|
Nobel goes to author
of
'poetic adventure and sensual ecstasy'
Nobel
về tay nhà văn Tây, Le Clézio, tác giả cuốn Le
Procès-verbal, Biên bản,
một trong những cuốn của thời mới lớn
của Gấu, ở Sài Gòn.
Vinh
danh ông này, một cách nào đó, là vinh danh thời của Gấu!
Thời của tiểu thuyết
mới! [Le Clézio cùng dòng văn với Michel Butor]
Tác giả của "phiêu lưu thơ mộng và cực khoái".
J.M.G.
Le Clézio
Errances et mythologies
Depuis Le
Procès-verbal, qui
valut à son auteur le prix Renaudot, il y a de cela trente-cinq ans,
Jean-Marie
Gustave Le Clézio reste un écrivain sinon énigmatique du moins
volontairement
secret. Archiviste convaincu, nomade plus que voyageur, attiré par le
désert
parce qu'il en attend quelque chose d'humain, et par les Indiens parce
que nous
avons tant à apprendre d'eux, il est un des rares narrateurs
d'aujourd'hui à
savoir aborder les mythes de façon matérielle et physique. Depuis
l'époque où
il est allé chez les Emberas, il est à la recherche d'une cohérence,
entre
intellect et physique, d'un équilibre philosophique. A l'écoute des
voix silencieuses,
sa littérature n'est pas une littérature d'évasion mais de recherche; celle d'un trésor caché
que le lecteur attentif finit toujours par trouver: des maisons sans
mur, un
temps circulaire, du bonheur conquis. Mais ne nous trompons pas, Le
Clézio n'est
pas un rêveur, c'est un écrivain qui dénonce, qui combat, qui provoque.
A
l'occasion de ses deux derniers livres, Gens des nuages et La Fête
chantée,
nous avons suivi les traces de ce marcheur immobile qui, comme le
dragon
bibliothécaire de Confucius, « n'invente pas mais ne fait que
transmettre
".
Le
Magazine Littéraire, số
đặc biệt về Le Clézio. Tháng Hai 1998
*
1966-1968.
Cho in, tháng
11/1966, trên Le Magazine Littéraire,
một bài viết về cuốn Máu Lạnh, De
Sang
Froid, của Truman Capote: Tiểu thuyết gia
thế kỷ 20 không còn chỉ là một “người trung thực” [honnête homme], hài
lòng về
văn hóa, kinh nghiệm, ngôn ngữ của mình. Như là một tay biên niên, của
thời
Trung Cổ, nhà văn bây giờ, cùng một lúc, là nhà dân tộc học, nhân chủng
học,
tâm lý học, và luôn cả, một nhà hình sự học. Hoặc là bằng những phương
tiện như
vậy, hoặc, với tinh thần khoa học, nhà văn dị mọ quan sát một phần của
thế
giới, một nhóm người, và trình bầy họ trong biên bản, báo cáo của mình,
không
phải như họ là, cũng không phải như là họ phải là, nhưng như là họ
trình bầy
chính họ”.
Le
Clézio bởi chính xừ luỷ
*
1966-1968.
Publie, en
novembre 1966, dans le no 1 du Magazine littéraire, un article consacré
au
livre de Truman Capote, De sang froid, où il écrit notamment: « Le
romancier du
vingtième siècle ne saurait plus être un "honnête homme", satisfait
de sa culture, de son expérience, de son langage. Comme il était
chroniqueur au
Moyen Age, l'écrivain est aujourd'hui tout à la fois ethnologue,
anthropologue,
psychologue, et même criminologue. Que ce soit avec les moyens, ou avec
l'esprit de la science, le romancier scrute une partie du monde, un
groupe
d'hommes, et il les représente dans un rapport, non pas tels qu'ils
sont, ou
tels qu'ils devraient par être, mais tels qu'ils se présentent
eux-mêmes.”
