông, thung lũng nở bung ra, giống như một chú
chim non
dùng mỏ phá vỡ cái vỏ băng, và nhập vào vùng không gian mở rộng, ẩm ướt
và vàng
tươi. Một đời cỏ mới chờ đợi giờ xuất hiện của nó ở bên dưới mặt đất.
Những
ngọn núi lui mình về trên cao, trả lại thế giới cho một mùa ấm áp. (Vào
mùa
đông, khi thung lũng khép mình lại vì giá lạnh, những ngọn núi ùa
xuống, xúm
lại, và gầm rú với những chiếc hàm giận dữ của chúng bên trên thành phố
bên
hồ).
Vào
những ngày đó, cột phát
tín đài phát thanh chưa được xây cất, và ngôi đền Sankara Acharya, một
cái vòm
nho nhỏ mầu đen ở trên đồi mầu xanh kaki, vẫn còn ngự trị ở bên trên
những
đường phố và con hồ Srinagar. Vào những ngày đó, chưa có trại lính ở
bên cạnh
hồ, chưa có những con rắn dài ngoẵng, là những đoàn công voa xe cam
nhông, xe
díp nhà binh ngụy trang nối đuôi nhau trên những con đường ngoằn ngoèo
bên sườn
núi, chưa có những binh lính ẩn mình ở những chỏm núi quá Baramulla và
Gulmarg.
Vào những ngày đó, khách du lịch chưa bị bắn bỏ như là những gián điệp
nếu họ
có lỡ chụp hình những cây cầu, và, ngoại trừ những chiếc thuyền được sử
dụng
như những căn nhà để ở của người Anh ở trên mặt hồ, thung lũng gần như
chẳng
thay đổi chi nhiều, kể từ thời Đế quốc Mông cổ, với không gian, thời
tiết thay
đổi, trở thành mới tinh cùng với mùa xuân trở lại; nhưng đôi mắt của
ông tôi,
như tất cả những gì còn lại của ông, một người hai mươi lăm tuổi – nhìn
sự vật
một cách khác… và cái mũi của ông bắt đầu ngọ ngoạy.
Hãy bật
mí, sự bí mật làm
thay đổi cái nhìn của ông tôi: ông trải qua năm năm, năm mùa xuân, xa
nhà. (Dúm
đất quyết định, mặc dù nó hiện diện một cách ngẫu nhiên ở bên dưới tấm
thảm cầu
nguyện mà ông tôi đã quỳ lên, tác động của nó, ở vào lúc thoạt kỳ thuỷ,
thì
cũng chẳng khác gì một chất xúc tác). Bây giờ, trở về nhà, ông nhìn
cảnh vật
qua con mắt của một kẻ du lịch. Thay vì thung lũng nhỏ bé, xinh xắn,
được bao
bọc bởi những chiếc răng của một tên khổng lồ, ông cảm nhận sự chật hẹp
của nó,
và sự gần gụi của đường chân trời: trở về nhà, bị giam cầm trong không
gian tù
túng, chật hẹp, ông thấy buồn bã. Ông còn cảm thấy – và điều này không
làm sao
giải thích được – nơi chốn cũ, căn nhà xưa trách cứ ông, và sự trở về
như là
một con người có học, cùng với cái ống chẩn bệnh. Dưới cái lạnh giá của
mùa
đông, xứ sở ông có vẻ lạnh lùng dửng dưng. Không hồ nghi gì hết, những
năm
tháng du học tại Đức đã biến ông trở thành thù nghịch với môi trường
quê hương
cũ. Nhiều năm sau đó, khi cái lỗ hổng ở bên trong ông được lấp đầy bằng
hận
thù, ông tới dâng mình trước bàn thờ vị thần đá đen, trong ngôi đền
trên đỉnh
đồi, ông mơ màng nhớ lại những mùa xuân thiên đàng thời thơ ấu của ông,
trước
khi cuộc du lịch, dúm đất, và những chiếc xe tăng nhà binh làm tan tành
tất cả.
Vào
buổi sáng, khi thung lũng
như được vo tròn lại thành chiếc thảm cầu nguyện, và, tấm thảm cầu
nguyện biến
thành chiếc găng tay nện cho ông tôi một cú vào mũi, đúng lúc ông đang
cố gắng
tưởng tượng, hay làm ra vẻ chẳng có gì xẩy ra. Và thế là ông nhỏm dậy,
trong
cái buốt giá 2 độ 5, tắm rửa, kỳ cọ thân mình đúng như được chỉ dẫn, ăn
vận
chỉnh tề, đội lên đầu chiếc mũ astrakhan
của cha ông, sau đó, ông ôm chiếc thảm cầu nguyện được cuộn tròn như
điếu xì gà
khổng lồ, và đi vô khu vườn nhỏ ở bên hồ ở phía trước căn nhà u ám, cũ
kỹ của
gia đình và trải nó ra miếng đất đang chờ đợi. Mặt đất mềm mại dưới
chân làm
ông thất vọng, như thể bị đánh lừa, và điều này khiến ông có cảm giác
ngần ngại,
bất an. “Nhân danh Thượng Đế, Thương Xót Chúng Sinh, Từ Bi…” - đoạn mào
đầu, và
kiểu vòng hai tay khẩn cầu, nói như một cuốn sách đang mở làm sống lại
một phần
người của ông, nhưng lại làm cho phần còn lại lớn lao hơn nhiều kia cảm
thấy
khó chịu. “Vinh Danh Chúa Allah, Chúa Tể Sáng Tạo….” – nhưng đúng vào
lúc đó,
Heidelberg xâm nhập ông; đây là Ingrid, hay ngắn gọn, Ingrid của ông,
với bộ
mặt khinh bỉ, mi là con vẹt đang láp báp, cái đầu hướng về Đất Thánh
Mecca, đây
là những bạn bè của họ, Oskar và Ilse Lubin, những tên vô chính phủ,
chúng chế
nhạo lời cầu nguyện của ông với chủ trương bài bác ý thức hệ của chúng
–
“Thượng Đế Đầy Thương Xót, Trắc Ẩn, Đấng Từ Bi, Chúa Tể của Phán Xét
Cuối
Cùng!...” – Heidelberg là nơi, qua đó, cùng với môn học y khoa và chính
trị,
ông hiểu ra rằng Ấn Độ - như phóng xạ - đã được những người Âu châu
“khám
phá”ra; ngay cả Oskar cũng trầm trồ ngưỡng mộ Vasco da Gama, và điều
làm ông
tách ra khỏi đám bạn bè, đó là niềm tin của họ, qua đó, ông, một cách
nào đó là
một phát minh của những tổ tiên của ông – ‘Hãy chiêm ngưỡng, thờ phụng
Mi, và
chỉ Mi là người mà chúng ta cầu cứu sự hỗ trợ” – và, ông, vào lúc này,
mặc dù
sự hiện diện của họ ở trong đầu, cố tái hợp với cái tôi trước đây, khi
chưa bị
ảnh hưởng nhưng hiểu biết tất cả mọi điều cần phải hiểu biết, thí dụ
như về sự
phục tùng, về điều mà ông đang làm vào lúc này, trong khi hai tay múa
may theo
sự dẫn dắt của hồi ức, ngón tay cái đè lên tai, mấy ngón tay kia xoè
ra, thân
hình ông khuỵ xuống theo hai đầu gối – “Xin dẫn dắt chúng con đi trên
con đưòng
ngay thẳng, chân chính, con đường mà Người đã lựa chọn cho họ”.. –
nhưng, ông
như bị chết cứng ở giữa hai dòng nước, giữa niềm tin và sự báng bổ, và
tất cả
cái trò này nói cho cùng chỉ là trò đố chữ - “Xin dẫn dắt chúng con
không trở
thành những kẻ khiến Người phẫn nộ, không trở thành những người lầm
đường, lạc
lối.” Ông tôi cúi rạp mình đưa cái trán chạm đất, và đất, được phủ bởi
tấm thảm
cầu nguyện cuộn tròn, phủ lên ông tôi. Và đó là khoảnh khắc xẩy ra hiện
tượng
“dúm đất”: Như một sự quở trách bất thình lình, nào
lse-Oskar-Ingrid-Heidelberg, nào thung lũng-và-Thượng Đế, chúng nhất tề
đấm cho
ông tôi một cú vào sống mũi. Ba giọt máu rớt xuống. Những viên hồng
ngọc, kim
cương. Và ông tôi, lập tức ngồi thắng người. Đứng dậy. Cuộn chiếc thảm
cầu
nguyện. Nhìn qua phiá bên kia hồ. Và, như chết sững ở giữa hai dòng
nước, ông
tôi không thể nào cầu nguyện Thượng Đế mà ông không còn tin vào sự hiện
hữu của
Người. Một sự thay đổi chung quyết, hằng hằng, mãi mãi: một lỗ hổng.
