|
Tổng
Thống Da Đen Đầu Tiên
Của Mẽo được Nobel hòa bình
Tuyệt Cú Mèo!
Đọc mấy lời bình nói về chuyện
Obama được
giải Nobel, tôi thích lời bình này nhất
Thôi cứ cho Obama giải đi, nhỡ mà ông chết ngay lập tức – ông có quá
nhiều kẻ
thù và thời buổi này có quá nhiều nguy hiểm rình rập – mà nhân loại
chưa thưởng
gì cho ông thì sẽ tiếc!
Thôi được, nhà Phật nói cái chính là khởi tâm! Làm được hay không được,
nhưng
có khởi tâm là Trời thấu cho rồi!
*
Đúng như thế.
Khi O. được, tôi cũng nghĩ như vậy,
Vì ông ta đâu đã làm được điều gì có kết quả.
Nhưng đâu cần.
*
Phe
Bảo Thủ Na-Uy còn đòi ông
chủ tịch từ chức – một cách trao giải như vậy làm cho thế
giới phải
xem lại « thiện tâm ».
Ai cũng có thiện tâm là thế giới đi một bước xa đến hoà bình rồi.
*
Mẽo có chính sách Cái Roi và Củ Cà Rốt.
Cũng là "gậy đập lưng ông": Ông cho mày củ cà rốt, còn cái roi, thì
chờ đấy.
Tờ Time phán, O được, chỉ vì không phải là Bush!
Nói, Obama chưa làm được điều
gì, thực sự là do kỳ vọng ở ông quá nhiều. Obama đã làm được một điều
lớn lao
vô cùng, mà cái lũ thực dụng chẳng thể nào nhận ra, đó là đem lại phẩm
giá cho
Mẽo, khi nói KHÔNG với tra tấn, xóa đi cho dân Mẽo nỗi nhục US Gulag,
từ khi
còn cuộc chiến Việt Nam, ít ra là từ đó.
Post sau đây một đoạn, mà bất
cứ một người Miền Nam nào, đọc, là đau lòng, của Graham Greene, được
Jean Améry
trích lại, trong Par-Delà Le Crime Et Le Châtiment, Esai pour surmonter
l’insurmontable.
Dans la plupart des pays
occidentaux la torture devenue une institution
et une
méthode a été abolie dès la fin du XVIIe siècle. Pourtant aujourd'hui,
deux
siècles plus tard, il y a encore des hommes et des femmes qui parlent
des
souffrances endurées, mais personne ne connaît leur nombre. En
travaillant à
cet essai, je suis tombé sur un journal dans lequel une série de photos
montrent des soldats de l'armée sud-vietnamienne en train de torturer
les
rebelles viêt-congs qu'ils ont réussi à capturer. C'est à ce propos que
le
romancier anglais Graham Greene écrivit au Daily Telégraph de
Londres
une lettre dans laquelle il dit ceci :
"Ce qu'il y a de singulier dans
ces photographies publiées par la
presse
anglaise et américaine, c'est qu'elles ont visiblement été prises avec
l'assentiment des tortionnaires et qu'aucun commentaire ne les
accommpagne.
Exactement comme s'il s'agissait de planches illustrant un ouvrage
zoologique
sur la vie des insectes ! Cela signifie-t-il que les autorités
américaines
considèrent la torture comme une forme légale d'audition des
prisonniers de
guerre ? Certes, si l'on veut, ces photos témoignent d'une certaine
honnêteté,
et elles prouvent aussi que les autorités ne ferment pas les yeux. Mais
je me
demande si finalement l'hypocrisie du passé n'est pas préférable à
cette sorte
de bonne foi inconsciente ... "
Chacun de nous se pose sûrement
la même question que Graham Greene.
L'aveu de
la torture, l'entreprise risquée - mais l'est-elle encore vraiment? -
qui
consiste à divulguer de tels documents photographiques au grand
public, ne
s'explique que dans l'hypothèse où la révolte des consciences n'est
plus à
craindre. A croire que les consciences se sont habituées à ces
pratiques.
Phần
đông các nước Tây Phương,
kể như không còn ra tấn, kể từ cuối thế kỷ 18. Tuy nhiên, bây giờ, hai
thế kỷ
sau đó, vẫn có những người nói đến những nỗi đau đớn kéo dài, nhưng
chẳng ai biết
con số người này là bao nhiêu. Trong khi làm việc cho tiểu luận này,
tôi tình cờ
vớ được một tờ báo, trong có một số hình cho thấy những binh sĩ VNCH
đang tra tấn
VC mà họ tóm được. Vì chuyện này mà tiểu thuyết gia người Anh Graham
Greene gửi
‘thỉnh nguyện thư’ cho tờ Daily Telégraph de Londres, trong đó, ông
viết:
Cái chuyện hơi bị đặc biệt ở
trong những bức hình được báo chí Anh và Mẽo cho đăng này, là, có vẻ
như đám lính
Ngụy cứ thản nhiên, cứ vô tư tra tấn, như hết mẹ tình cảm, và cũng
chẳng có một
cái còm nào đi kèm.