Publication
de trois livres,
Le Déluge (1966 - on peut y lire à la page 130, le texte qu'il écrivit
à sept
ans, Oradi Noir), L'Extase matérielle (1966), et Terra Amata (1967) : «
Ce que
je voulais, c'était construire des livres dans lesquels il y aurait un
néant
avant et un néant après”. Accomplit, parallèlement, ses obligations
militaires,
d'abord à Bangkok, où il enseigne les
Sciences
politiques, puis à Mexico:
« De Gaulle vient de créer la DGACT et de reconnaître la Chine. Je
devance
l'appel et prends ma plus belle plume pour écrire une lettre dans
laquelle
j'exprime le souhait d'être envoyé en coopération à Pékin. Bien
évidemment, on
m'envoie à l'opposé: en Tha'ilande. J’y
suis resté un an et demi jusqu'à ce
qu'on m'expulse à la suite de déclarations que j'avais faites au
Figaro, et qui
avaient déplu aux autorités
Tha'ilandaises. J'avais dit que le bouddhisme tha'ilandais était une
religion institutionnelle, et qu'il était comparable au catholicisme
breton.
Ceci, venant d'un Breton, n'avait rien d'insultant... Le deuxième trait
était
plus dur. Je dénonçais la prostitution qui commençait de proliférer en
Thailande. On volait des petites filles dans le nord de la Thailande,
qui
passaient ensuite dans les mains de maquereaux qui les revendaient aux
bordels
de Bangkok.
A
cette époque, les Américains avaient monté des camps aux noms
tristement
célèbres : les R and R, Rest and
Recreation, « Repos et Divertissement ". Mais, ces choses-là ne se
disaient pas. J'avais failli à mon droit de réserve. On voulait me
renvoyer
dans l'armée. J'ai fait savoir que si tel était le cas, je déserterais.
On m'a
donc envoyé au Mexique.”
Le
Clézio par lui-même. Le
Magazine Littéraire.
*
Ông
nói nhiều đến khùng điên
trong Le
Procès -verbal, cuốn
đầu tay của ông. Adam Pollo, nhân vật chính, tiêu
ma với xã hội, nhưng không tiêu ma, perdu, với chính mình. Càng dấn sâu
vô khùng
điên, anh ta càng tìm thấy anh ta. Khùng điên là một đề tài thường
xuyên trong
tác phẩm của ông…
… Tôi viết cuốn sách
dưới ảnh
hưởng của Jerôme David Salinger… Tôi thấy mình gần gụi với điều ông ta
viết, nhất
là những truyện ngắn.
Bắt Trẻ Đồng Xanh, tôi đọc lần đầu
bản tiếng Anh, và thực
sự bị nó hớp hồn… Tôi biết sợi dây dẫn của Salinger, [ligne directrice]
là tư
tưởng Zen của Phật giáo. Trên nền đó, ông ta phát triển những nhân vật
và xây dựng
tác phẩm của mình…
"author
of new
departures, poetic adventure and sensual ecstasy, explorer of a
humanity beyond
and below the reigning civilization"
‘tác
giả của những cuộc chuyến
đi mới, phiêu lưu thơ mộng và cực khoái nhục cảm, kẻ thám hiểm một nhân
loại vượt
quá, và chìm khuất [so với] nền văn minh trị vì”
Một
vòng hoa như vậy là quá
bảnh, tóm gọn khá đầy đủ cuộc đời và văn nghiệp của Le Clézio.
Cái
vụ
ông khám
phá ra Mehico cũng có thể được coi là một cơ may tuyệt vời của ông, như
ông viết
trong Le Clézio par lui-même.
Thời gian Le Clézio thi hành nghĩa
vụ quân sự, De Gaulle công nhận Trung Cộng, ông xin đi phục vụ tại Bắc
Kinh, nhưng
bị đưa tới Thái Lan. Tại đây, ông chê Phật giáo của Thái là một thứ
“quốc giáo”
(une religion constitutionnelle), và so sánh với Ky tô của vùng Breton [Bretagne].
Nhưng cú đó
chưa ghê bằng cú ông tố cáo nạn đĩ điếm nở rộ cùng với cuộc chiến Việt
Nam, vì đây là nơi
nghỉ mát của lính Mẽo [vào thời gian đó, Mẽo lập những trại du hí, có
những cái tên nổi
tiếng một cách buồn thảm, tristement célèbre, “R and R” [Rest and
Recreation: “Nghỉ
ngơi” và “đốt tiền mua lấy một đêm vui”]: Người ta mua những bé gái ở
biên giới
phía Bắc Thái lan, rồi bán cho tụi ma cô ở Bangkok.
Vì vụ này, ông xém chút nữa
là mất quyền lợi thuộc loại trừ bị, chuyển qua hiện dịch, tức là thành
lính thực
thụ. Ông phản đối, nếu làm như vậy, ông sẽ đào ngũ, và vì vậy ông bị
chuyển đi Mexico.
