Cám
Ơn Mr.
Grass.
Đầu năm
2000, văn giới hải ngoại có gửi thư ngỏ dưới đây, tới nhà văn Đức,
Gunter
Grass. Sau đó, ông, và sau đó, Hội Văn Bút Đức, có lên tiếng, và - có
thể còn
do nhiều yếu tố khác nữa - trường hợp đã được giải quyết đúng như sự
mong muốn
của tất cả.
Thay mặt tất
cả, xin cám ơn ông, Mr. Grass.
TIN VĂN
Giáng Sinh
2003
Sau đây là
tài liệu liên hệ.
Thư Ngỏ
gửi Guenter Grass
LTS: Hai nhà
văn Việt Nam đang gặp nguy cơ bị toà án Đức Quốc ra lệnh trục xuất về
Hà Nội. Một
số nhà văn hải ngoại đã cùng ký tên dưới bức thư ngỏ gửi nhà văn
Guenter Grass,
nhờ ông lên tiếng trong trường hợp này.
[Theo như
chúng tôi được biết, bản dịch tiếng Đức đã được chuyển tới Guenter
Grass, cùng
với lá thư, của một người bạn của ông, có quen biết gia đình DQN/LMH.
(Chúng
tôi đăng kèm theo đây, lá thư đã được dịch ra tiếng Việt của ông). Và
Grass đã
lên tiếng hỗ trợ. Ngoài ra, Hội Văn Bút Quốc Tế (PEN), chi nhánh Đức,
cũng đã
liên lạc qua luật sư của Hội với luật sư của gia đình DQN/LMH.]
Cầu chúc mọi
chuyện an lành.
Dear Mr.
Guenter Grass,
Thưa Ông,
Chúng tôi, một
số người cầm viết Việt Nam, rời bỏ quê hương sau khi chiến tranh kết
thúc trên
10 năm mà vẫn không có cơ hội được viết ở bên ngoài Đảng CS; viết thư
này để
xin ông bênh vực cho hai người, nhà thơ và nhà văn, đi từ Hà Nội, xin
được định
cư ở Đức để tiếp tục là những nghệ sĩ trung thành với tiếng nói của họ.
Đúng ra, người
viết thư này phải là họ, những người khách mời bất đắc dĩ của quê hương
của
ông. Thay vì vậy, lại là những lời cầu mong sự can thiệp của ông, về số
phận của
họ. Nhưng có lẽ một người thứ ba, là chúng tôi, nói thay cho họ, như
vậy lại dễ
dàng hơn.
La seule
noblesse est la noblesse de la douleur (Baudelaire): họ có quá nhiều tự
trọng,
và hổ thẹn, khi phải nói về số phận của họ, về nguyên nhân từ bỏ quê
hương là một
nước Việt Nam Cộng Sản, để xin tị nạn ở Đức. Họ đã bị bác đơn, vì theo
tòa án,
như chúng tôi được biết, đây là một nhà văn, mà văn chương đâu phải là
một lý
do để xin tị nạn chính trị.
Khi trả lời
Olivier Mannoni, trong một phỏng vấn dành cho báo Magazine Littéraire,
số 381,
Novembre, 1999, ông cho biết, sau cuộc chiến, và trong thời kỳ chiến
tranh lạnh,
nước Đức đã bị tuyệt đối chia cắt, về phương diện ý thức hệ, kinh tế,
quân sự;
nhưng văn chương, không. Hai nền văn chương cho dù nếu có tính xung
đột, vẫn có
những tương quan, giao tiếp với nhau. Và cuộc đối thoại này đã không hề
bị đứt
đoạn.
Văn chương
Việt Nam không được may mắn như vậy. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh
toàn cầu,
và chiến tranh nóng tại Đông Dương, văn chương Việt Nam đã bị chia cắt
và ô nhiễm.
Những nhà văn của cùng một ngôn ngữ là tiếng Việt đã không được phép,
và chẳng
làm sao có cơ hội nhận ra nhau, để thông cảm như những người cùng chung
môi trường
sống và định mạng lịch sử, ngay cả khi đất nước đã được thống nhất
(trước Đức
15 năm), và dân chúng của nó phải chạy ra biển, ở cả hai miền Nam và
Bắc.