Y chang những bức tranh Sở Thú,
vẽ lại cuộc sống của mấy con côn trùng.
Điều này có nghĩa, nhà cầm
quyền Mẽo coi tra tấn như là một hình thức hợp pháp để lấy cung những
tù nhân
chiến tranh. Nếu như thế, thì những bức hình cho thấy một sự thành thực
nào đó,
và nó còn chứng tỏ nhà cầm quyền biết, về sự hiện hữu của những bức
hình như vậy.
Nhưng tôi tự hỏi, như vậy là,
sau cùng, thiện tâm vô ý thức, như trên đây, đã thắng thế, thói đạo đức
giả của
quá khứ?
Mỗi người trong chúng ta sẽ
phải tự đặt cho mình, cùng một câu hỏi như vậy.
Cái sự thú nhận [đã tiến hành]
tra tấn, qua những bức hình được công bố trên báo chí, chỉ có thể cắt
nghĩa bằng
một giả thuyết: Rằng, sự nổi loạn của lương tâm là một chuyện chẳng cần
phải để
tâm đến, chẳng cần lo sợ.
Như thể lương tâm quá quen với
những cách hành xử như vậy.
Nói, Obama chưa làm được điều
gì, thực sự
là do kỳ vọng ở ông quá nhiều. Obama đã làm được một điều lớn lao vô
cùng, mà
cái lũ thực dụng chẳng thể nào nhận ra, đó là đem lại phẩm giá cho Mẽo,
khi nói
KHÔNG với tra tấn, xóa đi cho dân Mẽo nỗi nhục US Gulag, ít ra là từ
cuộc chiến
Việt Nam
Post sau đây một đoạn, mà bất
cứ một người
Miền Nam
nào, đọc, là đau lòng, của Graham Greene, được Jean Améry trích lại,
trong Par-Delà
Le Crime Et Le Châtiment, Esai pour surmonter l’insurmontable.
[Vượt quá tội ác và hình phạt: Khảo luận để vượt lên cái không thể vượt
được.
Par-delà le crime et le châtiment. Essai pour surmonter
l'insurmontable, Actes
Sud, 1995.]
Dans la plupart des pays
occidentaux la torture devenue une institution
et une
méthode a été abolie dès la fin du XVIIe siècle. Pourtant aujourd'hui,
deux
siècles plus tard, il y a encore des hommes et des femmes qui parlent
des
souffrances endurées, mais personne ne connaît leur nombre. En
travaillant à
cet essai, je suis tombé sur un journal dans lequel une série de photos
montrent des soldats de l'armée sud-vietnamienne en train de torturer
les
rebelles viêt-congs qu'ils ont réussi à capturer. C'est à ce propos que
le
romancier anglais Graham Greene écrivit au Daily Telégraph de
Londres
une lettre dans laquelle il dit ceci :
"Ce qu'il y a de singulier dans
ces photographies publiées par la
presse
anglaise et américaine, c'est qu'elles ont visiblement été prises avec
l'assentiment des tortionnaires et qu'aucun commentaire ne les
accommpagne.
Exactement comme s'il s'agissait de planches illustrant un ouvrage
zoologique
sur la vie des insectes ! Cela signifie-t-il que les autorités
américaines
considèrent la torture comme une forme légale d'audition des
prisonniers de
guerre ? Certes, si l'on veut, ces photos témoignent d'une certaine
honnêteté,
et elles prouvent aussi que les autorités ne ferment pas les yeux. Mais
je me
demande si finalement l'hypocrisie du passé n'est pas préférable à
cette sorte
de bonne foi inconsciente ... "
Chacun de nous se pose sûrement
la même question que Graham Greene.
L'aveu de
la torture, l'entreprise risquée - mais l'est-elle encore vraiment? -
qui
consiste à divulguer de tels documents photographiques au grand
public, ne
s'explique que dans l'hypothèse où la révolte des consciences n'est
plus à
craindre. A croire que les consciences se sont habituées à ces
pratiques.