Vị bác
sĩ trẻ, vừa mới tốt
nghiệp, Dr Aadam cứ thế ngồi chết sững, nhìn đăm đăm ra mặt hồ mùa
xuân, hửi
hửi mùi vị của sự thay đổi; trong khi ông đưa cái lưng (ông ngồi cứng
đơ) hướng
về những sự thay đổi khác. Cha ông bị tim đánh gục trong khi ông ở nước
ngoài,
mẹ ông không báo tin cho ông, coi đó là một bí mật, ‘việc học của con
rất quan
trọng, con trai của mẹ’, bà thì thầm nói, bằng một giọng khắc kỷ. Bà mẹ
của
ông, suốt đời quanh quẩn lo việc trong nhà, với tấm khăn che mặt, bỗng
nhiên tỏ
ra là một con người thật mạnh mẽ, ra ngoài xã hội, trông lo công chuyện
làm ăn
của gia đình (một tiệm nhỏ bán đá quí, đồi mồi, hồng ngọc, kim cương),
nhờ vậy
Aadam có thể học xong y khoa, cùng với sự trợ giúp của một học bổng, và
khi ông
trở về thì trật tự gia đình tưởng chừng như chẳng bao giờ thay đổi, đã
lộn tùng
phèo, bà mẹ của ông thì ra ngoài làm việc, trong khi ông bố, ẩn náu
đằng sau
một tấm màn, não tê liệt sau cú sốc tim, ngồi
trên một chiếc ghế gỗ, trong một căn phòng tối,
gây ra những tiếng
động giống như tiếng chim. Chừng ba chục loài chim khác nhau tới thăm
ông, đậu
trên thành cửa sổ có chấn song. Chúng ríu ra ríu rít nói chuyện với
ông, và,
ông tỏ ra khá hạnh phúc.
(… Và
tôi như nhìn ra sự lập
đi lập lại của sự bắt đầu, bởi vì bà tôi chẳng to lớn rềnh ràng hay
sao… cú sốc
tim đâu phải độc nhất… và Con Khỉ bằng Đồng đã có những con chim… lời
nguyền
rủa đã xẩy ra, vậy mà chúng tôi chẳng hay biết gì hết).
Hồ nước
không còn đóng băng.
Mùa băng tan tới thật nhanh như thường lệ, rất nhiều thuyền nhỏ, ngỡ
ngàng vì
băng tan, chuyện này thì cũng bình thường, trong khi những chiếc thuyền
đại lãn
này được kéo lên mặt đất khô, và đang ngủ ngáy khò khò bên cạnh chủ,
chiếc
thuyền già nua nhất thì đã cựa quậy, như những người già cả thường vẫn
như vậy,
và đó là chiếc thuyền đầu tiên di chuyển trên mặt hồ hết còn đóng băng.
Chiếc shikara của Tai… và chuyện này thì cũng
là thường lệ.
Hãy
nhìn ông già Tai đứng
nghiêng nghiêng sau mạn thuyền, thoải mái di chuyển trên mặt hồ xuyên
qua làn
nước mù sương. Cái mái chèo bằng lõi cây ở đầu cây gậy mầu vàng tung
tăng giữa
đám cỏ, ông già đứng trong khi chèo thuyền, và đó là một trong những lý
do
người ở đây nghĩ, ông già lắm rồi. Ông Tai cần gặp Dr. Aziz vì một
trường hợp
khẩn cấp và ông có vẻ như sẵn sàng làm cho lịch sử chuyển động… trong
khi Aadam
nhìn xuống làn nước, nhớ lại điều ông già Tai dậy ông nhiều năm trước
đó: “Băng
luôn luôn đợi ngay ở bên dưới mặt nước, chú bé Aadam biết không?” Aadam
có cặp
mắt mầu xanh trong, một mầu xanh trong đến ngỡ ngàng của bầu trời vùng
núi, vốn
có thói quen lặn vào trong mắt những người đàn ông Kashmir: Họ chưa
quên họ như
thế nào, ôi chao, ở đây, tại vùng này, họ như bóng ma, ngay ở bên dưới
mặt nước
hồ Lake Da! - một miền thanh nhã, những đường nét không mầu sắc đan
quyện nhau
như một mớ bòng bong, những nguồn mạch lạnh giá của tương lai đang chờ
đợi.
Những năm tháng ở Đức làm mờ đi mọi chuyện, nhưng không làm mất cái
nhìn tài
năng của ông. Quà tặng của Tai. Ông nhìn lên, con thuyền hình chữ V của
Tai
tiến lại gần, và giơ tay vẫy chào. Tai giơ tay – nhưng đó là một mệnh
lệnh.
“Hãy đợi!” Ông tôi đợi, và, lợi dụng thời khắc gián đoạn này - trong
khi ông
tôi trải qua sự bình an cuối cùng của cuộc đời, một thứ bình an lầy
lội, hắc ám
- tôi mô tả ông tôi.
Hãy bỏ
ra ngoài sự thèm muốn
của một người đàn ông xấu xí, khi đứng trước một cái đẹp gây ấn tượng,
và nếu
như thế, tôi có thể nói, ông tôi là một người cao lớn. Đứng thẳng
người, ép sát
vào bức tường nhà, chiều cao của ông tôi đo được hai muơi lăm hòn gạch
[một hòn
gạch cho mỗi năm của đời ông], hay, đúng “sáu phút hai”. Ông tôi còn là
một
người đàn ông mạnh mẽ. Bộ râu của ông thì rậm và mầu đỏ - nó làm mẹ ông
bực
bội. Bà nói, chỉ những Hajis, tức là những người đi hành hương tới Đất
Thánh
Mecca thì hãy nên để râu đỏ. Tuy nhiên tóc ông mầu tối đậm. Mắt của ông
xanh
trong mầu trời, điều này thì bạn biết rồi. Ingrid nói: “Họ phải khùng
về mầu
sắc, khi làm ra khuôn mặt anh”. Nhưng nét chủ chốt về tướng vị học, hay
cơ thể
học của ông tôi, thì không liên quan tới râu, hay tóc hay chiều cao,
hay sức
mạnh, hay cái lưng thẳng: Phản chiếu từ mặt nước, trông ông tôi như có
một quả
chuối khùng lắc lư ở ngay giữa mặt… Aadam, trong khi chờ đợi Tai, ngắm
nghiá cái
mũi rợn sóng của mình. Ngắm nghía bộ mặt của một người khác thì thấy đỡ
thê
thảm hơn là ngắm nghía bộ mặt của chính mình. Nhưng đâu phải chỉ một
mình ông
cảm thấy thê thảm như vậy: Ngay bạn bè, lần đầu tiên ngó mặt ông, là
nhớ đời.
“Một cái mũi cyranose,” Ilse Lubin nói, và Oskar nói thêm, “Một cái mũi
voi”,
còn Ingrid thì thông báo, “Bạn có thể băng qua sông nhờ một cái mũi như
vậy.”
(Cái cầu của nó thì rộng).
Cái mũi
của ông tôi: Lỗ mũi
tròn, loe ra như mấy người nhẩy múa. Giữa hai lỗ mũi, là cái sống mũi,
trông
giống như một khải hoàn môn chiến thắng, trước hết hiên ngang vọt lên
mãi, và
bung ra, rồi sau đó, hạ xuống và lặn vào, chạm môi trên của ông, bằng
một cú
phất tuyệt vời, và, vào lúc này, đỏ hon hỏn. Đúng là một cái mũi dễ hít
đất!