Với nhà văn,
mất mát luôn luôn là thu nhập, (pour un écrivain, une perte est
toujours un
gain), như ông trả lời phỏng vấn trên tờ Lire, nhân cuốn "Tất cả câu
chuyện"
được dịch ra tiếng Pháp; đã có những tiếng nói văn chương phản kháng ở
trong nước,
hay tiếp nối dòng văn chương của Miền Nam trước 1975 ở hải ngoại; nhưng
tiếng
nói Miền Bắc, đối thoại thực sự với tiếng nói Miền Nam, chưa có.
Đỗ Quang
Nghĩa và Lê Minh Hà là cơ hội đầu tiên của chúng tôi.
Những nhà
văn Việt Nam trưởng thành khi cuộc chiến Đông Dương ngưng lần thứ nhất,
đã để lỡ
cơ hội ngay sau năm 1954, khi không hòa giải được với nhau qua tiếng
nói và qua
sinh mệnh của dân tộc. Một số nhà văn Miền Bắc thuộc nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm đã
nhận ra hiểm họa, khi sử dụng văn chương vào những mục đích chính trị
nhất thời
là làm cho nó bị tổn hại, và hậu quả sẽ không thể lường được. Họ đã yêu
cầu Đảng
và Nhà Nước: hãy lấy tất cả, nhưng trả văn chương cho chúng tôi. Nhà
văn Phan
Khôi đã nói thẳng với những nhà văn nhà nước: Đảng dậy chúng ta (làm)
chính trị,
chứ đâu dậy chúng ta (làm) văn chương! Nhà thơ Trần Dần, đã nhìn sự huỷ
diệt thủ
đô lịch sử và văn hóa, và cùng với nó là biểu tượng của cả một dân tộc,
qua viễn
ảnh Tận Thế Là Đây, Apocalypse Now:
Tôi bước đi,
không thấy phố, không thấy nhà,
Chỉ thấy mưa
sa trên mầu cờ đỏ.
Họ
đã bị tù đầy, cô lập về kinh tế, đi lại, và
cuối cùng tiếng nói văn chương thực sự của một miền đất nhằm chống lại
chính
sách độc đoán, toàn trị của Đảng CSVN đã bị bóp nghẹt vào năm 1958,
trước khi
cuộc chiến Đông Dương lần hai khai màn.
Ở Miền Nam,
những tiếng nói hòa giải, chống chiến tranh của Phật Giáo, nghệ sĩ, trí
thức,
sinh viên, thanh niên cũng đã bị chính quyền Sài Gòn bóp nghẹt.
Chúng ta hãy
giả sử, nếu hai tiếng nói đó cùng cất lên, mở ra một lối thoát cho xã
hội, cho
văn chương, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền có thể đã không xẩy ra.
Tòa án Đức
có thể suy nghĩ: trả nhà văn Lê Minh Hà về nước, chắc chắn bà và gia
đình sẽ bị
trù giập, nhưng chưa chắc sẽ bị giết hại; nhưng cái cơ hội được như văn
chương
Đức, như ông nói tới trong bài phỏng vấn, biết đến khi nào đất nước
chúng tôi mới
có được? Mới đây thôi, nhân dân Đức, qua chính quyền liên bang, và Viện
Goethe
tại Hà Nội, có nhã ý cho dân chúng Việt Nam được thưởng thức Cái Trống
Thiếc,
phim dựa trên tác phẩm của ông và đã từng đoạt giải thưởng Oscar. Nhà
cầm quyền
địa phương yêu cầu cắt bỏ hai phút của phim, với lý do trái thuần phong
mỹ tục ở
Việt Nam. Volker Schlondorff, nhà đạo diễn, quyết định tôn trọng và bảo
vệ sự vẹn
toàn của tác phẩm nghệ thuật; và có thể cũng là để đề kháng với một uy
quyền
nào đó đè lên con người sáng tạo, ông đã từ chối cho chiếu phim. "Hãy
bỏ
qua sự khốn cùng. Phong tục mời bạn bỏ qua nó", "Ignore the misery.
Custom invites you to ignore it", như ông viết về phận người ở India
nhân
một chuyến du lịch tại đây: Đến Việt Nam như một nghệ sĩ, nhà đạo diễn
đành làm
một người khách du lịch. Trong hoàn cảnh đó, làm sao một người viết như
Lê Minh
Hà, một khi bị trả về, lại có thể dõng dạc "há mồm ra", như một cách
gọi đáng yêu của ông, về truyền thống Âu Châu, trong đó có truyền thống
Đức?