Phần
đông các nước Tây Phương,
kể như không còn tra tấn, kể từ cuối thế kỷ 18. Tuy nhiên, bây giờ, hai
thế kỷ
sau đó, vẫn có những người nói đến những nỗi đau đớn kéo dài, nhưng
chẳng ai biết
con số những người này là bao nhiêu. Trong khi loay hoay viết tiểu luận
này,
tôi tình cờ
vớ được một tờ báo, có một số hình những binh sĩ VNCH
đang tra tấn
VC mà họ tóm được. Vì chuyện này mà tiểu thuyết gia người Anh Graham
Greene gửi
‘thỉnh nguyện thư’ cho tờ Daily
Telégraph de Londres, trong đó, ông
viết:
Cái chuyện hơi được bị đặc biệt ở
trong những bức hình được báo chí Anh và Mẽo cho đăng này, là, có vẻ
như đám Ngụy mặt tỉnh queo vô tư tra tấn Cách Mạng, đã vậy, cũng
chẳng có một
cái còm nào đi kèm.
Y chang những bức tranh Sở Thú,
vẽ cuộc sống thú vật, côn trùng.
Điều này có nghĩa, nhà cầm
quyền Mẽo coi tra tấn như là một hình thức hợp pháp để lấy cung
tù nhân
chiến tranh. Nếu như thế, thì những bức hình cho thấy một sự thành thực
nào đó,
và nó còn chứng tỏ nhà cầm quyền biết, về sự hiện hữu của những
chuyện ác đức như vậy.
Nhưng tôi tự hỏi, như vậy là,
sau cùng, thiện tâm vô ý thức, như trên đây, đã thắng thế, thói đạo đức
giả của
quá khứ?
Mỗi người trong chúng ta sẽ
phải tự đặt cho mình, cùng một câu hỏi như vậy.
Cái sự thú nhận [đã tiến hành]
tra tấn, qua những bức hình được công bố trên báo chí, chỉ có thể cắt
nghĩa bằng
một giả thuyết: Rằng, sự nổi loạn của lương tâm là một chuyện chẳng cần
phải để
tâm đến, chẳng cần lo sợ.
Như thể lương tâm quá quen với
những cách hành xử như vậy.
*
Lần đầu tiên Gấu chứng kiến
tra tấn, đúng cái cảnh được miêu tả như trên, nghĩa là Việt gian, ở đây
là viên
quận trưởng một quận ở Miền Bắc, ‘vô tư’ đá binh binh một anh du kích,
tại một đồn
trên đê sông Hồng.
Như Gấu còn nhớ được, Gấu lúc
đó vừa từ bỏ vùng kháng chiến, về Tề, sống với bà cụ, và quận, vì muốn
kéo nhân
dân về phía quốc gia, nên đã cho tổ chức những lớp tiểu học ngay tại
đồn, cho các
cháu trong vùng.
Bữa đó, lính bảo chính đoàn của
Bảo Đại, hay của Quốc Gia, hay Việt Gian, vừa tóm được một anh du kích
đưa về đồn,
và ông quận, trong khi chờ tới giờ lên lớp, bèn tra hỏi anh du kích, và
đá binh
binh vào cái thân người nằm lăn lộn dưới mặt đất. Gấu khiếp hãi quá,
mặt xanh lè,
chắc hẳn thế, là vì ông quận đang hăng hái đá tới tấp, bỗng nhìn thấy
thằng bé
mặt không còn hột máu, bỗng ngẩn người, ngưng đá, và ra lệnh đưa tên du
kích đi
chỗ khác.
Chẳng bao giờ Gấu quên được cảnh
tượng trên đây.
*
Tra
tấn, là ‘một
trong vài cái tội’, được gọi là ‘tội tổ tông’ của loài người.
"Perhaps",
writes Nietzsche in the Genealogie der Moral, "there is nothing more
terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our
mnemonic
technique. We burn something into the mind so that it will remain in
the
memory; only what still hurts will be retained".
Sebald viết về
Weiss: "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm
của
Peter Weiss", The Remorse of the
Heart: On Memory and Cruelty in the
Works
of Peter Weiss, trong "Lịch
sử tự nhiên về huỷ diệt, On the natural
history of destruction", nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell
dịch, từ
tiếng
Đức].
Trong
trọn thời
kỳ tiền sử, có lẽ không có chi khủng khiếp và bí ẩn hơn, so với kỹ
thuật tạo
dấu ấn của con người, Nietzsche viết trong Genealogie der Moral: Chúng
ta đánh
dấu trái tim của chúng ta bằng lửa, sao cho, chỉ cái đau được giữ lại,
[cái
sướng bỏ đi].
Tra tấn có hiệu
quả hay không?
Có, theo nhiều khảo cứu, ghi nhận.
Hiệu quả đầu tiên, là, cái tên tra tấn, để làm được cái việc đó, phải
thiến bỏ
đi, một tí người ở trong anh ta.
Bởi vì, cũng những khảo cứu, nghiên cứu cho thấy, đa phần đám này,
thường là
uống rượu như hũ chìm, xì ke ma túy vô tư, làm thịt gái như cơm bữa.
