|
Like
the Coleridge hero who
wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these
objects were
not of the second world, which had brought me so much contentment as a
child,
but of a real world that matched my memories.
Như nhân vật của
Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của
giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong Tứ
Khúc thì không
phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và
chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.
*
Những mối tình e ấp
, sót lại những sợi tơ vương vướng
đâu đó trong tâm hồn phần đông trong chúng ta, không giống như vết dao
vẫn còn
tươm máu mãi trong “Lan Hương” của tác giả Nguyễn Quốc Trụ . Anh có thể
lồng
bóng mình và người yêu một thời (và một đời) của mình gần như vào bất
cứ một
mối tình văn chương nào mà anh đọc đến, chỉ cần mối tình ấy là một mối
tình lý
tưởng, trong trắng và mù quáng đến rũ rượi . Đọc truyện tình của anh, K
có cảm
tưởng như nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng sẽ lao vào cuộc
tình như thế,
không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một cách hạnh phúc.
K.
[Thư luân lưu art2all]
Tks.
Người
yêu đầu đời của Pamuk, nếu như nhân vật tự thuật
trong Nỗi Buồn Istanbul, là
ông, tên là Bông Hồng Đen. Và những đoạn tả anh
chàng đi đón em ở cổng trường trung học Dame de Sion thật quá giống
cảnh Gấu
này đưa đón em tại trường Gia Long ngày nào!
Ngoài
K, còn một tay nữa, cũng nhận ra điều này, và chính anh "order"
Gấu dịch Pamuk, và phải là Nỗi
Buồn Istanbul!
Quả
là tri kỷ!
Đa
tạ. NQT
Tình đầu
Bởi vì
đây là một hồi ức, tôi
phải giấu tên của nàng, và, nếu như phải gọi tên nàng ra, để cho đỡ
nhớ, thì
tôi sẽ đưa ra một đầu mối, theo kiểu của những nhà thơ Divan thường sử
dụng,
nhưng tôi cần gợi ý thêm ở đây, là, đầu mối này, như tất cả phần còn
lại của
câu chuyện của tôi, sẽ có thể khiến bạn lạc đường.
Tên của nàng là Bông Hồng Đen, theo tiếng Ba Tư, nhưng, theo như tôi
biết, cho
tới nay, chẳng có ai trên bến cảng, nơi mà chiều chiều, nàng vô tư nhảy
xuống
tắm biển, và chẳng có ai trong số bạn học của nàng ở trường trung học
của người
Pháp, để ý đến chuyện tên nàng là Bông Hồng Đen, ấy là vì, mớ tóc dài
long lanh
sáng ngời của nàng thì không phải mầu đen mà là mầu hạt dẻ, và cặp mắt
nâu của
nàng thì cũng mầu hạt dẻ, nhưng xẫm hơn một chút, so với mầu tóc.
Khi tôi thật khôn khéo, thật tế nhị, nói với nàng, tên nàng có nghĩa là
Bông
Hồng Đen theo tiếng Ba Tư, nàng nhướng mày, nàng luôn làm như vậy, mỗi
khi nàng
đột nhiên trở nên nghiêm túc, và, trề môi ra một tí, nàng nói, lẽ dĩ
nhiên,
nàng biết tên của nàng có nghĩa là gì, và nàng nói thêm, tên của nàng
là được
đặt theo tên của bà nàng, một phụ nữ người Albanian.
Về “bà phu nhân” đó, tức mẹ nàng, theo như mẹ tôi cho biết, bà chắc hẳn
đã lấy
chồng rất sớm, bởi vì khi anh tôi được năm tuổi, tôi, ba tuổi, vào
những buổi
sáng mùa đông, mẹ tôi đưa hai anh em chúng tôi tới công viên Macka
Park, ở
Nisantasi, mẹ tôi đã nhìn thấy cô bé con cùng bà mẹ, bà mẹ nhìn chẳng
khác chi
một thiếu nữ, và cô thiếu nữ đã làm mẹ này thì đang dỗ cô bé con – tức
là
‘nàng’ - nằm ngủ, trong một cái xe đẩy thật lớn. Mẹ tôi có lần
nhắc tới
chuyện, bà của cô bé, người Albanian, xuất thân từ hậu cung của một vì
pasha,
ông này, hoặc đã làm một điều gì hết sức bậy bạ, trong những năm ngưng
chiến,
hay tự hạ nhục chính mình, khi chống đối Ataturk, nhưng tôi chẳng có
một chút
quan tâm nào tới những biệt thự có từ thời Ottoman đã bị đốt rụi, hay
những gia
đình đã từng ở trong đó, cho nên tôi chẳng nhớ chính xác chuyện này ra
sao. Còn
cha tôi, ông nói bằng một giọng nói chẳng có vẻ chi thù nghịch hay
khinh khi,
cha của cô bé Bông Hồng Đen đã nhanh chóng trở nên giầu có trong thời
kỳ Đệ Nhị
Thế Chiến, nhờ những làm ăn, chuyển nhượng với những công ty Hoa kỳ và
Hà lan
mà ông ta là một người đại diện, và nhờ những nhân vật có thế lực trong
chính
quyền mà ông ta quen biết.
Tám năm sau cuộc gặp gỡ của chúng tôi tại công viên, khi gia đình tôi
mua một
căn nhà ở khu Bayramoglu, một nhà nghỉ mùa hè ở phía đông thành phố,
rất thời
thượng đối với những nhà giầu mới nổi vào thời kỳ thập niên 1960 và 70,
và vào
lúc này, tôi có thể nhìn thấy nàng cưỡi xe đạp. Vào thời đại hoàng kim
của
thành phố, khi vùng này chưa phát triển và vẫn còn vắng người, vào
những buổi
đẹp trời, tôi thường tắm biển, hay dùng thuyền đi ra xa phiá bên ngoài,
thả
lưới, bắt cá thu, cá song, hay chơi đá banh trên bãi biển, và vào những
buổi
chiều mùa hè, khi tôi đã được mười sáu tuổi, khiêu vũ với mấy cô gái.
Tuy
nhiên, sau đó, khi tôi học xong trung học, và đã bắt đầu học kiến trúc,
tôi có
thói quen ngồi trên sàn nhà, tầng chệt, vẽ và đọc. Với đám bạn con nít
nhà giầu
của tôi, chúng gọi bất cứ ai đọc bất cứ một cuốn sách nào ngoài những
cuốn
sách, cuốn tập của nhà trường, là một nhà trí thức, hay một nhân vật mờ
ám bị
“bủa vây bởi những mặc cảm”. Lời bình phẩm thứ nhì, như trên, họ thường
nói bừa
bãi – và nó có thể còn có nghĩa, bạn có những vấn đề tâm lý, bạn bị
“mát”, hay
cũng có thể, bạn bị lo âu về vấn đề tiền bạc. Tôi thì thực sự lo âu,
khi bị dán
cho cái nhãn “trí thức”, bởi vậy, hy vọng thuyết phục đám bạn nhí nhà
giầu,
mình không phải là một thứ hợm hĩnh, trưởng giả học làm sang, và bất
lực, tôi
bắt đầu nói với chúng, tôi đọc những cuốn sách của tôi – Woolf, Freud,
Sartre,
Mann, Faulkner của tôi – “chỉ để vui thôi mà”, tuy nhiên, đám đó lại
truy tiếp,
"vui thôi mà" sao gạch đít gạch chân tùm lum, tà la nhiều đoạn?
Chính là thứ tai tiếng như trên đã khiến cho nàng để ý đến Gấu tui, vào
một mùa
hè muộn màng - điều này, mặc dù sự kiện, tất cả mùa hè đó, hay tất cả
những mùa
hè, trước khi tôi trải qua nhiều thì giờ với đám bạn bè, hai đứa chúng
tôi gần
như chẳng ai thèm đề ý đến ai.
Khi tôi cùng đám bạn vào giữa đêm khuya kéo nhau đi nghe nhạc discos,
như là
một bầy con trai hạnh phúc, hay chạy xe (đôi khi đụng xe), trên những
chiếc Mercedes,
Mustang, hay BMW, chủ xe là một người nào đó, trên Đại lộ Badat (khi đó
được
gọi là Đại lộ Công viên của thành phố Á châu, chỉ cách chỗ ở của chúng
tôi chừng
nửa giờ), hay là dùng ghe máy chạy ra một mỏm đá trơ trọi, ở đó, chúng
tôi bầy
ra những hàng vỏ chai soda hay rượu vang, rồi dùng súng săn, thứ thật
ngon, của
mấy ông bô giầu có, chúng tôi chơi trò bắn bia, và cố gắng làm cho mấy
cô gái
đừng hoảng sợ la thét lên, hay chúng tôi nghe Bob Dylan, hay Beatles,
trong khi
chơi bài poker, Monopoly; Bông Hồng Đen và tôi, khi đó, chẳng ai
thèm để ý
đến ai.