Tòa án Đức
cũng đã bỏ qua hoàn cảnh nguy nàn của Đỗ Quang Nghĩa, người chồng Lê
Minh Hà, một
nhà thơ tiếp nối tinh thần nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt qua Trần
Dần. Gia
đình ông bị liệt vào thành phần phản động. Trong thời kỳ chiến tranh
với Miền
Nam, dù Miền Bắc hầu như đã kiệt cạn nhân lực, nhưng Đảng CS đã không
sử dụng tới
gia đình này. Một người anh em của ông được đưa vào Nam chiến đấu, phút
chót bị
gọi về, bởi vì Đảng CS và Nhà Nước lo sợ, họ sẽ làm gián điệp cho Miền
Nam.
Trong một
bài điểm sách khi tác phẩm đầu tay của Lê Minh Hà, tập truyện ngắn
Trăng Góa xuất
hiện ở hải ngoại (1998), chúng tôi có nhắc tới trường hợp cuốn Dr.
Zhivago, của
Boris Pasternak, và bài viết của George Steiner, khi điểm cuốn Văn
chương và
Cách mạng (Literatur und Revolution), của Jurgen Ruhle. G. Steiner cho
rằng,
Ruhle đã nhận ra ở Pasternak tiếng nói đích thực của Nga, và cùng với
nó, viễn ảnh
vượt lên mọi oan khiên và tàn bạo của nhất thời; và đồng ý với Edmund
Wilson
khi tìm thấy ở nhân vật Lara và Zhivago một thách đố không thể trả lời
đối với
chủ nghĩa duy lịch sử và định mệnh thuyết chối từ cuộc đời của ý thức
hệ Cộng sản.
Thật hiển nhiên, nếu Pasternak có thể giữ riêng cho mình một tình yêu
nổi loạn,
riêng tư ngay trong lúc ăn nằm với Liên bang Xô viết, điều này chứng tỏ
tinh thần
Nga vẫn còn sống ở bên dưới lớp băng là kỷ luật Đảng.
Từ lâu,
chúng tôi vẫn cố tìm cho được cái tình yêu nổi loạn ngay trong lúc phải
ăn nằm
với chủ nghĩa toàn trị, của cái gọi là tinh thần Hà Nội, thủ đô văn hoá
truyền
thống, lâu đời của đất nước chúng tôi.
Sau này,
chúng tôi nhận thấy nó, ở Vũ Thư Hiên, và Đỗ Quang Nghĩa & Lê Minh
Hà.
Chúng tôi
xin được mạn phép nói riêng về Vũ Thư Hiên, như một trường hợp tiền lệ
ở đây.
Ông là một nhà văn, một dịch giả, và một đạo diễn nổi tiếng ở Hà Nội,
đã từng
du học ở Nga. Sau 1989, ông đang viết một cuốn hồi ký tại Moscow thì bị
Đảng
CSVN cho người đàn áp và tịch thu bản thảo ngay khi còn ở trong máy
điện toán.
Ông đã chọn lựa xin tị nạn ở Pháp, ra đời được tác phẩm của mình, Đêm
Giữa Ban
Ngày, và hiện được Hội Đồng Âu Châu bảo vệ.
Trong Trăng
Goá, nhân vật nữ đã phải đi bước nữa sau khi người chồng mất đi vì hậu
quả của
chất độc hóa học khi chiến đấu tại biên giới phía Bắc. Bà tự nhủ lần
này lấy chồng
là tìm cha cho đứa nhỏ: đây là giọng nói của một người đàn bà Miền Bắc
Việt
Nam, tuy hết hy vọng về mình nhưng vẫn còn hy vọng về con, tuy mệt mỏi
nhưng
không chịu bị bẻ gẫy. Thứ tiếng nói đó, ngôn ngữ đó, là ngôn ngữ của cả
một miền
đất đang chuẩn bị thoát ra khỏi bóng đen, như ngôn ngữ Đức sau chiến
tranh,
bông sen trong biển lửa, hay là giọng con phượng hoàng đưa mỏ ra khỏi
Lò Thiêu,
như Salman Rushdie nhận định về ngôn ngữ văn chương của Heinrich Boll
và của
ông.
Trong quá khứ
ông đã nhiều lần lên tiếng hỗ trợ những người cầm viết bị xua đuổi,
bách hại.
Ông cũng đã từng đề nghị chia một phần vinh quang với nhà văn Christa
Wolf, trước
đây ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức, khi biết tin nhận giải Nobel. Chúng tôi hy
vọng tiếng
nói của ông lại một lần nữa cất lên, giúp cho những con người khốn khổ
vì đam
mê tự do và ngôn ngữ như Đỗ Quang Nghĩa và Lê Minh Hà có được một cơ
may làm một
người nghệ sĩ trọn vẹn.