Chứng cớ hiển nhiên: Bài báo ngay dưới đây, trên tờ Người Quan Sát Mới,
có đoạn
mô tả những tên làm nghề tra tấn người, hậu duệ của những Hồng Quân
Liên Xô
ngày nào: 'Chúng uống Vốt Ka, chúng phi cần sa. Bởi vì không một người
nào có
thể làm được những điều chúng làm, ở tình trạng bình thường'
Ở Nga, những người tranh đấu
cho nhân quyền là những nạn nhân đầu tiên
của những vụ vi phạm nhân quyền mà họ tố cáo.
Bị coi như kẻ thù của nhân
dân, bởi chế độ, họ bị đánh đập, bắt bớ, tra
tấn. Và làm thịt.
Ui chao, đâu có thua
gì đàn em VC!
Làm sao thua?
MONDE
En Russie, les défenseurs des
droits de l'homme sont les premières victimes des abus qu'ils
dénoncent.
Considérés comme des «ennemis de la patrie» par le régime, ils sont
harcelés,
arrêtés, torturés. Voire assassinés
Poutin
contre les “chacals”
De
notre envoyé spécial
Jean-Baptiste Naudet
Akhmed Guissaev est un homme
traqué. Il sait qu'il est le prochain sur « la liste». Ce juriste était
l'un
des plus proches collaborateurs de Natalia Estemirova, la très obstinée
représentante en Tchétchénie de Mémorial, célèbre association de
défense des
droits de l'homme. Une femme enlevée à Grozny
le 15 juillet, puis exécutée. Depuis, il est plus que jamais harcelé,
menacé. “C'est la vôtre qu'on a tuée, lui ont dit
les deux policiers qui le suivaient en permanence. Et tu sais
pourquoi.” Les agents sont repartis. “Personne ne peut te
protéger”, l'a
gentiment averti plus tard un autre policier. Peu après, le 11 août,
c'était au
tour d'une repréésentante d'une autre organisation non gouvernementale,
Zarema
Sadoulaeva, d'être assassinée avec son mari, toujours à Grozny. Avis aux
amateurs. Akhmed Guissaev a
quitté la Tchétchénie.
Les
médias sous contrôle
Mémorial, dont le
premier
président fut le célèbre dissident et prix Nobel Andreï Sakharov, est
dans le
collimateur du pouvoir autoritaire du Premier ministre, « leader
naational»
russe et ex-lieutenant-colonel du KGB Vladimir Poutine. Pour mettre au
pas les
organisations de la société civile, tous les moyens sont bons. Lois
très
restrictives, contrôles fiscaux, tracasseries bureaucratiques ... et
violences
physiques. Leurs représentants sont souvent menacés, parfois battus par
des
“inconnus” et poursuivis en justice sous de futiles prétextes. Car le
travail
de ces associations donne une “mauvaise image de leur pays.” Elles sont
donc,
selon le discours officieux, des “ennemies de la patrie” qui avec
l'aide de
l'Occident, veulent détruire la Sainte Russie. Les rares opposants
politiques
sont, quant à eux, systématiquement matraqués, arêttés. Ils sont, selon
Vladimir Poutine, “des chacals rôdant devant les ambassades étrangères”.
Les violations des droits de
l'homme? En Russie, on ne parle pas de ces choses-là. Vladimir Poutine
aime
plutôt célébrer chaque année, au champagne, l'anniversaire de la
fondation de
la Tcheka, la police politique anncêtre du KGB. Dans les livres
d'histoire, on préfère
réhabiliter Staline, “un bon manager”. La «grande terreur», qui fit
périr des millions
de Russes au goulag, est justifiée, par la réussite de
l'industrialisation. On
ferme les archives de la répression. Les historiens de Mémorial ne
peuvent plus
exhumer le terrible passé du communisme. Fin août, une inscripption –
“Staline
nous a éduqués à la fidélité du people” - a été gravée dans une station
rénovée
du métro de Moscou. L'armée a récupéré le drapeau rouge. L'hymne
soviétique,
aux paroles remises au goût du jour, est devenu celui de la Grande
Russie.
A part quelques sites
internet et un journal, « Novaya Gazeta », peu diffusé, les médias ont
été
placés sous le contrôle du pouvoir. La journaliste vedette de «Novaya
Gazeta», Anna
Politkovskaïa, qui collaborait avec Mémorial et avait dénoncé dans un
livre “le
déshonneur russe”, a été assassinée en 2006 à Moscou, bien qu'elle ait
été sous
surveilllance du FSB (ex-KGB) au moment de sa mort. Son meurtrier,
détenteur de
papiers délivrés par les « organes», est en fuite. En jannvier 2009,
c'était au
tour de l'avocat défenseur des droits de l'homme Stanislav Markelov,
ainsi que
d'une autre journaliste de “Novaya Gazeta”, de tomber, en plein centre
de
Moscou, sous les balles de tueurs toujours « introuvables». Depuis que
Vladimir
Poutine est arrivé au pouvoir, une vingtaine de journalistes - dont un
Américain - ont été « mysstérieusement» assassinés. Les deux dernières
victimes
de tortures à avoir récemment témoigné publiquement ont, quant à elles,
« disparu».