Đám thanh thiếu niên ồn ào, náo động là lũ chúng tôi đó dần dần rã ra
cùng với
mùa hè kết thúc, và rồi những cơn bão lodos
chợt tới với thành phố, quất túi bụi lên những bến cảng vào mỗi tháng
Chín,
đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy chậm chân. Trong khi mưa
cứ thế
trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười bẩy tuổi, chẳng biết làm gì
cho qua
thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà tôi thường ngồi vẽ, vào những giờ
phút trọng
đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật xứng đáng với nàng: xưởng
họa của tôi.
Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh thoảng ghé, cũng bầy đặt thử tài
hội
họa, này, đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy vẽ, trong khi nhìn với
cặp mắt
đầy nghi ngờ những cuốn sách của tôi, và chuyện này thì cũng chẳng có
gì là lạ,
so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu hết đám chúng tôi sống ở Thổ
nhĩ kỳ
thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ, Bông Hồng Đen cũng cần chuyện
vãn để
cho qua ngày, và đỡ buồn.
Vào lúc bắt đầu, chúng tôi chia sẻ với nhau ba chuyện ngồi lê đôi mách,
những
câu chuyện thuộc loại rỉ tai lưu truyền trong đám bạn bè mùa hè vừa qua
- đứa
nào mê đứa nào, và đứa nào vì vậy mà ghen đến điên lên – tuy nhiên, tôi
thực sự
chẳng để ý đến mấy chuyện đó. Bởi vì nhiều khi tay tôi dính sơn, cho
nên, có
khi, nàng giúp tôi pha trà, hay mở một tuýp mầu, trước khi trở về chỗ
của nàng
hay ngồi, ở một góc phòng, và, đá văng đôi giầy ra khỏi đôi bàn chân,
nàng nằm
dài ra đi văng, lấy một cánh tay làm gối. Một bữa, không nói với nàng,
tôi đi
một đường ký họa, cảnh nàng nằm dài trên đi văng. Tôi nhận thấy, nàng
có vẻ
thích, và thế là lần tới, tôi chơi thêm một bức ký họa nữa.
Lần tới, khi tôi nói, tôi sẽ vẽ nàng, nàng hỏi, “Anh muốn em ngồi như
thế nào?”
như một kiều nữ chưa từng bao giờ đứng trước máy quay phim, hay như một
ngôi
sao nho nhỏ ước ao sẽ có ngày trở thành đại minh tinh, run run, không
biết để
tay để chân như thế nào, và ở đâu.
Khi tôi ngắm nghiá cái mũi dài của nàng, để vẽ cho thật tới, một nụ
cười thấp thoáng
trên miệng nàng; ôi trán nàng mới cao làm sao, dáng nàng thì cao, với
đôi chân
dài, mầu nắng hun, nhưng khi nàng đến thăm tôi, nàng mặc một cái váy
dài, bó
sát người, thật nhã, chiếc áo này là của bà nàng truyền lại, thành thử
tôi chỉ
nhìn thấy đôi bàn chân thon thon của nàng. Trong khi phác hoạ, trong
khi trầm
tư, chiêm ngưỡng những làn cong mềm mại của hai trái cau, hay hai trái
đào, hay
hai gò bồng đảo nho nhỏ, và làn da trắng một cách lạ thường ở nơi cổ
cao, một
cái bóng của ngượng ngùng, và tủi thẹn, bỗng nhẹ nhàng lướt qua khuôn
mặt thiên
thần.
Vào những lần đầu đến thăm, chúng tôi nói chuyện thật nhiều, và nàng là
người
hay nói. Bởi vì tôi gạn lọc ra, một chút mây mù ở trong đôi mắt, và
trên đôi
môi, và nói như giao hẹn, này đừng có bao giờ buồn như vậy nữa nhé, và
nàng như
được dịp, xổ tung ra, những trận cãi cọ giữa hai đấng sinh thành, và
những trận
thư hùng giữa bốn ông em trai, và sự trừng phạt của ông bố đối với
chúng (những
cái bạt tai, đá đít, cấm ra khỏi nhà, cấm “ra biển gọi thầm”, trên
những chiếc
thuyền máy) – và nỗi buồn bã, xót xa của bà mẹ khi ông bố chỉ lo săn
đuổi những
người đàn bà khác, nàng nói, nàng nói chuyện đó, vì nàng biết mẹ nàng
và mẹ tôi
là hai bạn chơi bài, và cũng đã từng than thở với nhau nhiều lần, về
chuyện hai
ông bố cùng mê chạy theo gái, và khi nói những chuyện đó, nàng nhìn
thẳng vào
mắt tôi.
Dần dần, cả hai đứa chúng tôi chìm vào im lặng. Có những lần, khi tới
thăm,
nàng bước thẳng tới chỗ nàng thuờng hay ngồi, hay nàng sẽ ngồi, nơi
ngồi làm
mẫu (những bức ký họa của tôi thời gian này ảnh hưởng nặng nề Bonnard),
hay
nàng sẽ mở ra coi một cuốn sách tình cờ có đó, và nằm đọc trên sô pha,
lâu lâu
đổi cách nằm. Những lần sau này, vẽ hay không vẽ, thì cũng thành lệ:
nàng gõ
cửa, và đi vô phòng, chúng tôi cũng chẳng nói chi nhiều ngoài một hai
câu chào
hỏi, và tới nằm tại một góc đi văng, và đọc cuốn sách của nàng mang
theo, đôi
khi, từ khoé mắt, nàng nhìn tôi đang vẽ nàng. Sáng nào cũng vậy, cũng
thành lệ,
làm việc được một chút, là tôi nghĩ tới nàng, và tự hỏi, khi nào nàng
tới, và
như thể nàng cũng biết như vậy, cho nên ít khi nàng bắt tôi phải chờ
đợi lâu,
và khi nàng tới, là tới cùng với nàng nụ cười, hơi có vẻ bẽn lẽn, và
trong một
dáng điệu như muốn bầy tỏ, này hãy tha lỗi cho em, nếu em có làm phiền
gì đến
anh, nếu em có đến muộn, và trong cái dáng điệu hãy bỏ qua cho em như
thế đó,
nàng tới góc đi văng quen thuộc, và trải người xuống.
Một trong những đề tài rất ít khi được nhắc tới, là tương lai. Theo
nàng, tôi
là một người có tài, và cần cù làm việc cho nên chắc chắn sẽ trở thành
một họa
sĩ nổi tiếng – hay là một họa sĩ Thổ nhĩ kỳ nổi tiếng? – và nàng sẽ
cùng bạn bè
người Pháp của nàng gia nhập vào đám đông ngày khai mạc phòng tranh tại
Paris,
và sẽ hãnh diện
nói với mọi người, tôi là “bạn thời trẻ thơ” của nàng.
Một buổi chiều, chúng tôi rời xưởng họa đã chập choạng tối, và cùng
nhau đi bộ
lần đầu tiên, mượn cớ ngắm thành phố cơn mưa vừa tạnh làm sáng rực lên,
trong
hẳn ra, và nhìn cây cầu vồng cơn mưa bỏ lại đằng sau nó, ở phía bên kia
bán
đảo. Tôi nhớ là chẳng ai cất tiếng nói. Chúng tôi cũng ngài ngại, sợ
gặp người
quen, hoặc đụng đầu bà mẹ, bà nào thì cũng khổ, trong khu phố vào cuối
mùa hạ
chỉ còn chừng một nửa cư dân của nó. Nhưng, điều làm cho cuộc du ngoạn
tiên của
hai đứa chúng tôi ‘không thành công’, thì không phải là cây cầu vồng
biến mất
trước khi chúng tôi kịp ngắm nó, nhưng mà là sự căng thẳng ngấm ngầm
giữa hai
chúng tôi. Đó cũng là lần đầu tiên, trong khi đi sóng đôi trên đường
phố tôi
nhận ra, cổ nàng mới cao làm sao, và cái dáng đi của nàng mới làm hài
lòng tôi
đến thế nào. Thảo nào mà người ta nói, yểu điệu thục nữ!