Và đây
là ân huệ đối với ông: Sự khám phá ra Mexico đúng là một cú sốc
đối với tôi.
Cái nền văn minh hiện đang trị
vì, vòng hoa Nobel nhắc tới, không liên quan gì tới văn minh Mẽo, Tây,
mà là văn
minh nhân loại hiện đại, so với những nền văn minh vượt quá nó, hoặc
chìm khuất
ở bên dưới nó.
Sự kiện tay thư ký Nobel lèm bèm trước khi phát giải làm mọi người
hiểu sai giá trị Nobel 2008, theo Gấu.
Vẫn theo Gấu, việc trao Nobel
những năm gần đây, thật là tuyệt vời, và, nhất là năm nay, 2008, riêng
với Gấu. Nhờ Nobel năm nay,
Gấu lại thấy
mê văn chương Tây!
*
Lang thang và huyền hoặc.
Kể từ Biên bản, đem cho ông giải
Renaudot, đã 35 năm [tính đến 1998], Le
Clézio vẫn là nhà văn bí ẩn, nếu không muốn nói, ở ẩn một cách tự
nguyện. Chuyên
viên lưu trữ, thích đi xa nhưng một mình, như một gã du mục, bị sa mạc
quyến
rũ vì chờ đợi một cái gì có tí người từ đó, và những người thổ dân da
đỏ, bởi vì
chúng ta có nhiều điều phải học từ họ, ông [Lé Clézio] là một trong số
hiếm hoi
những người kể chuyện vào thời buổi bây giờ, tiếp cận huyền thoại
một cách trần tục. Ông tới
Emberas [thổ dân Panama], là để tìm một sự hài hòa, giữa trí tuệ và thể
xác,
một sự cân bằng
triết học. Nghe những tiếng nói thầm lặng, văn chương của ông không
phải là thứ đi hoang, tìm thú tiêu khiển bằng cách chạy trốn thực tại,
nhưng mà là tìm kiếm; một kho tàng giấu kín mà một độc giả chú tâm cuối
cùng thể nào cũng
tìm được: những căn nhà không tường, chốn thời gian quay tròn, một hạnh
phúc chinh
phục. Nhưng, chớ lầm, Le Clézio không phải là một nhà văn mơ mộng, mà
là một nhà văn tố cáo, chiến đấu, khiêu khích. Nhân dịp hai cuốn sách
mới ra lò
của ông, chúng ta đi một đường lần theo những dấu vết của ông, một kẻ
đi bộ im
lìm, một kẻ mà, như con rồng thủ thư của Khổng Tử, ‘không phát kiến,
không bịa đặt,
không giả tưởng, nhưng mà là chuyển giao”
Le
Magazine Littéraire
*
Đọc,
lại nhớ
Tahar
Ben Jelloun
giới thiệu
Con Bệnh Anh
Sinh
tại Sri Lanka,
Michael Ondaatje học tại Anh, hiện định
cư tại Toronto, Canada, nơi ông dậy môn văn
chương.
Tác phẩm của ông nhằm hòa giải những văn phong và những văn hóa, như
chúng vẫn
thường đối nghịch. Nhà thơ, tiểu thuyết gia, người kể chuyện phương
Đông này
cũng còn là một nhà văn luôn thử nghiệm những hình thức mới. Thấu thị,
và hiện
thực, ông sở hữu cùng lúc, khiếu chi ly về cõi riêng thầm và cảm quan
sử thi
(le gout de l'intimité et le sens épique). Bởi vì ông quan tâm, chỉ
bước đi của
cuộc đời, và những giả tưởng của ông giống như những căn nhà miền nhiệt
đới,
với những kiến trúc di động, mặc tình cho gió, không khí, và nước, qua
lại.
(Bệnh nhân Anh đã đoạt giải
The Booker năm 1992, được Anthony Minghella đưa lên màn ảnh, và là phim
hay
nhất trong năm 1996. Lần đầu dịch ra Pháp ngữ với nhan đề Người cháy,
L'homme
Flambé, nhà xb Olivier, 1993. Bài giới thiệu dưới đây, bằng Pháp ngữ,
là từ tủ
sách Points, nhà xb Seuil, 1995.
Tahar Ben Jelloun, sinh năm
1944, người Ma-rốc, viết văn bằng tiếng Pháp, tác giả nhiều tiểu luận,
tuyển
tập thơ, truyện kể, kịch, giải thưởng Goncourt 1987 với cuốn tiểu
thuyết Đêm
Thiêng, La Nuit Sacrée).