Tôi thật muốn đăng ký lòng biết ơn của tôi, đối với một cái mũi đáng nể
vì như
vậy - nếu không có nó, làm sao thiên hạ biết được, tôi thực sự là con
trai của
má tôi, và là cháu trai của ông tôi? Cái mũi khổng lồ đó chẳng phải là
cũng nằm
trong quyền lợi của tôi, từ khi mở mắt chào đời? Cái mũi của Bác sĩ
Aziz - chỉ
có thể so sánh được với nó, và thật xứng đáng để so sánh với nó, là cái
vòi của
Ganesh, vị thần đầu voi. Và chính vì có
một cái mũi như thế, mà chẳng ai có thể tranh cãi, hoặc nghi ngờ, quyền
của
ông, thế giá của ông, là của một vì trưởng lão, một bố già. Và chính là
Tai đã
dậy ông biết điều này. Khi thằng bé Aadam vừa mới qua tuổi dậy thì, ông
già
chèo thuyền nghèo xơ xác mạt rệp, tiên tri: “Đây là một cái mũi mà dựa
trên nó,
người ta có thể tạo dựng nên cả một gia đình, hoàng tử nhỏ của tôi ơi.
Chẳng
thể nào lầm được, những bầy đoàn máu mủ, từ cái mũi đó sẽ sinh sôi nẩy
nở mãi
ra, sẽ nhiều đến như thế nào. Những vị hoàng đế Mông cổ sẽ rất ư là
bằng lòng,
nếu phải đổi bàn tay phải của họ lấy một cái mũi như vậy. Ở bên trong
cái mũi
đó, là biết bao triều đại đế vương đang chờ đợi… “, và tới đây, thì ông
già
chèo thuyền Tai trở lại với sự thô lỗ của mình, “… giống như nước mũi
thò lò”.
(Tai
tiến lại gần hơn. Ông -
người phát giác ra quyền năng của cái mũi, và vào lúc này mang tới cho
ông tôi
một bức thông điệp và nó sẽ đẩy ông tôi vào tương lai - đang cố gắng
cho con
thuyền tiến tới trên mặt hồ vào một buổi sáng sớm).
Chẳng
ai nhớ, khi còn trẻ Tai
ra sao. Ông ta vẫn chèo cũng vẫn chiếc thuyền đó, đứng ở sau mạn thuyền
cũng
cái thế đứng khum khum như vậy, vẫy vùng ngang dọc hồ Dal, hồ Nageen…
mãi mãi,
hoài hoài. Cho đến nay như mọi người đều biết. Ông sống đâu đó, ở tận
cuối mớ
bòng bong, khúc ruột già dơ dáy của khu nhà gỗ có từ đời thuở nào, và
bà vợ
trồng rễ sen cùng ba thứ rau cỏ kỳ dị khác, trên một trong những khu
vườn nổi
bập bềnh trên mặt hồ, vào mùa xuân và mùa hạ. Tai, nhiều khi khôi hài,
nói
trạng về chính ông, “tôi chẳng còn nhớ tôi bao nhiêu tuổi, và chẳng có
một ý
nghĩ gì về chuyện đó”. Ngay cả bà vợ cũng hùa theo, “khi tôi lấy ông
ta, thì da
của ông đã già cằn giống như da thuộc rồi”. Mặt của ông là mặt của một
pho
tượng được tạc bằng gió và nước, răn reo như những gợn sóng trên mặt
hồ. Ông có
hai chiếc răng vàng, và chỉ có vậy. Trong thành phố, ông có một ít bạn.
Vài
người bạn cũng chèo thuyến như ông, hay vài người bạn làm ăn, họ mời
ông chia
sẻ cùng với họ một ống điếu, khi ông bơi thuyền tới khu buộc neo của
những
chiếc shikara, hay tới khu những cửa
hàng dự trữ thực phẩm, nằm xiêu vẹo kế bên hồ, hay những tiệm bán trà.
Ông già
của Aadam, vị thương
gia chủ cửa tiệm bán đá quí đưa ra một nhận xét chung chung về Tai, từ
nhiều
năm trước: Ông ta té xuống với những chiếc răng của ông. Như vậy có
nghĩa: Bộ
não của ông ra đi cùng với bộ răng của ông. (Nhưng bây giờ, ông thương
gia già
sahib Aziz thì ngồi một chỗ, thất lạc bộ óc, ở giữa những tiếng chim
kêu líu
lo, trong khi Tai vẫn cứ thế tiếp tục, một cách lớn lao, và giản dị).
Ấn
tượng mà ông già chèo
thưyền tạo ra được về ông, là do cách trò chuyện kỳ diệu, khoa trương,
không
ngừng, thường xuyên không chỉ để nói về chính mình. Âm thanh vọng đi
mãi thật
xa, theo mặt hồ, và những con người của con hồ sẽ cười khúc khích khi
nghe
những lời độc thoại của ông, nhưng chỉ cười nửa giọng, vì khiếp sợ. Sợ,
bởi vì
ông già khờ khạo này quá rành rẽ những con hồ cũng như những ngọn đồi
so với
bất cứ người nào dèm pha ông. Khiếp, là vì yêu sách của ông đối với cõi
xưa,
đòi hỏi của ông đối với sự tồn cổ thì bao la đến nỗi đừng hòng năm
tháng tính
đếm cho nổi, và hơn nữa, sự đòi hỏi cổ xưa như thế, nó lòng thòng quấn
quanh
cái cổ giống như cổ gà của ông, và chính nó cũng không ngăn cản ông
được lòng
một cô gái đáng yêu, lấy cô làm vợ và có được bốn người con trai với
cô… và còn
có thêm vài đứa khác nữa, câu chuyện cứ thế tiếp tục, ở bên bờ phiá bên
kia của
con hồ. Đám nhóc tì hay ba hoa ở khu bến neo thuyền tin rằng ông già có
cả một
đống tiền giấu ở đâu đó - một kho, có thể, gồm toàn những chiếc răng
vàng vô
giá, kêu lắc cắc trong một cái túi giống như hạt dẻ. Những năm sau đó,
khi Chú
Puffs tính bán cho tôi cô con gái của ông bằng cách dụ khị, sẽ thay hết
những
chiếc răng của cô con gái của ông bằng răng vàng, tôi bỗng nhớ tới kho
tàng bị
bỏ quên của ông già Tai… và, khi còn là một đứa bé, Aadam Aziz rất quí
mến ông.
Ông
giản dị sống cuộc đời của
ông, như là một người chèo thuyền, mặc dù những lời đồn đại về sự giầu
có. Ông
chở cỏ khô, dê, rau cỏ, và gỗ dọc theo những con hồ để lấy tiền; và chở
khách
đi thuyền nữa. Khi làm tài xế tắc xi thuyền như vậy, ông dựng một cái
lều vải
nhỏ thật xinh đẹp ở giữa thuyền, trang hoàng bằng những chiếc màn hoa,
và một
cái vòm với những cái nệm xứng hợp, và thắp hương cho con thuyền thơm
tho. Cảnh
tượng chiếc thuyền của Tai mỗi lúc tiến lại gần, với những bức màn bông
hoa sặc
sỡ, bay bướm, đối với vị bác sĩ Aziz, đó là một trong hình ảnh đẹp báo
tin mùa
xuân trở về. Những sahibs người Anh chẳng bao lâu sẽ tới, và Tai sẽ chở
họ tới
thăm những khu vuờn Shalimar Gardens, và vị Mùa Xuân của Hoàng Đế sẽ
cúi
nghiêng người, ba hoa, nói chuyện tếu. Ông là phản đề sống động của
niềm tin
của Oskar-Ilse-Ingrid vào sự vô phương thay đổi… một tinh thần của
thung lũng,
diễu cợt, quen thuộc, và cứ như thế mãi. Một chai nước Caliban, thay vì
một thứ
rượu brandy rẻ tiền của vùng Kashmir.