Vào buổi chiều Thứ Bẩy sau cùng của hai đứa chúng tôi, chúng tôi quyết
định
cùng đi ra ngoài, cũng chẳng nói cho bất cứ ai, trong số bạn bè tò mò,
không
quan trọng còn ở trong khu vực. Tôi hỏi mượn xe của cha tôi, và tôi
thật là bồn
chồn. Nàng có trang điểm, mặc một chiếc váy ngắn, và mùi nước hoa
thoang thoảng
trên xe một thời gian sau đó, và trước khi tới chỗ vui vui mà chúng tôi
tính
tới, tôi đã ngửi ra mùi vị ‘thất bại’ của chuyến đi lần trước, và cái
bóng ma
làm hỏng chuyến đi vẫn lẩn quẩn đâu đây.
Quán nhạc disco tuy chỉ có chừng một nửa số khách, nhưng cũng rất ồn,
trong khi
chúng tôi cố gây lại không khi êm đềm của những buổi gặp mặt tại xuởng
vẽ của
tôi, và có lại được vẻ tự nhiên, nhưng vô ích và tới lúc đó, tôi mới
nhận ra,
chúng sâu thẳm làm sao ở trong tôi. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn khiêu vũ,
theo
tiếng nhạc chậm. Bởi vì tôi đã từng thấy những cặp khác làm như vậy, và
tôi
vòng tay qua lưng nàng, ôm nàng thật sát vào tôi, như do bản năng thúc
đẩy, và tôi
nhận ra, tóc nàng đượm mùi trái hạnh. Và tôi nhớ ra, mình đã thật quá
yêu nàng,
nhất là đôi môi, khi nàng nhẹ nhàng nhấm nháp một món gì đó, và những
lúc nàng
băn khoăn, ngần ngại, hoặc có gì lo lắng, trông nàng thật giống một con
sóc.
Trước khi đưa nàng về nhà, tôi, nhân một lúc im lặng, mở lời, “Hay là
chúng
mình ghé xưởng họa, anh sẽ vẽ em?” Tuy không có vẻ sốt sắng, nàng vẫn
gật đầu,
nhưng khi chúng tôi bước, tay trong tay, vô khu vườn tối, và nhìn về
xưởng họa,
thấy có ánh đèn - có ai ở đó ? – và nàng thay đổi ý định.
Nàng đến thăm tôi cả ba buổi chiều ba ngày sau đó - nằm xoải người trên
đi văng,
nhìn tôi đang vẽ, nhìn vô những trang sách đang cầm trên tay, nhìn biển
hơi gợn
sóng ở phía bên ngoài – và rồi rời căn phòng, lặng lẽ, chẳng quấy rầy
ai, như
khi tới.
Tháng Mười năm đó, tôi chẳng hề nghĩ đến chuyện, hay là mình tìm cách
gặp nàng,
hay tệ lắm, gọi nàng một tiếng, Hi. Những cuốn sách mà tôi đang đọc làm
tôi say
mê, và đắm đuối với chúng, những bức họa mà tôi vẽ thật hăm hở, thật
giận dữ,
đám bạn cấp tiến tả phái, những tay Mác xít thanh toán lẫn nhau ở hành
lang đại
học, những đấng quốc gia, và cảnh sát – tất cả làm tôi xấu hổ về những
bạn mùa
hè của tôi, và khu nhà ở giầu sang của chúng với hàng rào kẽm gai nơi
cổng ra
vào, và đám nhân viên bảo vệ.
Nhưng, vào một buổi chiều Tháng Một, trời thật lạnh, tôi bật máy sưởi
ấm căn
phòng, và rồi, gọi điện thoại cho nàng. Khị mẹ nàng nhắc máy, hỏi ai
đấy, tôi
cúp máy liền, không trả lời.
Ngày hôm sau, tôi tự hỏi mình, tại sao lại cư xử như vậy, tại sao tôi
thực hiện
cú phôn nếu không ngu si đần độn thì cũng kỳ cục đó. Tôi không nhận ra
là mình
đã tương tư nàng. Bông Hồng Đen của tôi. Vậy mà tôi không làm sao phám
phá ra
điều mà tôi cứ phải học đi học hoài, mọi lần nó xẩy ra: Tôi đã bị nàng
hớp mất
hồn viá.
Một tuần lễ sau, cũng vào một buổi chiều âm u lạnh cứng người, tôi lại
điện
thoại cho nàng. Lần này, nàng trả lời. Tôi nói thẳng một lèo, theo kiểu
tự
phát, nhưng thực sự là đã được học đi học lại, nhẩm lên nhẩm xuống
không biết
bao nhiêu lần, em còn nhớ bức họa anh vẽ em, vào những ngày cuối cuối
của mùa
hè vừa rồi? Liệu em có thể ghé, để hoàn tất bức họa?
-Nhưng em có phải vận, vẫn bộ đồ những ngày nào không?
Ui chao, sao tôi lại không nghĩ đến điều này nhỉ?
-Em cứ vận bộ đồ đó nhé!
Vậy là Thứ Tư tiếp theo, tôi tới cửa trường Dame de Sion, nơi ngày xưa
mẹ tôi
cũng đã từng là nữ sinh tại trường này để đón nàng. Tôi lỉnh đám cha,
đám mẹ,
đám nấu bếp, đám đầy tớ đứng gần cổng, và như mấy người trẻ khác, tôi
cũng tách
ra xa, kiếm một gốc cây, và đứng lấp ló đợi nàng.
Chuông reo, tan trường, hàng trăm cô gái ùa ra phía cổng, tất cả vận
đồng phục
nữ sinh trường Ky tô của người Pháp – váy mầu xanh hải quân với áo sơ
mi trắng
– và khi nàng ló ra từ đám đông, trông nàng như muốn rụt lại, tóc buộc
ra phía
sau, một tay cầm mớ sách nhà trường, tay xách một túi ni lông trong
chắc có bộ
đồ tính mặc khi ngồi cho tôi vẽ nàng.
Khi nàng biết, tôi không tính đưa nàng về nhà, để mẹ tôi mời nàng uống
trà và
ăn bánh ngọt, nhưng mà là tới căn phòng ở Cihangir mà mẹ tôi cho tôi sử
dụng
như là một studio, nàng có vẻ bồn chồn. Nhưng khi tôi vận lò sưởi ấm,
và lôi ra
cái đi văng giống như chiếc đi văng nàng đã từng nằm tại căn nhà mùa
hè, và ngó
dáng điệu của tôi có vẻ rất nghiêm túc về chuyện vẽ tranh, tới lúc đó,
nàng mới
nhẹ nhàng thở phào, thay bộ đồ ngày nào, và nằm dài trên đi văng như
ngày nào.
Đúng là trong cung cách như thế đó, không tự huênh hoang khoác lác về
nó, đây
là một câu chuyện tình, mà liên hệ của hai đứa chúng tôi, một nghệ sĩ
mười chín
tuổi, và người mẫu còn trẻ hơn, bắt đầu, theo nhịp của một thứ âm nhạc
thật lạ
lùng, mà những nốt nhạc ngay cả hai đứa chúng tôi cũng chẳng thể nào
hiểu được.
Vào lúc bắt đầu, cứ hai tuần một lần nàng tới studio của tôi ở
Cihangir, sau
đó, tuần một lần. Tôi khởi sự vẽ những bức họa khác, cùng trong một
thần thái
như vậy (một cô gái nằm tựa đầu lên tay trên đi văng). Thời gian này
chúng tôi
nói chuyện ít hơn, so với những ngày cuối của mùa hè. Về phần tôi, tôi
không
muốn nói cho nàng nghe, nàng vốn dĩ đã buồn, về những vấn đề của tôi,
sợ làm hư
sự trong trắng tuyệt ngần của cái thế giới thần tiên vừa mở ra đó,
trước cuộc
đời của tôi mỗi ngày, vốn đã quá nặng nề, chật cứng, nào là những buổi
học kiến
trúc, nào là những chương trình, kế hoạch làm sao sau này trở thành họa
sĩ,
ngoài ra, còn những cuốn sách. Không phải tôi sợ, nàng sẽ chẳng hiểu
được, và
chẳng hề thông cảm, nhưng bởi vì tôi muốn hai thế giới tách hẳn ra, và
đừng bao
giờ trộn vào nhau. Tôi hết còn để ý đến đám bạn bè mùa hè, và những bạn
học
trung học, chúng đang sửa soạn để thay thế mấy ông bố của chúng làm chủ
những
nhà máy, những xưởng thợ, và chỉ còn Bông Hồng Đen – bây giờ thì tôi
không còn
có thể giấu đươc điều này, đối với bản thân mình – được nhìn thấy nàng
mỗi tuần
một lần quả là muôn vàn hạnh phúc.