Trân trọng,
Bùi Vĩnh
Phúc, Cao Bá Minh, Cao Xuân Huy, Châu Văn Thọ, Đỗ KH, Đỗ Ngọc Yến,
Hoàng Khởi
Phong, Hoàng Phủ Cương, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Đình Nghiêm, Hồ Minh Dũng,
Khánh Trường,
Khế Iêm, Khiêm Lê Trung, Lâm Chương, Lê Bi, Lê Thứ, Lê Thị Thấm Vân, Lê
Thọ
Giáo, Lưu Nguyễn, Lưu Hy Lạc, Luân Hoán, Mai Kim Ngọc, Mai Ninh, Nguyễn
Đăng
Thường, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Hương, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Đình
Thuần,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Ngọc Nhung,
Nguyễn Quí Đức,
Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Văn Sâm, Nhã Ca, Nhật Tiến, Nguyễn Xuân
Hoàng,
Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Quốc Trụ, Phạm Trần, Phạm Phú Minh, Phạm Việt
Cường,
Phan Thị Trọng Tuyến, Phan Tấn Hải, Phùng Nguyễn, Tạ Chí Đại Trường,
Thân Trọng
Mẫn, Thảo Trường, Thường Quán, Trầm Phục Khắc, Trân Sa, Trần Dạ Từ,
Trần Doãn
Nho, Trần Vũ, Trịnh Y Thư, Trúc Chi, Triều Hoa Đại, Trương Vũ, Tưởng
Năng Tiến,
Tường Vũ Anh Thy, Vũ Huy Quang.
Danh sách bổ
túc, từ tuần báoVHNT trên lưới Internet, địa chỉ http://www. saomai.org:
Phạm Chi
Lan, Thận Nhiên, Thu Thuyền, Hoàng Tường Anh, Nguyễn Tiến Dũng, Don Do,
Vinh
Toan, Y khanh, Đức Thuần, Phạm Thế Định, Phuong Ton, Lê Tạo, Sùng
Nguyễn, Đinh
Trường Chinh, Hien Dinh, Nguyễn Phước Nguyên.
Sau đây là
thư của bạn nhà văn Guenter Grass, nhờ can thiệp cho gia đình nhà văn
người Việt.
Raimund B.
Zoellner
8 tháng 1
năm 2000
Guenter
Grass thân mến,
Cho phép tôi
gọi ông như thế bởi tôi đã từng, ở thời kỳ trước và sau khi quyển 'die Blechtrommel' (Cái Trống Thiếc) ra đời, ở
bên ông, tổ chức đọc, hẹn ngày gặp lại và góp sức thành công cho cuốn
sách, như
nhân vật Luchterhand.
Hiện thì tôi
đang lo lắng đến một bi kịch chính trị - nhân đạo của Lê Minh Hà và Đỗ
Quang
Nghĩa, một đôi vợ chồng người Việt cùng hai đứa con nhỏ, có thể họ cũng
gây được
mối quan tâm, về mặt văn học, nơi ông.
Ông sẽ biết
rõ hơn khi đọc xong tập bài vở kèm theo.
Tôi quen biết
hai người này từ nhiều năm nay, số phận tỵ nạn chính trị của họ sao
nặng nề, và
hoàn cảnh trói buộc họ, vì sự chờ đợi, ở thời điểm này, đầu thế kỷ này.
Tôi bảo đảm
cho họ về sự đáng tin cậy mặt tình cảm cũng như lý trí, về sự trình bày
con đường
họ đã đi ở Việt Nam và ở nước Đức. Nhưng tôi cũng biết, một sự xử lý
nhân đạo
cho gia đình họ - để họ đoàn tụ, và sống dài lâu ở đây - sẽ bị thất bại
trong mớ
bùng nhùng của chính sách tỵ nạn Đức, bởi tại các văn phòng xử lý công
việc chỉ
thống trị sự vô cảm khủng khiếp, sự ngu dốt và 'trung thành với pháp
luật'.
Nhân đạo không có chỗ đứng ở đó.
Sự giận dữ đến
mất bình tĩnh và mất khôn cũng không giúp gì, tôi biết thế.
Không rõ vị
thế và tên tuổi của ông có thể can thiệp vào việc này ở mức độ nào, tôi
cứ hy vọng
mỏng manh, Guenter Grass thân mến, tôi, 'nhân vật Luchterhand già', gửi
lời
chào ông.
Ký tên