Hồi ức
về bức tường mầu xanh
của phòng ngủ của tôi: trên bức tuờng đó, bên cạnh bức thư của Thủ
Tướng, là
bức chân dung của Boy Raleigh đã treo đó từ nhiều năm, nhìn một cách
say mê một
ông già câu cá, trong cái khố đỏ, ngồi trên – cái gì? - một thân cây –
và giơ
tay chỉ ra biển trong khi kể về những chuyến đánh cá của ông ta, và Cậu
Bé
Aadam, sau này là ông tôi, đã mê liền anh thuyền chài Tai, chính là do
những
câu chuyện tràng giang đại hải, những câu chuyện khiến những người khác
nghĩ là
ông ta dở hơi. Đó là những lời nói ma thuật, những lời nói tuôn ra khỏi
miệng
ông ta giống như tiền bạc của người khờ, lọt qua hai chiếc răng vàng,
thấm đẫm
mùi rượu từ những cú nấc, vọng tới cõi xa vời của quá khứ, đâu đó mãi
tít trên
những ngọn đỉnh của rẫy Hy mã lạp sơn, rồi trở xuống hiện tại, bằng
những nét
chấm phá tươi rói của chuyện thường ngày, cái mũi của Aadam, thí dụ như
vậy.
Tình bạn của họ làm Aadam thường xuyên bị bỏng nước nóng, đúng như vậy,
khi bà
mẹ của ông tắm cho ông, và bà nói, ta sẽ giết những con rệp của tên
khùng,
trước khi để cho nó giết mi. Nhưng ông già vẫn tiếp tục nhẩn nha chèo
thuyền
cùng với những câu chuyện độc thoại của ông ở bên rìa hồ kế cận khu
vườn, và
Aadam sẽ ngồi dưới chân ông ta, cho tới khi có tiếng nói từ trong nhà
kêu vô,
để lên lớp về cái sự dơ dáy của ông già chèo thuyền, hay là để cảnh cáo
cậu bé
về những binh đoàn kẻ cướp là đám vi trùng mà bà mẹ nhìn thấy chúng
đang từ cái
thân thể cổ xưa và rất ư là hiếu khách xâm nhập cái quần dài lòng thòng
của đứa
con trai của bà. Nhưng Aadam luôn luôn trở ra lại bờ hồ để chăm chú
theo dõi
đám sương mù, tìm bóng dáng nghiêng nghiêng, trong bộ đồ rách tả tơi,
đáng sợ
đang chèo con thuyền mầu nhiệm của ông trên mặt hồ thần tiên vào một
buổi sáng.
“Nhưng
ông thực sự bao nhiêu
tuổi, Taiji?” (Dr. Aziz, khi đã lớn, râu đã đỏ, nghiêng người về tương
lai,
bỗng nhớ lại lần ông đưa ra câu hỏi cấm đoán). Trong một thời khắc lặng
thinh
nhưng ầm ĩ còn hơn cả một giọt nước rớt xuống. Dòng độc thoại đứt.
Tiếng mái
chèo đập trên mặt nước. Ông lúc đó đang ở trong chiếc thuyền cùng với
Tai, giữa
đám cừu, trên một đống rơm, hoàn toàn ý thức về thỏi xà bông cạo râu và
cái bồn
tắm đang đợi ông ở nhà. Ông tới đây là để nghe những câu chuyện kể của
ông già
chèo thuyền, và chỉ một câu hỏi lố bịch làm ngưng tất cả.
“Đừng,
đừng. Tai, hãy nói cho
tôi biết, ông thực sự bao nhiêu tuổi?”.
Và bây giờ, là một chai rượu
brandy, không
biết được làm ra từ đâu, loại rẻ tiền, lấy ra từ những nếp gấp của
chiếc áo
choàng húp-lăng rộng ấm. Rồi một cái rùng mình, một cú ợ, một ánh mắt
riễu cợt.
Một ánh phản chiếu mầu vàng. Và - sau
cùng, tiếng nói cất lên. “Bao nhiêu tuổi? Cậu
hỏi tôi bao nhiêu tuổi ư, chú bé đầu ướt, chú bé
mũi bự…“.
Tai,
ông già chèo thuyềm như
đứng thẳng đứng, sát vào tường, trong căn phòng của tôi, đưa ngón tay
chỉ lên
những ngọn núi. “Già như lũ núi non kia, chú bé con ơi” Aadam, chú bé
con mũi
bự nhìn theo ngón tay chỏ của ông già chèo thuyền. “Ta đã từng chứng
kiến lũ
núi kia sinh ra. Ta đã từng nhìn thấy những vị Hoàng đế đi về lòng đất.
Nghe
đây, nghe đây, chú bé… “. Và, tiếng nói đi theo tiếng rượu nói, và
những lời lẽ
thốt ra đẫm mùi thứ nước tẩm độc, nhừa nhựa, nặng như chì – “Ta đã nhìn
thấy
đấng Isa, Đấng Christ, khi Người tới Kashmir. Hãy cười đi, cười đi. Câu
chuyện
về cuộc đời chú bé ta thuộc lòng ở trong đầu ta. Đã có một lần nó đã
được viết
ra, ở trong những cuốn sách cổ đã mất. Một lần, ta biết nơi có một nấm
mồ với
những bàn chân bị chọc thủng được khắc lên tấm bia mộ, cứ mỗi năm chảy
máu một
lần. Bây giờ trí nhớ của ta mòn mỏi dần, nhưng ta biết, mặc dù ta không
thể
đọc. Mù chữ, chữ là cái quái gì, ông già vung tay gạt phắt, văn chương
ư, quặt
ngược bàn tay gạt bỏ luôn. Rồi thò tay vô túi áo
choàng, lấy chai rượu, đưa lên môi lạnh ngắt. Tai
luôn có cặp môi đàn
bà. “Chú bé, nghe đây, ta đã nhìn thấy quá nhiều chuyện. Chú bé phải
nhìn thấy
cái cảnh Isa tới đây, râu dài tới tận dái, và đầu hói giống như quả
trứng. Ông
ta già, mệt lả, nhưng biết đâu ra đấy. “Taiji, trước tiên”, ông ta nói,
và,
“Làm ơn ngồi xuống đây”, giọng nói trịnh trọng, ông ta chưa bao giờ coi
ta như
là thằng dở hơi. Không bao giờ gọi ta bằng “mày”. Luôn luôn aap. Lịch
sự, phải
không? Ui chao bữa ăn mới ngon làm sao. Và ta mới đói làm sao. Đói đến
nỗi muốn
gặm luôn cả tai của ta, đói khủng khiếp. Thần thánh hay quỉ sứ, ta thề,
ông ta
có thể xơi trọn cả một đứa bé liền một nhát. Và rồi sao? Ta bảo ông ta,
hãy ăn
đi, hãy lấp đầy cái lỗ hổng, con người tới Kashmir là để hưởng thụ cuộc
đời,
hay là để chấm dứt nó, hay là cả hai. Công việc của ông ta kể như xong.
Ông ta
tới đây chỉ là để hưởng thụ chút còn lại. Như bị thôi mien bởi chân
dung với chai
rượu của một Đấng Ky Tô đầu hói giống như quả trứng, ham ăn ham uống,
Aziz lắng
nghe, và sau đó lập lại không thiếu một từ, trước cặp mắt khiếp đảm của
bố mẹ,
vốn chỉ để tâm đến những viên đá quí, và chẳng phí thì giờ với ba
chuyện tầm
phào, bá láp.
“Vậy là
chú bé không tin ta?”
ông già chèo thuyền liếm cặp môi đau nhức của mình bằng một cái cười
rách tới
tận mang tai, biết rõ, đúng là điều ngược lại. “Hay là chú đang mải
nghĩ một
chuyện gì khác?” - lại nữa, ông già rất rành, thằng bé đang nuốt từng
lời ông
thốt ra, chẳng sót một từ. “Hay là mấy cọng rơm làm chú bé nhột?” “Ô,
ông xin
lỗi, babaji, ông đã quên không đem cho chú mấy chiếc gối nệm bằng lụa,
thêu kim
tuyến – đúng thứ mà Hoàng đế Jehang vẫn thường để đít của Ngài lên! Chú
chỉ
nghĩ đến Ngài như là một nhà làm vườn, bởi vì ngài đã xây dựng nên
Shalimar,
đúng không?,” Tai buộc tội ông tôi, “bởi vì ông xây nên Shalimar. Ngu
quá! Tên
của ông ta có nghĩa là ‘Kẻ đã bao quanh trái đất’. Tên như vậy mà là kẻ
làm
vườn ư? Chỉ có Trời mới biết, bây giờ người ta dậy dỗ trẻ con như chú
bé như
thế nào. “Trong khi ta”… ông hít hà một chút… “Ta biết rõ ông ta cân
nặng chính
xác là bao nhiêu, tới từng tola [tola: đơn vị đo sức nặng, bằng 11,66
g]. Hãy
hỏi ta, bao nhiêu maunds [đơn vị đo sức nặng, bằng 82,28 livres], bao
nhiêu
seers! [2,06 livres]. Khi hạnh phúc, ông ta nặng hơn và khi ở Kashmir
ông ta
hạnh phúc nhất, so với tất cả các nơi khác. Ta thường khiêng kiệu của
ông ta…
Không, không, chú bé lại không tin ta ư, quả dưa chuột lớn ở giữa mặt
chú lại
lắc lư giống như trái dưa chuột nhỏ ở trong ống quần ngủ của chú, đúng
không?