Vào những ngày mưa, những chiếc xe tải và xe Mỹ leo con dốc “Gà không
thể bay”,
tiếng bánh xe nghiến, hoặc trượt trên mặt đường sỏi, ngồi trong căn
phòng,
chúng tôi có thể nghe thấy, và tôi bỗng nhớ những ngày tôi là khách của
cô tôi,
cũng ở trong căn phòng này, và cũng nghe tiếng bánh xe nghiến hoặc
trượt trên
mặt đường y như vậy. Nhiều khi sự im lặng kéo thật dài giữa chúng tôi,
nhưng
vẫn thật dễ chịu, trong khi tôi chăm chú vẽ, và đôi khi mắt chúng tôi
tìm gặp
nhau. Vào lúc bắt đầu, bởi vì nàng vẫn như một đứa trẻ, cho nên thật
thích thú
trước sự kiện được làm một người mẫu và nàng mỉm cười, và rồi lại sợ,
như vậy
là làm hư nét vẽ, hư dáng nằm, và vội vàng thu lại nụ cười, cho đôi môi
trở lại
như cũ, như trước khi mỉm cười, và cặp mắt mầu nâu của nàng sẽ tìm gặp
cặp mắt
của tôi, với cùng sự im lặng kéo dài thật lâu. Vào cuối những đợt im
lặng lạ
lùng như vậy, khi tôi chăm chú nhìn nàng, qua ánh mắt của tôi, nàng
đoán ra
được ấn tượng của nàng lên tôi, và trong khi tôi tiếp tục nhìn sâu vào
mắt
nàng, không nháy mắt, làn môi của nàng rung động, có vẻ như nàng không
thể giữ
lâu, không thể kìm hãm được nụ cuời, và tôi hiểu ra một điều, cái nhìn
chăm
chú, nhìn sâu vào mắt nàng, nhìn thật lâu không chớp mắt của tôi làm
nàng hài
lòng. Một lần, trong khi cười, bằng nụ cười “nửa hạnh phúc, nửa rầu rĩ”
như
thế, và rồi đem nó tới đặt lên môi tôi, (cây cọ lúc này lơ lửng trên
mặt vải,
như thể bị bỏ quên), cô người mẫu tuyệt trần của tôi bị thôi thúc, đến
nỗi phải
bật ra thành lời, tại sao nàng cười:
“Em thích anh nhìn em như
vậy.”
Sau cùng, điều này không chỉ
giải thích, tại sao nàng cười, mà còn tại sao nàng tới căn phòng dùng
làm
studio của tôi ở Ciganhir mỗi tuần một lần. Vài tuần lễ sau đó, một
lần, khi
tôi nhìn thấy cùng nụ cuời đang nở ra trên môi nàng, tôi buông cây cọ,
đến ngồi
bên nàng, và như tôi đã mơ mãi điều này, trong mấy tuần lễ liền, tôi
liều lĩnh
hôn nàng.
Cơn mưa bão ngoài trời như
kéo cả hai chúng tôi cùng nhập vào với nó, và bầu trời trời tối đen,
căn phòng
nhập nhoạng càng làm cho chúng tôi thêm thoải mái. Nằm trên đi văng,
chúng tôi
có thể nhìn thấy ánh đèn trên vịnh Bosphorus, những đợt đèn pha quét dò
đường
của những chiếc tầu, chúng phản chiếu trên mặt nước đen tối, và theo
dõi cuộc
du ngoạn lặng lẽ của những chiếc tầu qua hình bóng của chúng chiếu trên
những bức
tường của căn phòng.
Chúng tôi tiếp tục nghi lễ
gặp gỡ như thường lệ. Vào lúc này tôi thật hạnh phúc với cô người mẫu
của mình,
nhưng tại sao tôi kìm giữ những xúc động, tại sao không nói với nàng
những lời
lẽ yêu đương, những nhớ nhung dại khờ, những ghen tuông, hờn giận,
những lo
lắng, sợ mất nàng, thí dụ như vậy, như những cặp tình nhân khác thường
vẫn làm
như vậy trong những tình huống như thế? Bởi vì tôi không thấy chúng.
Bởi vì
liên hệ giữa hai chúng tôi là giữa nghệ sĩ và người mẫu - điều làm
chúng tôi
nhận ra nhau, và trói buộc với nhau. Và có lẽ bởi vì – một nỗi xấu hổ
trẻ con
từ một góc tối tăm của tâm hồn tôi làm bật ra điều này – tôi biết, nếu
tôi lấy
nàng, tôi sẽ trở thành một ông chủ hãng, không phải một nghệ sĩ.
Sau chín Thứ Tư vẽ trong im
lặng, và âm thầm làm tình, một nỗi lo đơn giản hơn xẩy ra giữa anh họa
sĩ hạnh
phúc và cô người mẫu. Mẹ tôi, không khi nào sao nhãng quá lâu không để
ý đến
ông con trai, một bữa, bà tới cái studio ở Cihangir, vốn là kho chứa đồ
đạc cũ
trong gia đình, và,ngắm mấy bức tranh, mặc dù ảnh hưởng Bonnard, bà
chẳng mấy
khó khăn nhận ra cô người mẫu xinh đẹp.
Mỗi lần tôi hoàn tất một bức
tranh, người yêu tóc mầu hạt dẻ lại hỏi: “Em như vậy sao? Có thực đó là
em?
(chuyện đó đâu thực sự quan trọng, gã họa sĩ trẻ ranh mãnh sẽ nói như
vậy), bởi
vậy, cả hai chúng tôi đều hài lòng về chuyện mẹ tôi đã nhận ra nàng -
điều này
trả lời cho câu hỏi, “Em như vậy sao? Có thực đó là em?”, một lần cho
tất cả -
nhưng cùng lúc, chúng tôi lo lắng, là mẹ mẹ tôi sẽ gọi điện thoại cho
mẹ nàng,
hoan hỉ cho biết hai đứa chúng nó rất thân mật với nhau, và mẹ tôi rất
mừng vì
chuyện này (Về phần mẹ của Bông Hồng Đen, bà cứ nghĩ là Thứ Tư nào cô
con gái
của mình cũng tham dự lớp học về kịch tại toà lãnh sự Pháp). Còn về sự
tức giận
của ông bố, có lẽ chẳng cần nói cho ông hay gì hết về chuyện này.
Chúng tôi liền lập tức ngưng
những cuộc gặp mặt vào Thứ Tư. Sau đó một ít lâu, chúng tôi hẹn nhau
vào ngày
khác, vào buổi chiều khi nàng tan học sớm, hay một vài buổi sáng, khi
tôi bỏ
lớp học. Bởi vì mẹ tôi luôn thực hiện những chuyến viếng thăm bất thình
lình cái
studio của tôi ở Cihangir, bởi vì chúng tôi không có đủ thì giờ để vẽ,
và để
hưởng lạc thú im lặng kéo dài nhiều giờ, và bởi vì tôi giúp một bạn
cùng lớp, bị
cảnh sát truy tìm – làm sao không giúp đỡ cho được, vì đây là một tội
ác chính
trị - trốn tránh ở đó, cả hai chúng tôi cùng ngưng không tới căn phòng
ở
Cihangir. Thay vì tới đó, chúng tôi đi bộ bên nhau, qua những con phố
Istanbul,
tránh những khu phố quen như khu Nisantasi, Beyoglu, Taskim, và tất cả
những
chồ khác, những chỗ có thể gặp người quen, mà chúng tôi gọi là “mọi
người”. Sau
khi hẹn gặp nhau tại Taskim, từ trường Dame de Sion ở Harbiye đi tới
chỗ hẹn
mất bốn phút, cũng bằng thời gian tôi đi bộ từ đại học của tôi ở
Taskisla, và
từ đó, chúng tôi dùng xe buýt đi tới những nơi xa hơn.