En Russie, ce n'est plus seulement aux droits de l'homme que l'on s'en
prend
mais à leurs défenseurs, même les plus connus.
Pourtant Akhmed Guissaev
s'est décidé à travailler pour Mémorial afin que ce qui lui est arrivé
en 2003
ne reste pas impuni ou, du moins, ne soit pas totalement ignoré du
monde. Ce
citoyen russe d'origine tchétchène a fait la très douloureuse
expérience de ce
que Nicolas Sarkozy a simplement appelé, lors d'une conférence de
presse en
octobre 2007 à Moscou, une “spécificité russe” dans le domaine des
droits de
l'homme. Le président français n'était “pas venu donner des leçons» de
démocratie. Oubliée, “la diplomatie des valeurs» qu'il prônait pendant
sa
campagne électorale. Le gaz, le pétrole, les juteuses perspectives du
marché
russe ainsi qu'un droit de veto au Conseil de Sécurité de l'ONU ont
leurs
raisons, que « les valeurs» ne connaissent pas. Akhmed Guissaev a,
quant à lui,
reçu une bonne leçon. Aujourd'hui, cet homme marié, qui a un fils de 2
ans et
demi et dont le père fut un héros soviétique de la Seconde Guerre
mondiale, se
cache et prépare sa fuite pour l'étranger - où l'on assassine aussi des
opposants russes. D'une voix douce et posée, il raconte ce qui l'a
poussé à
travailler pour Mémorial dans le Caucase du Nord.
Professionnels
de la torture
A l'aube du 23
octobre 2003,
pas moins de 70 hommes en armes de la police et du FSB ont encerclé son
domicile,
rue Shakespeare à Grozny. Arrêté, il a été incarcéré à Khankala, la
principale
base militaire russe de Tchétchénie, jeté dans une cellule inondée,
dans un
sous-sol, “en compagnie des rats”, dit-il. Pendant quinze jours, il a
été
torturé. Il montre des traces de brûlures de cigarettes sur ses mains.
Il
souffre toujours d'une fracture de la jambe. Il n'a pas vu le visage de
ses tortionnaires.
Pendant les interrogatoires, son visage était entouré de ruban adhésif
noir. “Ils étaient peut-être six ou sept hommes.
Ils buvaient de la vodka, fumaient du hasch. Car aucun homme ne peut
faire ce
qu'ils m'ont fait dans un état normal”, estime Akhmed. Les
bourreaux
parlaient russe, sans accent. Ce qui contredit la version couramment
admise
selon laquelle les atrocités, niées énergiquement par Moscou, seraient
éventuellement
commises par les seules autorités tchétchènes prorusses, dirigées par
le terrifiant
président Ramzan Kadyrov. Une version qui reflète les poncifs,
véhiculés
jusqu'à l'étranger par la littérature et la poésie russe, selon
lesquels les Tchétchènes
sont des «sauvages” qui aujourd'hui s'entre-tuent. “Les
décideurs ne sont pas en Tchétchénie. Ils sont à Moscou “,
assure Akhmed.
Ceux qui l'ont torturé
étaient des professionnels. “Ils
connaissaient bien leur travail. Entre chaque question, ils ne
laissaient pas
le temps d'inventer quelque chose. Entre chaque décharge d'électricité,
il n'y
avait pas le temps pour mentir.” Les tortionnaires voulaient
saavoir si
Akhmed connaissait des membres de la guérilla indépendantiste qui,
malgré les
discours officiels et la levée de l'état d'urrgence en avril, continue
de se
battre. Moscou a arrêté de publier les chiffres de ses pertes, mettant
l'accent
sur la “reconstruction”, la « normalization” Mais, malgré une féroce
répression,
la guérilla se renforce. Elle s'est peu à peu islamisée, d'abord à
cause des
manipulations des services russes, qui ont ainsi réussi à discréditer
le
courant nationaliste, puis par désespoir. Elle échappe depuis à tout
contrôle
et essaime dans le Caucase du Nord, peuplé de musulmans.