Nào, nào, hãy hỏi ta đi! Hãy đưa ra nhận xét! Hãy hỏi ta, sợi dây da
vòng qua
cây đòn khiêng kiệu bao nhiêu vòng – câu trả lời là 31 vòng. Hãy hỏi ta
từ cuối
cùng Hoàng đế thốt ra trước khi chết là từ gì – đó là từ “Kashmir”, ta
nói cho
chú bé biết. Hơi thở của ông già chèo thuyền thì không thơm tho gì,
nhưng ông
có trái tim thật tốt. “Chú bé nghĩ, ta là ai? Một kẻ làng nhàng vô học,
một con
chó hoang, một tên dối trá? Đi đi, hãy
ra khỏi thuyền của ta, cái mũi của chú bé quá nặng, hết chèo thuyền
nổi, lại
còn ông già của chú đang đợi để gõ đầu chú cho văng hết ba chuyện làm
xàm mà ta
kể cho chú nghe, hay là bà mẹ đang chờ nhấn chú vô nước sôi để tẩy sạch
da của
chú.”
Trong
chai rượu brandy của
ông già thuyền chài Tai, tôi nhìn thấy, biết trước được, của cải của
chính cha
tôi nhờ những vị thần… và sẽ có một người ngoại quốc khác, đầu hói… và
những
lời nói tào lao của Tai tiên tri một thứ khác, và là niềm an ủi cho
tuổi già
của bà tôi, và dậy cho bà tôi những câu chuyện… và những chó dữ hoang
thì không
xa… Đủ rồi. Tôi tự làm cho tôi sợ.
Mặc dù
đánh đập, mặc dù nhấn
nước sôi, Aadam vẫn trôi nổi cùng với Tai trên chiếc thuyền của ông
già, lần
này, lần nữa, lần nọ, giữa những con cừu, cỏ khô, bông hoa, bàn ghế, tủ
gỗ, rễ
sen, tuy nhiên, chẳng bao giờ với những sahibs người
Anh, và nghe lần này, lần nữa, lần nọ những câu
trả lời lạ lùng,thần
diệu, trước câu hỏi thật đáng sợ, vẫn chỉ một câu hỏi: “Nhưng Taiji,
ông bao
nhiêu tuổi, thực sự?”
Qua
Tai, Aadam học được những
bí mật của con hồ - nơi bạn có thể bơi lội mà không bị kéo xuống sâu
bởi những
đám cỏ, và 17 thứ rắn nước khác nhau, nơi nào sương mù dâng lên, cách
nấu rễ
sen, và nơi nào mấy năm trước ba phụ nữ người Anh chết đuối. “Có một bộ
lạc những
người đàn bà ‘feringhee’ tới đây để chết đuối.” Tai nói, “Đôi khi họ
biết điều
này. Đôi khi không, nhưng ta biết, ngay từ phút ta ngửi họ. Họ trốn ở
dưới
nước, Trời biết, trốn điều gì hay trốn ai, nhưng họ không thể trốn ta, baba!” Tiếng cười của Tai dâng lên, lây
qua Aadam - một tiếng cười to lớn, nở rộng mãi ra, thật khủng khiếp, ma
quái,
khi nó thoát ra khỏi thân thể ông già khô cằn, tuy nhiên, ở nơi ông
tôi, với
thân hình khổng lồ, nó trở nên thật tự nhiên, đến nỗi sau này, ai cũng
nghĩ,
tiếng cười đó là của ông (ông chú Hani của tôi được thừa hưởng tiếng
cười này,
bởi vậy, đến khi Tai chết, một phần của ông vẫn sống ở Bombay). Và,
cũng vậy,
qua Tai, ông tôi biết về những cái mũi.
Tai gõ
gõ lỗ mũi bên trái.
“Chú bé, chú biết cái gì đây? Đây là chỗ mà thế giới bên ngoài gặp thế
giới bên
trong chú. Nếu chúng không chịu nhau, chỗ này này cho chú biết liền. Và
chú bèn
bóp bóp cái lỗ mũi của chú để tống khứ cái ngứa ngáy khó chịu đi. Một
cái mũi
như thế đúng là một quà tặng của ông Trời, chú bé ngu si có biết không?
Hãy tin
đi, chú bé. Khi nó cảnh giác chú, hãy coi chừng, hãy cẩn thận, nếu
không là
tiêu. Hãy đi theo cái mũi, và chú sẽ đi xa. Ông già khặc khặc thông cổ
họng,
cặp mắt đảo ra xa, và nhập vào những núi non của quá khứ. Aziz ngồi
ngay ngắn
lại trên mớ rơm. “Một lần, ta biết một tay sĩ quan trong quân đội
Iskandar Đại
Đế. Đừng để ý đến chuyện tên của ông ta là gì. Ông ta có quả dưa chuột,
y hệt
như chú ở giữa hai con mắt. Khi đoàn quân dừng chân ở gần Ganhara, ông
ta mê
một cô điếm địa phương. Thế là cái mũi của anh ta phát khùng, ngứa điên
lên,
nhưng vô ích. Anh ta hít hơi nước sôi xông lá khuynh diệp. Chẳng ăn
thua gì
hết, ha ha! Những cơn ngứa làm anh ta khùng, nhưng tên khùng này đâu có
biết,
và khi đoàn quân rời đi, anh ta ở lại với cô điếm địa phương. Anh ta
trở thành
– cái gì, một tên khùng điên, vô dụng, ngày càng vô dụng, khùng điên,
với cô vợ
tối ngày mè nheo, và với cái mũi ngứa, và sau cùng, anh ta bèn xọc cây
gươm vô
bụng mình, cho rảnh nợ! Chú nghĩ thế nào về chuyện này?
… Dr
Aziz, vào năm 1915, khi
những viên đá quí ngày một đội nón ra đi, bỗng nhớ đến câu chuyện trên
trong
lúc Tai mỗi lúc tiến lại gần cùng chiếc thuyền và hai bên đã nghe được
tiếng
nói của nhau. Cái mũi của ông vẫn đang ngứa, Ông gãi gãi, nhún vai, lắc
đầu một
cách bất cần, và Tai la lớn:
-Ui,
ui! Bác sĩ Sahib! Con
gái của Ghani, chủ đất, bị bịnh!
Cái
tin, được thốt ra bằng
một giọng nói thẳng băng, chẳng cần rào đón gì hết, lướt nhanh trên mặt
nước
hồ, tuy ông già chèo thuyền và đệ tử chưa từng gặp lại cả nửa thập
niên, từ
miệng người đàn ông có cặp môi của người đàn bà, cặp môi không cười
thay cho
lời chào hỏi lâu lắm mới gặp lại, tất cả những điều đó có vẻ đẩy thời
gian vào
một cơn phẫn kích, xốn xang, ào ào, hung hãn, và mù mờ, không làm sao
mà tách
bạch ra được….
… “Hãy
suy nghĩ, con trai của
mẹ’, bà mẹ của Aadam nói, trong lúc bà uống từng ngụm, ly nước chanh
tươi,
trong lúc ngả người vào thành ghế, trong một dáng diệu mệt nhoài, kiệt
sức,
“cuộc đời cuối cùng lại đến nước như thế này. Trong bao nhiêu năm,
những cái
mắt cá chân của mẹ là một điều bí ẩn, vậy mà nay, mẹ phải chường mặt ra
trước
những kẻ không phải là người trong gia đình”.