Chúng tôi bắt đầu bằng quảng
trường Beyazit Square, ở đó, tiệm cà phê Cinaralti vẫn giữ được khung
cảnh, cái
nhìn cũ của nó (ngay cả sau những cuộc chính biến mà khu vực phía trước
những
cổng ra vào của đại học Istanbul University trở thành mảnh đất quen
thuộc của
chúng, những anh bồi của tiệm cà phê cũng chẳng mất đi nét lịch thiệp,
vẻ chững
chạc của họ), hướng về phía thư viện quốc gia, the Beyazit National
Library, tôi
bốc phét với nàng, thư viện tồn giữ “một ấn bản của mọi cuốn sách đã
từng được
xuất bản tại Thổ nhĩ kỳ”; tôi đưa nàng tới chợ sách cũ, Sahaflar
Secondhand
Book Market, nơi vào những ngày mùa đông giá lạnh, họ cho đốt những lò
sưởi
bằng gas, hay bằng điện; tôi chỉ cho nàng coi những căn nhà bằng gỗ mà
nước sơn
đã loang lổ không được tu bổ lại ở Verzneciler, những điêu tàn
Byzantine, và
những con phố hai bên trồng những cây sung, cây vả; và tôi đưa nàng tới
Vefa
Boza Shop, nơi chú tôi thỉnh thoảng đưa chúng tôi tới vào những buổi
chiều mùa
đông để thưởng thức món giải khát nổi tiếng boza,
làm từ men kê, ở đó cũng có bức hình Atatuk đang uống boza,
được đóng khung treo trên tường. Một cô gái Âu châu hóa, giầu
có, từ khu Nisantasi, biết hầu hết các tiệm thời trang và những nhà
hàng nổi
tiếng nhất của Bebek và Taksim, và biết tất cả những gì qua tôi, trong
có những
con phố buồn ở phía đằng sau thành phố Istanbul tới quá Mũi Vàng, vậy
mà cô lại
quá sức chú tâm tới một cái ly uống boza cứ
để nguyên như vậy không rửa, từ ba
muơi lăm năm, điều này cũng chẳng làm tôi buồn bực. Tôi thật sự hài
lòng có một
người bạn đường như nàng, hai tay đút túi áo choàng như tôi, và thích
đi bộ,
thật nhanh, như tôi, nhìn sự vật một cách thật là chi li, cẩn thận, y
như tôi
đã từng, hai ba năm trước đó, khi, lần đầu tiên, tự mình thám hiểm cũng
những
khu xóm này. Tôi cảm thấy thân cận với nàng hơn bao giờ hết, và dạ dầy
của tôi
quặn đau, giống hệt lần khám phá ra tình yêu.
Như tôi, thoạt đầu nàng cũng
bị xao xuyến vì những căn nhà bằng gỗ từ hàng bao thế kỷ, của những con
phố
nghèo khổ phía sau lưng thành phố ở khu Suleymaniye và Zeyrek. Nhìn
chúng, có
cảm tưởng, chỉ cần một cơn rung chuyển thật nhỏ, là sụm xuống. Nàng
cũng ngỡ
ngàng bởi vẻ trống trơn của Bảo tàng Hội họa và Điêu khắc, chỉ cách vài
phút đi
bộ từ trạm xe buýt dolmus ngay bên
kia trường học của nàng. Những giếng nước công cộng bỏ hoang của những
lối xóm
nghèo khổ, những ông già, đầu đội mũ đấu [mũ Thổ nhĩ kỳ] râu dài, ngồi
trong
tiệm cà phê ngắm nhìn phố xá, dòng người qua lại, những bà cô già khằn
ngồi ở
cửa sổ, nhìn soi mói bất cứ một người lạ đi qua, như thể đây là một
người
chuyên môn buôn bán nô lệ, dân lối xóm chỉ trỏ, bàn tán coi chúng tôi
là thứ
người ở đâu tới, và làm gì, bằng một giọng oang oang vọng đến tận chỗ
chúng tôi
(Các ông các bà thử nghĩ coi, hai người
cao lớn này là anh em? Họ là anh em, đúng không? Coi kìa, hai anh em đi
lộn
đường rồi), tất cả những điều này đánh thức ở nơi nàng cùng một nỗi
buồn bã,
xấu hổ. Mấy đứa trẻ đuổi theo chúng tôi, để bán đồ lưu niệm, hay chỉ để
trò
chuyện (Du khách, du khách, tên chi?);
nàng chẳng hề bực bội, khi những đứa
trẻ gọi nàng là du khách, như tôi ngày nào, hay hỏi, “Tại sao chúng coi
chúng
ta là người nước ngoài?”. Cho dù vậy, chúng tôi cũng tránh khu sầm uất
Covered
Bazaar hay là khu chợ Nuruosmaniye. Khi hai chúng tôi thèm nhau quá mức
đến
không thể chịu đựng được – nàng không muốn trở lại căn phòng studio ở
Cihangir
để vẽ nữa – chúng tôi quay trở lại Besiktas, nơi chúng tôi thường tới,
vì có
Bảo tàng Hội họa và Điêu khắc, và lên chuyến phà đầu tiên (54 Insirah),
đi mãi
xa xuống phía dưới vịnh Bosphorus, tới tận đâu là còn tùy thời gian cho
phép, và
một khi ở trên phà, chúng tôi ngắm những rừng cây rụng hết lá cùng với
mùa thu
ở hai bên vịnh, nhìn mặt biển run rẩy ở dưới chân những
yalis khi gió bấc chợt về, những đợt nước ở trên mặt biển đua nhau
sao động cùng với gió, và cùng lúc, thay đổi mầu sắc, khi gió xô đẩy
những đám
mây qua bầu trời, và ngắm những cánh vườn thông trải dài chung quanh
trên bờ
vịnh. Những năm sau này, tôi tự hỏi chính mình, tại sao hai đứa chúng
tôi không
hề nắm tay nhau, trong những lần đi tản bộ, hay những chuyến dạo biển,
và tìm được
rất nhiều lý do:
1. Chúng tôi là những đứa trẻ
quá rụt rè, e lệ, chúng tôi tìm đến những con phố của Istanbul không
phải để
cảm nhận, để thông báo tình yêu, nhưng mà là để giấu diếm nó.
2. Những cặp tình nhân nắm
tay nhau trên đường phố, trước công chúng, họ cảm thấy hạnh phúc và
muốn mọi
người nhìn thấy họ đang hạnh phúc, trong khi tôi, mặc dù muốn chấp nhận
chúng
tôi hạnh phúc, nhưng lại sợ, cầm tay nhau như thế có vẻ hời hợt!
3. Cử chỉ nắm tay nhau như
thế sẽ biến hai chúng tôi thành những du khách, những người tới những
khu vực
điêu tàn đổ nát nghèo khổ bảo thủ này chỉ để hưởng “lạc thú cẩu thả”.
4. Sự buồn bã của xóm nghèo,
của một Istanbul
điêu tàn, hoang phế, đã từ lâu nhận chìm chúng tôi vào trong nó….
Khi nỗi buồn quá nặng nề ở
trong tôi, tôi sẽ chạy vội về Cihangir để vẽ, mà bằng một cách nào đó,
trải bức
tranh dài ra, để song song, cùng một lúc, những cái nhìn như vậy, mặc
dù tôi
không biết bức tranh của mình sẽ trông như thế nào. Nhưng chẳng mấy
chốc, tôi
nhận ra, cô người mẫu của tôi đã tìm một phương thuốc khác hẳn tôi, để
điều trị
nỗi buồn của nàng, và đó là lần vỡ mộng đầu tiên của tôi, về nàng.
“Hôm nay em cảm thấy thật tệ
lậu”, nàng nói, khi chúng tôi gặp nhau tại Taksim. “Anh đưa em tới
khách sạn
Hilton uống trà được không? Nếu đi tới bất cứ một xóm nghèo điêu tàn,
chắc là
em không thể nào chịu nổi. Hơn nữa, bữa nay, em không có nhiều thì giờ.”
Bữa đó, tôi mặc một chiếc áo
khoác kiểu nhà binh, thứ đám sinh viên tả phái hay mặc; tôi lại chẳng
cạo râu,
và giả như đám gác cửa khách sạn sang trọng này cho tôi vô, chắc gì tôi
đã có
tiền để trả, dù là chỉ uống trà? Tôi lắc lắc cặp giò một vài cái, để
khởi động,
và rồi cũng chiều theo nàng, chúng tôi đến khách sạn Hilton. Ở hành
lang, một
người bạn thời thơ ấu của cha tôi nhận chúng tôi, ông này chiều nào
cũng đến
đây uống trà, làm như mình là dân Âu châu, và sau khi bắt tay người yêu
buồn bã
của tôi, một cách đầy dụng ý, ông ta nói nhỏ vào tai tôi, cô thiếu nữ
bạn gái
của cháu đáng yêu quá. Cả hai chúng tôi lúc này thì đều quá bận rộn,
thành thử
chẳng ai để ý đến ông ta.
“Cha em bắt em nghỉ học để
tống em đi Thụy Sĩ”, người yêu của tôi nói, trong khi một giọt nước mắt
của
nàng rơi xuống chén trà.