Malheureusement pour lui,
Akhmed Guissaev ne pouvait dénoncer personne, il ne connaissait que des
innocents arrêtés aveuglément comme lui ou des «disparus », des
exécutés
sommairement, parfois en public, «pour l'exemple ». Il était debout,
enchaîné à
un pilier. Quand on ne le torturait pas à l'électricité, on le battait,
à coups
de matraque en résine, jusqu'à ce qu'il vomisse du sang. Malgré ses
yeux
aveuglés pendant les « séances », il a pu voir le lieu de son suppplice
: “Il y
avait des fils électriques partout. Les murs avaient été repeints. Mais
sous la
peinture on voyait encore des impacts de balles, des tâches de sang”.
Les
Russes exécutaient ici, sans jugement. Il en est sûr. D'ailleurs, en
arrivant
au pouvoir, Vladimir Poutine n'a-t-il pas dit qu'il ne fallait pas
hésiter à “buter”
l'adversaire “jusque dans les chiottes” ?
Comme Akhmed ne parlait pas,
un chef est venu et lui a dit: “J'ai mon
secret pour te faire avouer. Tu vois ces rats? Os sont spéciaux. Ils
vont te dévorer
vivant. A moins que je ne t'abandonne, nu dans la montagne, jusqu'à ce
que tu
crèves de froid, seul.” Akhmed n'a rien dit. Alors on a proposé un
marché à
sa famille : “Si vous ne versez pas 1 500
dollars, il sera enterré vivant à Khankala.” La famille a payé.
Akhmed est
sorti. Il a porté plainte devant la Cour européenne des Droits de
l'Homme du
Conseil de l'Europe à Strasbourg.
Il recevra peut-être quelques milliers d'euros. Les horreurs
continueront. Les
Russes lui ont juste dit qu'il s'agissait d'une “erreur”.
Depuis, malgré les pressions, les risques pour sa vie, il
enquêtait pour Mémorial sur ces « erreurs
».
Oleg Orlov, qui préside à
Mémorial, le centre de recherche sur les Droits de l'Homme, a cru lui
aussi,
durant la nuit du 23 au 24 novembre 2007, être la victime d'une «erreur ». Il se trouvait en T-shirt et
en pantoufles par 0 °C, au milieu d'un champ couvert de neige on ne
sait où,
avec deux journalistes, prisonniers eux aussi. “Tuez-les!
Avec les silencieux”, criaient leurs ravisseurs. Oleg
Orlov s'était rendu en Ingouchie, république voisine de la Tchétchénie,
pour
observer une manifestation contre les « disparitions », les exécutions
sommaires,
la torture, des faits devenus routiniers dans le Caucase du Nord. Il se
reposait à Nazran, à l'hôtel Assa, rempli d'officiels et protégé par la
sécurité d'Etat, quand vers 23 heures trois hommes en armes, masqués,
en tenue
de camouflage, comme les forces « antiiterroristes », ont fait
irruption dans
sa chammbre. Eux aussi parlaient russe sans accent. Les policiers
locaux
chargés de garder l'hôtel avaient reçu l'ordre de partir. On l'a fait
allonnger
par terre, les mains sur la tête. Quand il a voulu présenter ses
papiers, il a
reçu des coups de pieds dans la tête : “Ils
ne m'ont pas laissé m'habiller. Ils m'ont emmené en voiture. Ils ont
franchi
tous les barrages sans s'arrêter. Alors j'ai été frappé par le fait que
tout se
déroulait comme dans nos rapports. Il ne s'agissait pas d'un simple
interrogatoire”. Dans le champ, les armes munies de silencieux
n'ont pas
tiré. Oleg Orlov et les deux journalistes, frigorifiés, ont pris une
nouvelle
volée de coups de pieds dans la tête. L'un des journalistes en a reçu
un en
pleine figure. Il souffre d'un traumatisme crânien et a perdu la
mémoire. Avant
de parrtir, les hommes en treillis ont juste dit : “La prochaine fois,
ce sera
pire”.
JEAN-BAPTISTE NAUDET
LE
NOUVEL OBSERVATEUR 8-14 Oct. 2009
Obama
[Nobel]
vs
Putin [contre les Droits de l'Homme]
\
Ở Nga, những người tranh đấu
cho nhân quyền là những nạn nhân đầu tiên
của những vụ vi phạm nhân quyền mà họ tố cáo.
Bị coi như kẻ thù của nhân
dân, bởi chế độ, họ bị đánh đập, bắt bớ, tra
tấn. Và làm thịt.
Ui chao, đâu có thua
gì đàn em VC!
Làm sao thua?
by Hendrik Hertzberg
October 19, 2009
And I
know that throughout
history the Nobel Peace Prize has not just been used to honor specific
achievement; it’s also been used as a means to give momentum to a set
of
causes. And that is why I will accept this award as a call to action, a
call
for all nations to confront the common challenges of the twenty-first
century.