… Trong
lúc ông chủ đất Ghani
đứng dưới một bức tranh sơn dầu lớn, Diana the Hunteresse [người thợ
săn nữ],
được đóng khung bằng vàng, trang điểm những nét hoa mỹ. Ông đeo cặp
kính dầy,
với nụ cuời rắn rết, và đang bàn về nghệ thuật. “Tôi mua bức tranh này
từ một
người Anh đang lúc gặp vận rủi, Bác sĩ Sahib. Chỉ tốn có năm trăm rupi.
Tôi
chẳng ngại ngần mà không dìm giá. Năm trăm rupi là gì? Tôi là người yêu
văn
hóa.”
… “Con
thấy không, con trai
của mẹ,” bà mẹ Aadam nói trong lúc anh quan sát mẹ, “Bà mẹ nào mà không
lo cho
con. Con thấy mẹ khổ sở chứ. Con là bác sĩ, con có nhìn thấy những nốt
ban đỏ,
mẹ cảm thấy đau đầu sáng trưa chiều, lúc nào cũng thấy đau. Rót đầy ly
cho mẹ,
con trai của mẹ”.
… Nhưng
vị bác sĩ đã nhận ra
sự hốt hoảng, nỗi thống khổ trong tiếng la của ông già thuyền chài, và
ông la
lớn, “Tôi lấy dụng cụ và ra liền bay giờ”. Mũi thuyền lúc này đã chạm
vô mép
vườn. Aadam chạy vội vô nhà, chiếc thảm cầu nguyện cuốn tròn dưới cánh
tay, cặp
mắt xanh nhấp nháy trong bóng tối bất chợt bên trong nhà, ông để cuộn
thảm lên
chiếc giá cao, bên trên lố sách gồm những cuốn Vorwart, Làm
gì? của
Lenin, và những pamphlets khác, chúng
là những vang động đầy bụi bậm của nửa đời đã nhạt nhoà của ông, khi ở
Đức, ông
lấy ra từ bên dưới giuờng ngủ cái cặp đồ nghề bác sĩ, mẹ ông gọi là
“doctoris-attaché’, và khi ông xoay người cùng chiếc cặp, đứng lên,
chạy ra
khỏi phòng, những chữ HEIDELBURG có thể lờ mờ nhận ra, chúng được nung
đỏ bằng
lửa, và đóng lên mặt da, ở dưới đáy cặp. Con
gái của vị chủ đất là một tin lành, thực sự là
như vậy, đối với một
vị bác sĩ trong sự nghiệp cứu người, luơng y như từ mẫu, ngay cả nếu cô
gái
đang bịnh. Không, phải nói như thế này: Bởi vì nàng bịnh.
… Trong
lúc tôi ngồi như một
cái bình giấm trống trơn trên một cái ao, đầu óc chứa đầy hình ảnh của
ông tôi,
và cuộc thăm viếng của ông cách đây sáu muơi ba năm, ông muốn được mọi
người
ghi nhớ, mũi cay xè mùi hôi thối nặng nề do mụn nhọt áp xe của bà mẹ
của ông
tôi, và chính sự bực bội khiến bà phải ra ngoài, với sự quyết tâm của
Aadam,
phải thành công trong nghề y sĩ để bà mẹ không bao giờ phải trở lại với
cửa
tiệm bán đá quí, mùi mốc meo tù túng của một căn nhà lớn ẩm thấp, tối
tăm,
trong đó, vị bác sĩ bực bội đứng nhìn bức tranh một cô gái với đôi mắt
linh
hoạt, và đằng sau cô, là một con hươu được đóng chặt vào nền chân trời,
bởi mũi
tên từ cây cung của cô gái. Hầu hết những câu chuyện, những sự kiện
liên quan
đến cuộc đời chúng ta, thì đều xẩy ra, khi chúng ta không có mặt, nhưng
hình
như tôi biết được, ở đâu đó, một cái mánh lới nhờ nó mà lấp đầy những
lỗ hổng
hiểu biết của mình, nhờ vậy mà mọi chuyện đều ở trong đầu tôi, tới từng
chi
tiết, giống như sương mù tan biến đi theo cùng với buổi mai rạng dần…
tất cả
mọi chuyện, không chỉ một vài dấu vết mà người ta dựa vào đó để mà tiến
tới,
thí dụ như khi bạn mở một chiếc rương cũ đầy mạng nhện đã lâu lắm không
có
người mở ra.
… Aadam
rót ly rượu của bà
mẹ, và tiếp tục, bằng cặp mắt lo lắng, quan sát bà. “Mẹ thoa một chút
kem lên
những vết mụn đỏ, còn đau đầu thì đã có những viên thuốc uống, mấy cái
nhọt áp
xe thì phải mổ thôi. Mà có lẽ mẹ nên dùng khăn choàng mặt khi ở tiệm,
để tránh
những cái nhìn vô lễ… những sự phiền hà như vậy thường bắt đầu ở trong
tâm
trí…”.
… Tiếng
mái chèo đập nước, có
tiếng nhổ nước miếng xuống mặt hồ, Tai khạc nhổ, làm sạch cuống họng và
lẩm bẩm
một cách giận dữ: “Một việc ngon lành. Chú bé gà con khi ra đi chưa
biết một tí
gì, và khi trở về trở thành một vị bác sĩ sahib
lớn, với một cái bị lớn đầy những máy móc đồ nghề ngoại, và vẫn ngu
ngốc như
một con cú. Ta nói rồi, đúng là việc quá tệ.”
… Dr
Aziz ngọ ngoạy, chẳng
cảm thấy thoải mái, hết chân nọ tới chân kia, dưới nụ cuời của viên chủ
đất.
Thật khó mà thoải mái do sự hiện diện của ông chủ đất, kèm thêm nụ cười
như
vậy. Ông đang đợi một phản ứng, từ phía vị chủ đất, trước sự xuất hiện
lạ
thường của ông. Ông thường chứng kiến những phản ứng bất ngờ không làm
sao kiểm
soát được như vậy trước bộ dạng cao lớn, kềnh càng của ông ở những
người mới
gặp. Trước bộ mặt rất nhiều mầu sắc, trước cái mũi của ông… nhưng vị
chủ đất
Ghani không tỏ ra một dấu hiệu nào, và vị bác sĩ trẻ, đến lượt mình,
quyết định
sẽ không để cho vị chủ đất thấy ông không được thoải mái. Ông ngưng
động đậy
thân thể to lớn, nặng nề của mình. Cả hai đối diện nhau, người này
quyết tâm đè
bẹp [có vẻ như vậy] cái nhìn của người kia, dọ dẫm, xác định lập trường
của họ
trong tương lai. Và vị chủ đất chuyển thái độ, từ một người say mê nghệ
thuật
sang con người cứng rắn. “Đây là một cơ hội lớn cho anh đấy, chàng trai
trẻ
biết không?” Cặp mắt của Aziz lơ đãng nhìn vào bức tranh. Người ta có
thể nhìn
thấy những mảng lớn của làn da hồng đầy tàn nhang của Diana….
… Bà mẹ
của Aziz rên rỉ, lắc
đầu, “Không, con không biết. Chuyện con trở thành bác sĩ thì thật là
hãnh diện
cho gia đình, nhưng buôn bán đá quí là một chuyện khác. Khách hàng nào
vào tiệm
mua một con đồi mồi, khi chủ tiệm là một bà giấu mặt trong chiếc khăn
choàng?
Đây là vấn đề tin cậy trong buôn bán, giao dịch. Khách hàng sẽ nhìn
thẳng vào
mẹ, và mẹ thì cảm thấy đau đớn, bị mấy cái mụn nhọt hành hạ. Hãy đi,
đi, và
đừng bận tâm về bà mẹ khốn khổ của con.”