“Tại sao?”
Họ đã biết về chúng tôi. Không biết tôi có hỏi lại nàng, “chúng tôi” ở
đây có
nghĩa là ai? Những đứa con trai đã yêu nàng trước tôi, liệu chúng có
gây nên sự
tức giận như tôi bây giờ ở nơi cha nàng? Tại sao tôi lại quan trọng như
vậy so
với chúng? Tôi không nhớ, tôi đã hỏi nàng những câu hỏi như vậy. Nỗi
sợ, và
tính ích kỷ, chỉ quan tâm đến mình đã làm cho trái tim của tôi trở
thành mù
lòa, và tôi quá lo lắng đến chuyện tự bảo vệ bản thân. Tôi sợ mất nàng
– trong
khi vẫn mơ hồ nhận ra một nỗi đau lớn đang chờ đợi tôi – nhưng tôi cũng
cảm
thấy giận dữ, vì bây giờ nàng từ chối không chịu nằm dài xuống đi văng
và làm
người mẫu cho tôi vẽ, và cho tôi làm tình với nàng.
“Chúng mình có thể nói chuyện
đó dễ dàng hơn, ở Cihangir vào Thứ Tư,” tôi nói. “Nuri đã rời đi rồi.
Nơi đó
bây giờ không còn ai.”
Nhưng lần tới gặp nhau chúng
tôi đi tới Bảo tàng Hội họa và Điêu khắc. Chúng tôi làm như vậy như là
một thói
quen, bởi vì từ trường của nàng đến đó thì thật nhanh, và ở đó cũng
thật dễ
kiếm ra một hành lang vắng vẻ để chúng tôi hôn nhau. Trên tất cả, nơi
đó tránh
cho chúng tôi cái vẻ ảm đạm lạnh lẽo của thành phố. Nhưng chỉ được chốc
lát,
viện bảo tàng trống rỗng và những bức tranh quá tệ hại của nó đẩy chúng
tôi tới
một nỗi buồn thê luơng hơn, so với nỗi buồn Istanbul. Và vào lúc sau
này, mấy
nhân viên trông coi viện bảo tàng đã nhìn thấy chúng tôi, và họ theo
chúng tôi
từ phòng này qua phòng khác, và điều này làm tăng thêm sự căng thẳng
giữa chúng
tôi, và chúng tôi cũng chấm dứt cái thú hôn nhau ở viện bảo tàng.
Nhưng liền ngay sau đó, chúng
tôi lại rớt vào một thói quen, suốt những ngày không vui tiếp theo.
Chúng tôi
phải trình thẻ sinh viên cho hai ông già trông coi viện bảo tàng. Như
tất cả
những nhân viên chuyên lo việc trông coi tại tất cả những viện bảo tàng
ở
Istanbul, họ luôn nhìn chúng tôi bằng cặp mắt cau có, nghi ngờ, như
muốn hỏi,
mấy người trẻ tuổi muốn tìm cái gì ở những nơi như thế này? Với một
chút giả
lả, chúng tôi sẽ hỏi han họ một hai câu, trước khi đi thẳng tới nơi
trưng bầy những
bức tranh nho nhỏ của Bonnard hoặc Matisse. Sau khi thì thầm nhắc tên
hai họa
sĩ này một cách khiêm tốn, chúng tôi lướt qua thật nhanh những bức
tranh chán
ngấy của họa sĩ hàn lâm Thổ nhĩ kỳ, lập lại tên những vị thầy Tây
phương mà họ
đã mô phỏng: Cézanne, Léger, Picasso. Điều làm chúng tôi mất hết ảo
tưởng thì
không phải là những họa sĩ này, hầu hết tốt nghiệp trường quân sự, học
hỏi tại
Âu châu, tự cho phép họ ảnh hưởng những nghệ sĩ Tây phương, nhưng mà
là, họ nắm
bắt được quá ít cái gọi là sự cảm nhận, sự mầy mò, tìm kiếm, và linh
hồn thành
phố, một thành phố mà chúng tôi lang thang cùng với nó, yêu và run vì
lạnh, như
vào lúc này, cùng với nó.
Nhưng, vẫn còn điều gì chúng
tôi chưa nói ra được hết: chúng tôi tới tòa nhà building làm bảo tàng
viện này,
nguyên được xây dựng lên, như là cung điện của Đông cung thái tử
Dolmabahce,
cách nơi chúng tôi đang đứng đó chỉ vài với tay, là căn phòng mà
Ataturk đã nằm
chết; và chỉ nội ý nghĩ, chúng tôi đang hôn nhau ngay nơi chốn đó, là
đủ cho cả
hai chúng tôi nổi da gà: Không phải bảo tàng viện vắng vẻ, tiện lợi,
cũng không
phải trần nhà cao vời vợi, và cùng với nó là những huy hoàng ngày nào
của đế
chế Ottoman, không phải những bao lơn bằng sắt tuyệt vời kia làm chúng
tôi tươi
mát trở lại sau khi trở về, quá ủ rũ, từ một nơi chốn điêu tàn nghèo
khổ từ khu
phố sau thành phố, cũng không phải những cảnh đẹp Bosphorus từ những
khung cửa
sổ kia nhìn ra, chúng đẹp hơn nhiều so với những bức tranh treo trên
tường,
nhưng có một bức họa mà cả hai chúng tôi đều mê mẩn, chính nó đã lôi
cuốn chúng
tôi tôi đây hoài hoài.
Đó là bức tranh thiếu nữ nằm, Reclining Woman, của
Halil Pasha.
Vào lần gặp đầu tiên, sau lần
rủ nhau đi uống trà ở hành lang khách sạn Hilton, chúng tôi bỏ qua tất
cả những
phòng tranh tại viện bảo tàng, về đến thẳng nơi treo bức họa nói trên.
Người
mẫu trong tranh là một phụ nữ trẻ, mà tôi ngạc nhiên nhận ra ngay trong
lần đầu
nhìn thấy bức tranh, bà đá bỏ đôi giầy, thả người xuống cái đi văng mầu
xanh,
nhìn một cách buồn bã người họa sĩ đang vẽ mình (người chồng?), dùng
một cánh
tay thay cho gối, giống như người mẫu của tôi vẫn thường làm như vậy
rất nhiều
lần. Nhưng không phải chỉ sự tương tự lạ lùng này thu hút tới với bức
tranh,
trong lần đầu chúng tôi viếng thăm phòng tranh nhỏ này, nơi có treo bức
tranh,
cô người mẫu trong tranh đã chăm chú nhìn hai chúng tôi hôn nhau. Bất
cứ khi
nào chúng tôi nghe bước chân của ông gác dan già luôn tỏ ra nghi ngờ
trên sàn
gỗ là hai chúng tôi rời nhau, ngồi thẳng người và cả hai lao vào một
cuộc tranh
luận sôi nổi về cô người mẫu trong tranh, bởi vậy, chúng tôi rất rành
về mọi
chi tiết của bức họa. Thêm vào đó là bất cứ những gì chúng tôi biết về
hoạ sĩ
Halil Pasha qua bách khoa toàn thư.
-Anh tin là hai chân cô gái
rất lạnh, sau khi mặt trời lặn, tôi nói.
“Em có thêm tin buồn”, người
yêu của tôi nói, mỗi lần tôi nhìn bức tranh là lại thấy nàng càng giống
cô
người mẫu ở trong đó.
“Mẹ em đã kiếm cho em một
người rồi, qua bà mối. Mẹ em muốn em phải gặp bà ta.”
“Em sẽ đi chứ?”.
“Em thấy thật kỳ cục. Anh
chàng nghe nói học tại Mỹ, và là con trai của một ai đó mà em cũng
không biết
nữa”. Và bằng một giọng đùa cợt, nàng nói nhỏ cho tôi nghe tên của anh
chàng
nhà giầu này.
“Nhưng gia đình em giầu gấp
mười lần gia đình anh ta?
“Em không hiểu sao? Họ làm như vậy là để tách em ra khỏi anh.”
“Như vậy là em sẽ có mặt tại
bữa uống cà phê, khi bà mối tới nhà em?”
“Chuyện đó đâu quan trọng. Em
không muốn gây phiền hà cho gia đình”.
“Tụi mình tới Cihangir,” tôi
nói. “Anh muốn vẽ một bức tranh khác về em, một bức “Người đàn bà nằm
khác”.
Anh muốn hôn em, hôn em.