Obama
Hơn ai hết, O. hiểu tại sao ông
được Nobel. Cái gọi là “momemtum” của ông sau này sẽ được coi như là
tay da đen đầu tiên tạo ra cú hích, trở thành tổng thống Mẽo, và, tạo
cú hích, rửa
nỗi nhục tra tấn cho cả Mẽo đen lẫn Mẽo trắng, lẫn Mẽo da mầu!
Liệu có ai còn nhớ, Norman
Borluag, là ai?
Hầu như chẳng ai.
Ông là một nhà nông học, người
Mẽo, đã từng được Nobel Hòa bình, vào năm 1970.
Người đã tạo ra phép mầu về mùa
màng, vị cha già của cuộc “cách mạng xanh”.
Có thể, Obama sẽ không bị quên như vậy! (1)
(1) ...
. Si le public ignore son
nom, c'est bien que la renommée n'a pas grand-chose à voir avec le
services
rendus à l'humanité.
Qui se souvient qu'un autre
agronome - américain, celui-là -, Norman Borlaug, reçut le Prix Nobel
de la
paix en 1970? Pratiquement personne. Et pourtant, Borlaug fut celui qui
mit au
point au Mexique les semences « miraculeuses» et les techniques
agricoles dont
Swaminathan s'est servi en Inde. C'est la collaboration entre ces deux
hommes,
entre Mexico et Delhi, qui a
donné
naissance à ce que l'on a appelé la « révolution verte » dans l'Asie
des
moussons.
La carte de
la famine coïncide avec celle
des ideologies
fausses
*
Có vẻ
như, ngoại trừ thằng
cha Gấu này ra, không một ai để ý đến cái chuyện Obama rửa nhục cho
nước Mẽo
[phục hồi nhân phẩm, chữ của VC] khi nói KHÔNG với tra tấn?
Và thằng Gấu bèn ngớ người, tự
hỏi, tại làm sao mi lại là cái thằng độc nhất nhận ra điều này?
Và nó bèn hiểu ra rằng thì là, hình ảnh, tay quận trưởng đá binh binh
vào cái thân người lăn lộn
trên mặt
đê sông Hồng, đã đi theo suốt cuộc đời thằng bé Bắc Kít ngày nào.
Và ở dưới đáy sông kia, là xác ông già của nó!
*
Thì ra ông Nguyễn Quốc Trụ
(NQT) đã ngoài bảy bó, cây đa cây đề của làng văn báo hải ngoại có gốc
Bắc Kỳ
[tức Yankee mũi tẹt?]….
Lê Diễn Đức: talawas.
Cái cụm
từ ‘tức Yankee mũi tẹt’
của “cái tay quê Hưng Yên” này, để giải thích nó, Gấu phải viện tới
Jean Améry,
thực hiện "cú đúp": vừa giải thích “cũng Yankee mũi tẹt”, vừa giải
thích, “tại sao bác
ghét talawas? (1)
Le lecteur, s'il veut bien
consentir à se joindre à moi, devra m'emboîter le pas dans cette
obscurité que
j'ai voulu éclairer justement pas à pas. Ce faisant, il se heurtera à
des
contradictions dans lesquelles je suis tombé moi-même. Ainsi, dans le
passage
sur la torture, la signification que je devais donner au concept de
dignité ne
m'était-elle pas claire du tout, et je l'écartai pour ainsi dire d'un
geste de
la main, alors que plus tard, dans mon travail sur la condition juive,
j'ai cru
comprendre que la dignité est le droit à la vie que vous confère la
société.
De même, tandis que
j'écrivais sur Auschwitz et la torture, je ne comprenais pas encore
clairement
que ma situation ne pouvait se ramener entièrement au concept de "victime
nazie" ; ce n'est qu'en arrivant à la fin de mon travail et en
méditant sur la nécessité et l'impossibilité d'être juif que je me
reconnus
aussi dans l'image de la victime
juive.
Nói rõ hơn, chỉ một thằng Bắc
Kít di cư 1954 thì mới đau
cái đau thắng trận hai lần: Một, như là ‘nạn
nhân
Nazi’, một, như là ‘nạn nhân Do
Thái’!
Gấu ngộ [độc] điều
trên, không phải do đọc Jean Améry, mà là do lần mò xuống sông Mekong tắm,
trong những ngày chờ vượt sông,
qua đất Thái, và nhìn thấy cái xác của Gấu trôi lềnh bềnh trên mặt
sông.
Gấu đã
lai rai ba sợi về chuyện này, nhiều lần rồi, cơi như là cái cớ,
prétexte, để
phạng chính Gấu, và những đấng bạn quí của Gấu!