… “Đúng
là một niềm hãnh
diện”, Tai nhổ đánh toẹt một cái xuống mặt hồ. “Bị lớn, hãnh diện lớn,
Hà! Ở
nhà chúng ta không có đủ bị, khiến ông bác sĩ phải mang về thứ bị làm
bằng da
heo mà bất cứ người nào nhìn vô nó là cảm thấy dơ dáy, bẩn thỉu. Chỉ có
Thượng
Đế mới hiểu được ở bên trong có gì.” Bác sĩ Aziz, ngồi giữa những tấm
màn bông
hoa, ngửi mùi nhang hương, nhưng tư tưởng của ông thì lại hướng về một
bệnh
nhân đang đợi ông ở phía bên kia hồ. Những lời lầm bầm chua chát của
ông già
chèo thuyền Tai làm gián đoạn ý thức của ông, gây cú sốc dữ dội, một
mùi giống
như mùi nhà thương, bệnh viện lấn át mùi nhang… ông già như đang giận
dữ một
điều gì đó, vì một con điên rồ không thể hiểu được, và cơn điên rồ này
nhắm vào
gã đệ tử ngày xưa, hay đúng hơn, và kỳ quặc hơn, nhắm vào cái bị da của
tên đệ
tử. Bác sỉ Aziz cố gạ chuyện, “Bà vợ ông có khỏe không? Họ vẫn còn nhắc
tới cái
bị chứa những chiếc răng vàng của ông chứ?... Ông cố gắng nhắc lại tình
bạn cũ
kỹ giữa hai người, nhưng Tai lúc này đã hết chịu đựng nổi, chỉ muốn gây
sự, và
thế là những lời nói giận dữ của ông già chèo thuyền cứ thế tuôn ra.
Cái bị
Heidelberg run lẩy bẩy trước những lời nguyền rủa: “Cái bị da heo nhơ
bẩn, thứ
đồ cho đàn bà ngủ của nước ngoài đầy những mánh lới ngoại quốc. Đúng là
một cái
bị ghê gớm. Bây giờ, nếu một người nào gẫy tay, cái bị này sẽ không cho
người thầy
vườn bó nó bằng những lá thuốc. Bây giờ, một người đàn ông phải để vợ
nằm bên
cạnh cái bị và nhìn những con dao mở banh vợ ra. Đúng là một công
chuyện hay
ho, những điều mà người ngoại quốc nhét vào trong đầu những trai trẻ
của chúng
ta. Ta nói rồi: Đúng là một điều tồi tệ. Cái bị này sẽ cháy thiêu ở Địa
Ngục
cùng với những hòn dái của quỉ sứ.”
… Ghani
viên chủ đất lấy mấy
ngón tay gõ gõ vào những sợi dây nịt quần. “Một dịp may lớn, đúng như
thế.
Trong thành phố, họ nói nhiều điều tốt về ông bác sĩ. Học tập tốt,
trường dậy
tốt, nghề y sĩ tốt. Gia đình cũng khá tốt. Và lúc này vị nữ bác sĩ
riêng của
gia đình tôi bị bịnh, và đây là một cơ hội cho ông bác sĩ. Bà bác sĩ
của chúng
tôi bây giờ quá già, đau ôm hoài, và lại không được biết, không được
học những
thành quả mới nhất của y học. Tôi nói: y sĩ, hãy tự chữa cho chính
mình. Và tôi
nói điều này với ông: “Tôi hoàn toàn khách quan trong công chuyện làm
ăn. Những
tình cảm, tình yêu, tôi giữ riêng cho gia đình. Nếu một người nào làm
không tới
nơi tới chốn công việc mà tôi giao phó, xin mời đi chỗ khác! Ông hiểu
tôi chứ?
Vậy thì thế này: Con gái tôi Naseem thì không được khỏe. Ông hãy chẩn
bệnh và
coi sóc cho cháu một cách thật hết lòng. Hãy nhớ điều này, tôi có những
bạn bè;
và khỏe mạnh hay ốm đau thì cũng lên lên xuống giống như vậy.”
… “Ông
vẫn uống rượu ngâm rắn
để tăng thêm sinh lực chứ, Tai? Và vẫn ăn rễ sen không bỏ thêm gia
vị?”. Những
câu hỏi thăm dò, ngần ngại nhưng chẳng làm dịu cơn giận dữ của Tai.
Bác sĩ
Aziz bắt đầu chẩn
bịnh. Đối với ông già chèo thuyền, cái bị tượng trưng cho Nước Ngoài;
nó là vật
ngoại lai, kẻ xâm lấn, sự tiến bộ. Và, ‘đúng rồi, nó sẽ chiếm đoạt tâm
trí của
vị bác sĩ trẻ; đúng rồi, nó có những con dao, và chữa lành bịnh thổ tả,
bịnh
sốt rét, bịnh sởi; đúng rồi, nó ngồi giữa vị bác sĩ và người chèo
thuyền, và nó
làm cho hai người trở thành kẻ đối đầu. Bác sĩ Aziz bắt đầu chiến đấu,
chống
lại sự buồn bã, và chống lại cơn giận dữ của Tai, nó bắt đầu đầu độc,
biến
thành sự giận dữ của chính ông, rất ít khi bộc phát, và mỗi lần nó bộc
phát như
thế thì không làm sao biết trước được, và như đến từ những vùng sâu
thẳm ở bên
trong cơ thể ông, một tiếng gầm rú, một cơn tàn phá tan hoang, và rồi
biến mất,
để lại cho ông nỗi hoang mang, không hiểu tại sao mọi
người lại bực mình …
Họ tới
gần nhà Ghani. Một
người hầu đang đứng đợi chiếc thuyền, hai tay xiết chặt đặt cầu tầu
bằng gỗ.
Aziz cố chú tâm vào công chuyện đang tiến diễn.
… “Liệu
vị bác sĩ thường ngày
của ông bằng lòng chuyến thăm bịnh của tôi, Ghani Sahib?”
Lại một
lần nữa, một câu hỏi
ngần ngại được nhẹ nhàng để qua một bên. “Ô, bà ta sẽ bằng lòng. Bây
giờ, xin
đi theo tôi”.
… Người
hầu đợi nơi cầu tầu.
Tai giữ cho chiếc thuyền đừng chao động trong lúc Aadam trèo ra khỏi
thuyền,
chiếc bị trong tay. Và bây giờ, sau chót, Tai nói thẳng với ông tôi, vẻ
mặt
khinh miệt: “Hãy nói cho tôi biết điều này, ông bác sĩ: Trong cái bị
làm bằng
heo chết đó có một trong các thứ máy dùng để ngửi?” Aadam lắc đầu,
không hiểu
Tai muốn nói gì. Giọng Tai thêm khinh miệt: “Ông biết mà, cái máy giống
như cái
vòi voi”. Aziz hiểu ra, nói, “đó là cái ống nghe, hẳn nhiên là có
rồi.”. Tai
đẩy con thuyền ra khỏi cầu tầu. Nhổ toẹt. Chèo thuyền ra xa. “Tôi biết
rồi,”
ông già nói. “Bây giờ ông bác sỉ sẽ dùng cái máy đó thay cho cái mũi bự
của
ông.”
Ông tôi
cảm thấy chẳng mất
công giải thích cho ông già chèo thuyền cái ống nghe còn hơn cả hai cái
tai so
với một cái mũi. Ông cố gắng dằn sự bực mình, và nỗi oán giận của một
đứa bé bị
bầy đoàn bỏ rơi; và ngoài ra, còn một bệnh nhân đang chờ đợi. Tới đâu
hay tới
đó, bây giờ hãy để tâm tới sự quan trọng của giây phút này.
Căn nhà
thuộc gia đình giầu
có nhưng thiếu ánh sáng. Ghani góa vợ, và đám người làm hẳn là lợi dụng
sự kiện
này. Mạng nhện giăng cùng khắp, tại những góc nhà, và những lớp bụi dầy
chồng
chất lên nhau ở những rìa nhà. Họ đi xuống một hành lang dài; một trong
những
cánh cửa hé mở và qua đó, Aziz nhìn thấy một căn phòng trong tình trạng
ngổn
ngang, hỗn loạn. Đưa mắt thoáng nhìn và ánh phản chiếu từ cặp kính đen
của Ghani
khiến ông bác sĩ bất thình lình hiểu ra là vị chủ đất mù. Phát giác ra
điều này
càng làm ông thêm ngán ngẩm: một người mù mà lại hiu hiu tự đắc là sành
điệu,
là biết thưởng thức hội họa Âu Châu. Sự mù lòa của vị chủ đất còn khiến
ông
sửng sốt, ấy là vì ông không hề va đụng vào bất cứ đồ vật nào trong
nhà… Họ
dừng lại ở phía bên ngoài một cánh cửa gỗ tếch dầy. Ghani nói, “Hãy đợi
ở đây
một, hai chút,” và đi vô căn phòng bên trong cánh cửa dầy.