Người yêu của tôi đột nhiên
nhận ra những ám ảnh của tôi, và bắt đầu tỏ ra sợ hãi chúng. Nàng cố
gắng lái
câu chuyện qua hướng khác, tới vấn đề đang làm khổ cả hai chúng tôi.
“Cha mẹ rất bực vì chuyện anh
muốn trở thành một họa sĩ,” nàng nói. “Anh sẽ trở thành một họa sĩ
nghèo say
sỉn, còn em sẽ trở thành cô người mẫu khỏa thân của anh… Đó là điều cha
em sợ
nhất.”
Nàng tính cười, nhưng không
thể. Nghe tiếng chân người gác dan già nện thình thình trên sàn gỗ,
chúng tôi
quay lại nhìn, theo thói quen, mặc dù không hôn nhau, và trở lại với đề
tài
“Người đàn bà nằm”. Nhưng tôi thực sự muốn hỏi nàng, tại sao cha em
muốn biết,
thứ nghề nghiệp gì đang chờ đợi bất cứ một anh con trai nào đến nhà xin
được
đưa cô con gái của ông “đi ra ngoài” (“đi ra ngoài” là một thuật ngữ
được ưa
dùng tại Thổ nhĩ kỳ vào thời kỳ này), và khi nào ông muồn gả chồng cho
cô con
gái? Tôi cũng muốn nói, hãy nói với cha em, anh đang học để trở thành
kiến trúc
sư. Nhưng ngay cả khi tôi chiến đấu nhằm giải tỏa những sợ hãi của ông
bố vợ
tương lai, tôi biết rõ, làm như vậy là tự kết án chính mình, mi sẽ trở
thành
một thứ nghệ sĩ chỉ vào trong dịp cuối tuần mà thôi, kể từ lúc này. Mỗi
lần kêu
nàng trở về căn phòng của tôi ở Cihangir – điều này liên tục xẩy ra
trong nhiều
tuần lễ - và nàng từ chối, là mỗi lần cái đầu của tôi mất bình tĩnh, và
tôi chỉ
muốn la lên. Nhưng, là nghệ sĩ thì có gì sai trái? Nhưng sự trống rỗng
của viện
bảo tàng đầu tiên của Hội họa và Điêu khắc, tọa lạc tại một khu vực đẹp
nhất
Istanbul, với những căn phòng huy hoàng được xây dựng cho vì hoàng đế
tương
lai, với những bức tranh tệ hại treo trên tường những phòng vắng hoe,
là một
câu trả lời quá đầy đủ. Vừa mới đọc xong một cuốn sách về Halil Pasha,
tôi
biết, ông là một binh sĩ, và những bức tranh của ông chẳng có ai mua,
ngày này
qua tháng khác, ông và bà vợ buồn, cũng là người mẫu, phải sống trong
trại gia
binh, ăn những bữa ăn thanh đạm tại căng tin trại.
Trong lần gặp gỡ sau lần đó,
tôi cố làm nàng vui, chỉ nàng coi mấy bức họa uy nghi của Hoàng tử
Abdulmecit (Goethe ở Hậu cung, Beethoven ở Hậu cung) để nàng cười. Và rồi tôi đề nghị,
“Chúng ta tới Cihangir nhé?”, mặc dù tôi đã tự hứa với mình, không bao
giờ đề
nghị chuyện đó với nàng nữa. Và chúng tôi cầm tay nhau, cả hai cùng im
lặng.
“Anh sẽ bắt cóc em, em chịu không?”, tôi hỏi nàng, mượn bộ mặt sầu thảm
trong
một phim vừa coi.
Trong một lần gặp gỡ sau đó,
rất khó khăn để hẹn hò, vì không làm sao nói chuyện qua điện thoại, khi
chúng
tôi ngồi trong viện bảo tàng nhìn bức họa “Người đàn bà nằm”, cô người
mẫu xinh
đẹp bà buồn bã của tôi nói với tôi trong khi nước mắt ràn rụa trên má,
cha
nàng, tuy đối xử thật nghiệt ngã, hở ra là đấm đá mấy đứa em trai của
nàng,
ngược lại, ông rất thương nàng, thương đến nỗi có thể nói là bịnh hoạn,
và ông
trở nên ghen tuông khùng điên đối với tất cả những đứa con trai tính
bén mảng
gần nàng, và vì vậy, nàng rất sợ cha, và cùng lúc, nàng thương cha nàng
vô
cùng, thương đến mức cảm thấy khốn khổ. Nhưng bây giờ nàng nhận ra,
nàng thương
tôi còn nhiều hơn thương cha nàng, và trong khoảng thời gian bẩy giây
đồng hồ
ông gác dan già sẽ tới chỗ chúng tôi đang ngồi, chúng tôi hôn nhau một
cách say
mê, thảm thiết, cuồng si, buông thả, thất vọng, tuyệt vọng… như trước
đây chúng
tôi chưa từng biết đến, chưa từng cảm thấy như vậy. Trong khi hôn nhau,
chúng
tôi nâng niu bộ mặt của nhau, như thể chúng bằng pha lê, bằng thuỷ
tinh, bằng
đồ gốm, và có thể bể nát bất cứ lúc nào.
Phu nhân của họa sĩ Halil
Pasha, từ trong bức tranh buồn rầu nhìn hai đứa chúng tôi, và khi người
gác dân
xuất hiện ở cửa, nàng ra lệnh:
“Anh bắt cóc em đi.”
“Anh sẽ bắt cóc em.”
Tôi có một cuốn sổ ngân hàng,
được mở ra tính đến lúc đó cũng được mấy năm, trong có số tiền để dành,
từ trợ
cấp bà tôi cho tôi. Tôi cũng sở hữu một phần tư của một cửa tiệm ở đại
lộ
Rumeli Avenue - phần này tôi được hưởng sau những đấu đá giữa cha và mẹ
- ngoài
ra tôi cũng còn sở hữu một ít chứng khoán, nhưng tôi cũng chẳng biết
chúng ở
đâu. Nếu tôi xoay sở sao cho có thì giờ, chừng hai tuần lễ, để dịch một
cuốn
tiểu thuyết cũ của Graham Greene, rồi mang tới cho một nhà xuầt bản, là
bạn của
Nuri, bạn tôi (hết còn bị cảnh sát truy nã), và tôi nhẩm tính trong
đầu, tiền
dịch sách có thể trả trước hai tháng tiền mướn nhà, một căn phòng giống
như cái
studio của tôi ở Ciganhir, và sống ở đó với cô người mẫu xinh đẹp của
tôi. Hay
có thể, sau khi tôi bắt cóc nàng, mẹ tôi sẽ thương hại cả hai đứa chúng
tôi, và
cho chúng tôi căn phòng ở Cihangir. Và hồi này bà cứ hỏi thằng con
hoài, tại
sao mà con buồn như vậy.
Sau một tuần lễ suy nghĩ về
tất cả những tình huống có thể xẩy ra, một cách thật là quyết tâm,
chẳng thua
gì một đứa trẻ lên kế hoạch mình sau này sẽ trở thành một người lính
chữa lửa,
chúng tôi hẹn gặp nhau tại Taksim, nhưng đây là lần đầu tiên nàng không
tới chỗ
hẹn, mặc dù tôi chờ nàng một tiếng rưỡi đồng hồ. Buổi chiều, tôi nghĩ,
nếu mình
không tìm một người nào đó để than thở, thì chắc là sẽ phát điên lên
mất, tôi
gọi cho một số bạn học ở Học viện Robert Academy. Đã lâu lắm tôi không
gặp họ.
Thích thú thấy tôi mê gái, đau khổ vì mê gái, và đang trong tình trạng
bó tay,
chẳng có ai có thể giúp đỡ được, cả đám cười hô hố khi thấy tôi say
mèm, tại
một hộp đêm ở Beyoglu. Đám bạn cảnh cáo, khoan nói chuyện mày cưới một
cô bé vị
thành niên không có sự bằng lòng của bố cô ta, chỉ cần người ta thấy
mày sống
cùng cô gái trong một căn nhà, là mày bị tống vô tù rồi, và rồi, thấy
tôi vẫn
tiếp tục lải nhải toàn những chuyện trời ơi đất hỡi, đám bạn hỏi, làm
sao mày
ước mong sau này trở thành nghệ sĩ, nếu mày bỏ học và đi cầy nuôi vợ? –
mặc họ
nói gì thì nói, tôi cũng chẳng thấy bực mình – và sau cùng, trong tinh
thần bạn
bè, một đứa trong đám bạn giúi cho tôi chiếc chìa khoá căn phòng mà tôi
có thể
nằm ở đó với “người đàn bà nằm” bất cứ khi nào muốn.