(1) Nguyên văn bài
viết
Bài đọc thêm:
Tin Văn vs
Talawas
*
30 /4
À, nhân tiện nói tới 30/4, năm nay người ta vẫn cho nghỉ lễ lớn, 4
ngày, nhưng
không mít tinh hội họp rầm rộ cờ hoa như mấy lúc trước, có lẽ phần
nào âm
thầm thừa nhận sự đau đớn của cái chiến thắng năm 34 năm trước.
Có thể vài năm nữa, ngày 30 tháng tư sẽ được gọi là ngày thống nhất hơn
là ngày
giải phóng, dinh thống nhất có lẽ cũng sẽ được “ trả lại tên cho em”
thành dinh
độc lập. Biết đâu được!”
“ trả lại tên cho em “ là tên tập cuối của bộ phim truyền hình “ biệt
động sài
gòn”
Obama
[Nobel]
vs
Putin [contre les Droits de l'Homme]
Bên cạnh nhiều ý kiến cho rằng
việc trao
giải cho Obama là quá vội vàng, mới đây cựu tổng thống Mỹ Jimmy
Carter -
giải Nobel Hòa bình năm 2002 - phát biểu rằng tổng thống Mỹ đương nhiệm
xứng
đáng với danh hiệu đó. Carter đánh giá cao những thành tích mà Obama đã
làm
cũng như những lời hứa mà tổng thống đang nỗ lực để thực hiện.
"Ông ấy đã làm thay đổi hình ảnh của nước Mỹ trên thế giới, ông ấy chấm
dứt việc dùng nhục hình tra tấn, ông ấy kêu gọi và đã đi đầu trong việc
giảm
trừ vũ khí hạt nhân", cựu tổng thống phát biểu trong một cuộc phỏng vấn
của hãng AP.
Carter cho rằng việc trao giải Nobel cho Obama phản ánh sự công nhận
chương
trình hành động đầy tham vọng mà ông có ba năm để thực hiện, chẳng hạn
các kế
hoạch dài hơi nhằm mang lại hòa bình cho Trung Đông và giải quyết xung
đột với
Iran và những quốc gia khác.
VN-Express
“Y chang” Gấu phán. Nhưng ông
này, "mới đây thôi mới nhận ra", và cũng
không dám nói huỵch toẹt như Gấu, "rửa nhục, phục hồi nhân phẩm cho
Mẽo", vì sợ dân Mẽo thoi, "chúng ông đâu có gì nhục đâu mà rửa"?
Carter cũng là người đầu tiên gợi ý cho lũ Yankee mũi tẹt giao lưu hòa
giải, ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt, nhưng VC lắc đầu, OK
cho Mít Nam
bỏ chạy Yankee mũi tẹt vô Mẽo, khi làn sóng Exodus Mít dâng cao,
và
cũng từng được Nobel hoà bình.
Trí lớn gặp nhau, phải cỡ đó, hoặc cỡ
... Gấu, thì mới hiểu được, và đau được, cái chuyện tra tấn nó làm nhục
con người như thế nào!
[Vừa thôi, cha nội, không sợ nhà đại phê bình chửi, muốn làm bố... chó
xồm, hử?]
Thử hỏi coi, có thằng Yankee
mũi tẹt nào, trên ba chục niên sau 30
Tháng Tư
1975, dám "rửa nhục choYankee mũi tẹt", và phán, chúng ông “ân hận vì
đã ăn cướp Miền Nam, xây dựng Lò Cải Tạo, đẩy cả nước xuống biển, đưa
đất nước
vào cuộc băng hoại vô phương thoát ra khỏi”?
*
Carter: Obama's Nobel
mixes
achievement, promise
By GREG BLUESTEIN (AP) – 22 hours ago
ATLANTA — Former President Jimmy Carter says
President Barack
Obama deserves his Nobel Peace Prize, based on his achievements and the
promise
of an aggressive agenda that he's still working to fulfill.
Carter, who was awarded the prize in 2002, told the
Associated Press on Thursday that Obama "deserves it as much as anyone
who's ever gotten it for his achievement already."
He says Obama "transformed the image of America
around the world" and won the award
because of his work banning torture, working to rid the world of
nuclear
weapons and pursuing Mideast peace.
But he says Obama's award also reflects the aggressive
agenda which he still has three years to fulfill. Carter says that
agenda can
be embraced by other nations around the world.
Carter
phán, không ai xứng đáng hơn là cái tay da đen tổng thống Mẽo này, vì
những thành tựu mà hắn ta đã làm được rồi, chưa kể những hứa hẹn mà hắn
ta sẽ hoàn tất, trong những ngày sắp tới, nhưng cái vụ hứa hẹn này thì
cũng căng lắm đấy, và mình hắn ta, đếch hoàn tất nổi đâu, nếu không
được cả thế giới xúm vào phụ với hắn ta một tay!
|