Những
năm sau đó, Aziz thề có
Trời, trong một, hai phút phù du, cô đơn đứng trước cánh cửa gỗ dầy,
nơi hành
lang tối om om đầy mạng nhện, trong căn nhà vị chủ đất, ông như bị hối
thúc bởi
một ước muốn không làm sao kiểm soát được, là quay lưng lại, và bỏ
chạy, chạy
thật nhanh, chạy thật xa, như hai cái cẳng của ông cho phép, và còn có
thể mang
nổi tấm thân đẫy đà của ông. Không hề bị bực bội bởi điều bí hiểm về
một người
yêu tranh mù, lục phủ ngũ tạng bên trong cơ thể của ông nhung nhúc
những con
côn trùng nho nhỏ, ngọ ngoạy, hậu quả của những lời lầm bầm trù ẻo độc
địa của
Tai, hai lỗ mũi của ông ngứa ngáy đến nỗi ông nghĩ, hay là mình bị
nhiễm trùng,
và ông cảm thấy hai chân ông, nặng như chì, bắt đầu ngọ nguậy ngược về
phía
sau, máu chạy rần rật làm hai má đỏ bừng, toàn cơ thể như bị đẩy tới
điểm không
thể quay trở lại, mồ hôi toát ra làm ướt đẫm hai chiếc vớ len. Ông trở
nên giận
dữ, mà không hề hay biết, mặt đỏ gay, tới lúc đó, bà mẹ của ông xuất
hiện trước
mặt ông, bà ngồi trên sàn nhà, trước một cái bàn thấp, cả bộ mặt phủ
một mầu đỏ
do chứng ban hành hạ, trong lúc cầm một con đồi mồi giơ lên phía ánh
sáng. Mặt
bà mẹ cũng có vẻ khinh miệt như ông già chèo thuyền Tai. “Đi, đi, nhanh
lên,”
giọng của bà là giọng của Tai, “Đừng đề ý đến bà mẹ già nua khốn khổ
này”. Aziz
thấy mình ấp úng, “Ôi mẹ ơi, đứa con của mẹ mới vô dụng làm sao. Amma,
mẹ ơi,
mẹ không nhìn thấy cái lỗ hổng ở giữa con, một lỗ hổng giống như trái
dưa hấu?”
bà mẹ nở nụ cuời yếu ớt. “Con luôn luôn là một đứa trẻ không có trái
tim,” bà
thở dài và biến thành con thạch sùng bò trên tường hành lang, lè lưỡi
về phiá
thằng con trai. Bác sĩ Aziz hết còn cảm thấy chóng mặt, và ông cũng
không biết
có phải ông vừa mới lớn tiếng, và tự hỏi không hiểu câu chuyện cái lỗ
hổng
nghĩa là thế nào, vào đúng lúc này, và nhận ra rằng, mình hết còn muốn
bỏ chạy,
và còn nhận ra, ông đang bị dòm chừng. Một người đàn bà bắp thịt nở
nang giống
như một nữ đô vật đang nhìn ông, và ra dấu mời ông đi theo bà vô căn
phòng.
Nhìn cái sari bà đang mặc, Aziz biết bà là một người làm, nhưng không
phải nô
lệ. “Trông ông xanh như tầu lá,” bà ta nói. “Những bác sĩ trẻ như ông,
khi tới
một căn nhà lạ, lá gan như bị đông lạnh. Tới đây, Bác sĩ Sahib, họ đang
đợi
ông.” Nắm chặt cái bị, ông đi theo bà qua cánh cửa bằng gỗ tếch tối
thui.
… Trong
căn phòng ngủ rộng,
cũng tối thui như phần còn lại của căn nhà, tuy nhiên, những ánh mặt
trời xuyên
cánh cửa sổ hình bán nguyệt ở phía trên cao bức tường chiếu sáng đám
bụi đang
nhẩy múa, và đồng thời chiếu sáng một cảnh tượng lạ thường vị bác sĩ
chưa từng
chứng kiến trong đời; một bức tranh quái dị khiến đôi chân của ông lại
muốn ngọ
ngoậy và lê dần về phiá cửa phòng: Thêm hai người đàn bà nữa, tướng tá
lực
luỡng chẳng khác gì những nữ đô vật nhà nghề, đứng thẳng người, cứng
ngắc, mỗi
người cầm một góc một chiếc khăn trải
giường. Hai tay họ dâng cao khỏi đầu khiến cái khăn trải giường treo lơ
lửng ở
giữa họ, trông giống như một bức màn. Vị chủ đất, từ trong bóng tối đột
nhiên
xuất hiện, để yên cho vị bác sĩ đứng sững sờ, mắt đờ đẫn
nhìn bức tranh quái dị chừng nửa phút, và khi
nửa phút sắp sửa chấm dứt, chưa một lời nào được thốt ra, đúng lúc đó,
vị bác
sĩ khám phá ra điều cần khám phá: Ở gần như đúng ngay giữa chiếc khăn
trải
giường, có một cái lỗ, được cắt xén một cách thật gọn gàng, đúng là một
cái
vòng tròn lớn, đường kính chừng bẩy inches.
“Đóng
cửa lại, ayah,” Ghani
ra lệnh cho nữ đô vật thứ nhất, và quay qua Aziz, giọng ra vẻ tâm sự:
“Thành
phố này có rất nhiều kẻ vô công rồi nghề, chúng chỉ tìm dịp để trèo vô
phòng
con gái tôi. Con bé cần,” ông gật gật đầu về phía mấy nữ đô vật, “những
người
bảo vệ”.
Aziz
vẫn tiếp tục ngắm miếng
vải trải giường đục lỗ. Ghani nói, “Được rồi, bây giờ ông có thể khám
bịnh cho
Naseem, con gái tôi. Nào, liền tức thì.”
Ông tôi
đưa mắt nhìn quanh
căn phòng.
“Nhưng
mà cô gái đâu, thưa
ngài Ghani Sahib?”, cuối cùng ông tôi bật ra lời.
Mấy phu
nhân nữ đô vật bèn nghinh
mặt lên, lấy tấn, vận bắp thịt nổi vồng, như sẳn sàng ra tay nếu thằng
cha bác
sĩ tính trổ mòi.
“A, tôi
hiểu sự bối rối của
ông.” Ghani lên tiếng. Nụ cười rắn độc của ông nở rộng thêm ra. “Mấy
người như
ông, từ Âu Châu trở về, thành thử đầu óc cũng không được bình thường,
quên mất
nhiều điều. Con gái tôi là một thiếu nữ đoan trang, điều này đúng ra
khỏi cần
nói. Làm sao mà con gái tôi có thể để lộ thân thể, dưới cái mũi của một
kẻ xa
lạ. Ông phải biết, tôi không cho phép ông nhìn con gái tôi, trong bất
cứ trường
hợp nào, vì vậy, tôi ra lệnh cho nó đứng ở phía sau tấm vải. Như một
đứa con
gái ngoan ngoãn”.
Giọng
Aziz trở nên hốt hoảng:
“Ghani
Sahib, Ngài làm ơn nói
cho biết, làm sao tôi có thể khám bịnh cho cô gái mà không nhìn thấy
cô?”
Ghani
cười tiếp.
“Ông
cho biết cần phải chẩn
bịnh khu vực nào, và tôi sẽ nói cho con gái tôi biết, để nó đứng sao
cho khu
vực đó lọt vào đúng lỗ hổng trên tấm vải. Thế là xong.”
“Nếu
như vậy thì xin Ngài cho
biết, cô con gái của Ngài kêu đau ở đâu?”, giọng ông tôi trở nên rền
rĩ.
Nghe
ông tôi nói thế, hai con
mắt của vị chủ đất đảo ngược như muốn lặn vào bên trong; nụ cười của
ông xoắn
lại thành một cái nhăn mặt, tỏ đau đớn, và trả lời, “Khổ thân con bé.
Nó kêu
đau dạ dày. Đau nhiều lắm. Đau dữ lắm.”
“Trong
trường hợp như vậy”,
ông tôi nói với đôi chút kiềm chế, “làm ơn nói với cô cho tôi coi dạ
dầy của
cô.”