Sau hai lần đợi ở mãi tít
phía xa, bên ngoài cổng trường Dame de Sion, thật đông người vào giờ
tan học,
tôi bắt cóc được cô nữ sinh. Tôi hứa với nàng, nếu chịu đi cùng với tôi
tới ổ
uyên ương mới, chẳng còn ai có thể làm phiền chúng tôi nữa. Căn phòng
này, tôi
đã tới coi rồi, và cũng đã quét dọn sạch sẽ, sắp xếp cho có vẻ ngăn
nắp. Sau
cùng nàng cũng chịu nghe theo. Như sau đó tôi được biết căn phòng nói
trên đúng
là một tổ quỉ, không phải của chỉ một thằng bạn của tôi, mà còn của cả
ông già
của hắn nữa! Đúng là một tổ quỉ, và tôi biết là Bông Hồng Đen sẽ chẳng
bao giờ
nằm dài trên đi văng, làm người mẫu cho tôi vẽ tranh! Căn phòng có một
chiếc
giường lớn, và những đồ đạc độc nhất còn lại, là một tấm lịch của một
ngân hàng
nào đó treo trên tường, và một giá sách, ở đó, giữa hai chai “Ông già
đi bộ”,
là năm mươi hai tập Bách Khoa Toàn Thư của Anh, cả hai chúng tôi lăn xả
vào
nhau, lập đi lập lại ba lần trận tình buồn thảm và giận dữ. Khi tôi
nhận ra,
nàng yêu tôi nhiều hơn là tôi tưởng, khi tôi nhìn thấy nàng rúng động
đến như
thế nào mỗi lần chúng tôi làm tình, khi tôi thấy nàng dễ dàng và thường
xuyên
bật khóc nức nở, dạ dầy của tôi giáng cho tôi những cú quặn thắt người,
và khi
tôi cố làm cho bớt đau, nó càng quất mạnh thêm, tôi càng cảm thấy mình
hoàn
toàn bất lực. Lần gặp nào nàng cũng nói về chuyện cha nàng tính cho
nàng đi
trượt tuyết tại Thụy Sĩ trong kỳ nghỉ hè Tháng Hai, và sau đó cho nàng
vô học
tại một ngôi trường kỳ dị, toàn dân nhà giầu Ả Rập và đám Mẽo dở hơi.
Giọng hốt
hoảng của nàng càng làm tôi tin nàng, nhưng khi tôi cố làm cho nàng
vui, bằng
cách bắt chước một ngôi sao điện ảnh đóng vai anh chị người Thổ hứa hẹn
với
người yêu sẽ bắt cóc nàng, và nhìn thấy niềm hy vọng ở trong đôi mắt
người yêu,
chính tôi cũng tin rằng, mình sẽ làm được điều đó.
Vào đầu Tháng Hai, trong lần
gặp cuối trước kỳ nghỉ hè của trường học, để xua đi không khí ảm đạm về
một tai
họa sắp sửa xảy ra, và, cũng để cám ơn người bạn đã đưa cho tôi chiếc
chìa khóa
sử dụng căn nhà làm tổ uyên ương, chúng tôi mời anh ta tham dự, cộng
thêm một
vài người bạn khác nữa, và buổi tối hôm đó, đám bạn của tôi lần đầu
tiên được
diện kiến Bông Hồng Đen. Đám bạn học, do hoàn cảnh, do tính tình, do đủ
thứ,
mỗi đứa là nỗi nhức nhối, ở một phần khác nhau, của thân thể tôi, chính
vì vậy,
do bản năng mách bảo, chẳng bao giờ tôi muốn trộn lẫn những đám bạn này
với
nhau. Mọi chuyện kể như hỏng ngay từ phút đầu tiên Bông Hồng Đen gặp
họ. Cố tìm
cách bắt chuyện, họ đem tôi ra làm đầu trò, nhưng nàng lảng ra, và sau
đó, để
làm dịu tình hình, nàng gia nhập những mẩu chuyện hài, những chuyện này
thì
cũng được thôi, vào thời điểm khác, nhưng vào lúc này thì thật là
sượng. Khi
được hỏi về ông bà già, họ là ai, và họ làm gì, hoàn cảnh ra sao, giầu
hay
nghèo, nàng cắt cái bụp, như muốn nói thẳng, tôi rất ghét những câu hỏi
này, và
rất ghét nói về những chuyện đó, cả buổi tiệc còn lại, ngoại trừ những
lúc nhìn
ra vịnh Bosphorus từ khách sạn Bebek, hay tham gia những câu chuyện về
đá banh,
về một vài nhãn hàng, khoảnh khắc mà nàng cản thấy dễ chịu nhất, của cả
buổi
tối, là khi chúng tôi ngừng tại một điểm gần Bosphorus nhất, khu
Asiyan, để
ngắm một toà biệt thự bằng gỗ đang cháy rực ở phía bên kia Bosphorus.
Đó là một yali đẹp nhất ở Kandilli, rất gần chỗ
chúng tôi ngưng xe, tính theo mặt biển, và để nhìn rõ, chúng tôi ra
khỏi xe.
Người yêu của tôi quá chán cảnh mấy đấng bạn của tôi hò reo nhìn ánh
lửa thiêu
rụi tòa biệt thự bằng gỗ, nàng đến đứng cạnh tôi, và hai chúng tôi cầm
tay
nhau. Để tránh những chiếc xe hơi, và đám đông người tụ lại uống trà,
và để có
một cái nhìn thật đẹp đám cháy bên kia vịnh, một trong những biệt thự
bằng gỗ
sau cùng của triều đại Ottoman, chúng tôi đi bộ tới mép phía bên kia
của khu
Rumelihisari. Tôi kể nàng nghe, khi học trung học, tôi thường trốn lớp
và nhẩy
lên phà, qua bờ phía bên kia của con vịnh và lang thang, thám hiểm
những con
phố.
Đứng trước một cái nghĩa địa
nhỏ, trong đêm tối lạnh buốt, cảm thấy những dòng nước của con vịnh
Bosphorus chạy
rần rần trong xương tuỷ của cả hai chúng tôi nàng thầm thì, nàng yêu
tôi biết
là bao, và tôi nói tôi có thể làm bất cứ chuyện gì vì nàng, và tôi ôm
nàng chặt
cứng, như là tôi có thể, với tất cả sức lực, niềm đau, và hạnh phúc của
tôi.
Chúng tôi hôn nhau, một nụ hôn dài, như bất tận, và bất cứ khi nào tạm
ngưng,
tôi hé mắt nhìn, và thấy mầu vàng của ngọn lửa từ phiá bên kia vịnh bập
bùng
trên làn da mịn màng của nàng.
Trên đường về, chúng tôi ngồi
ghế sau, cầm tay nhau, chẳng nói một lời nào. Khi tới căn phòng của
nàng, nàng
chạy vội tới cửa như một đứa trẻ. Và đó là lần sau cùng tôi nhìn thấy
nàng. Nàng
không xuất hiện trong lần hẹn sau đó.
Ba tuần lễ sau khi kỳ nghỉ hè
hết, tựu trường trở lại, tôi lò mò tới cổng trường, đứng từ xa, nhìn
học sinh
ùa ra khỏi trường, nhìn từng người một cho tới khi Bông Hồng Đen xuất
hiện.
Mười ngày sau đó, tôi biết là vô ích, phải chấm dứt chuyện rình mò nơi
cổng
trường, nhưng mỗi lần tới giờ tan trường, là đôi chân của tôi lại mò
tới, và
tôi cứ tiếp tục đứng nhìn, cho đến khi đám đông tan hết. Một bữa, đứa
em trai
lớn nhất, và cũng là đứa mà Bông Hồng Đen cưng nhất trong số mấy đứa em
trai,
rời đám đông, tới gặp tôi, nói, Bông Hồng Đen gửi lời hỏi thăm tôi, từ
Thụy Sĩ,
cùng lúc đưa tôi một lá thư.
Tôi đọc thư khi đứng trong
một cửa hàng bán bánh ngọt, trong lúc hút thuốc lá. Trong thư, nàng nói
với
tôi, nàng rất hạnh phúc với ngôi trường mới của nàng, và nàng nhớ tôi,
nhớ Istanbul
rất nhiều.
Tôi viết cho nàng chín lá thứ
thật dài, bẩy lá thư tôi bỏ vô phong bì, và năm trong số đó, tôi gửi
bưu điện.
Tôi không hề nhận được thư trả lời của nàng.
|