*
Nguyên
lý Ngàn Lẻ Một Đêm là
nguyên lý tạo nên văn chương. Ông hoàng khát máu nói với Schéhérazade:
"Kể
cho ta một câu chuyện, nếu không ta giết mi." Nỗi hăm dọa của cái chết
làm
cô gái trẻ đẹp biến thành một người kể chuyện, với một trí tưởng tượng
lạ thường.
Nguyên lý Con Bệnh Anh có thể là giai đoạn thứ nhì của việc làm văn
này, bởi vì
bệnh nhân người Anh, toàn thân phỏng cháy, nói với Hana, người đàn bà
trẻ đang
săn sóc anh: "Đọc cho tôi những cuốn sách, nếu không, tôi chết." Anh
ta chỉ vẽ cho cô, ngay cả tới cách đọc: "Kipling là phải đọc từ từ.
Rình
mò từng dấu phẩy, và cô sẽ khám phá ra những chỗ lặng tự nhiên. Đây là
một nhà
văn sử dụng ngòi viết, và mực."
Bệnh nhân Anh là một trong
những cuốn sách mà người ta không thể không đọc. Với con người kỳ bí,
căn cước
mù mờ, lửa liếm gần hết mặt, người ta có thể mượn lời Jorge Sumprun,
và nối
điêu: Cái đọc, hay là cái sống; văn chương, hay là cái chết. (La
lecture ou la
vie; la littérature ou la mort). Bởi vì đây là sự sống sót và hồi ức
dẫn về
hiện tại, một hiện tại độc ác hơn, xấu xa ghê tởm hơn là quá khứ của
những bậc
tổ tiên, đã chết trong những cuộc chiến Tôn Giáo.
Câu chuyện bịa đặt bởi một
nhà văn nhiều gốc gác, giằng buộc: Michael Ondaatje sanh tại Sri Lanka, học tại Anh, và hiện đang
giảng dậy tại Toronto.
Ông ở
trong (dans) rất nhiều văn hóa, không chỉ ở giữa (entre) hai văn hóa.
Khi người
ta ở giữa, có nghĩa là, chẳng ở đâu. Tuy nhiên, như một số nhà văn
không diễn
tả bằng tiếng mẹ đẻ của họ, ông là mối nối, là cây cầu giữa hai thực
thể. Ông cũng
có một quãng cách đủ xa, với căn cước mượn của mình, để nói điều cần
nói, để
cầm cái gì khẩn cấp phải cầm. Cái nôi, hay là quê nhà của ông không
thực sự
xuất hiện ở trong cuốn tiểu thuyết. Thì cứ nói rõ ra ở đây: ông đã để
cho Kip,
anh chàng trẻ tuổi theo đạo Sikh, nói chiều sâu tư tưởng của mình, về
những nền
văn minh được gọi là giống trắng này; những nền văn minh mà hồ sơ luật
pháp đã
ngập đầu tại tòa án xét xử các quốc gia. Cõi dã man đâu có đặc quyền
riêng một
cửa khẩu nào. Nó ở ngay nơi người đàn ông cúi xuống quá khứ thú vật,
nơi gợi
nhớ gốc gác man rợ của mình.
Bệnh nhân người
Anh, do những vết bỏng da,
do bộ dạng không còn, đã được đẩy, về trinh nguyên tư tưởng, về trần
trụi kỷ
niệm. Đọc chầm chậm, tái tạo cuốn sách đã thoát kiếp phần thư, phân
biệt đâu là
từ Kipling, đâu thuộc về Kinh Thánh, đó là một trong nhiều bổn phận,
của cô y
tá săn sóc anh ta; cô không rơi từ trên trời xuống như người bệnh của
mình,
nhưng đến từ tiền-xứ của nhà văn, người kể chúng ta nghe câu chuyện lạ
kỳ, và
cũng thật giản đơn cảm động.
"Đâu là nền văn minh
tiên đoán thời gian và ánh sáng? El-Ahmar hay Al-Abiyađ, bởi vì đây
chắc chắn
là một trong những bộ lạc của sa mạc tây-bắc," người đàn ông mặt đắp
cỏ,
tự hỏi. Một bộ lạc văn minh có thể cứu được người đàn ông ở mấp mé bờ
sinh tử.
Hãy ngả mũ chào những người Bédouins,1 hay người Touaregs, những con
người của
sa mạc đang quan sát thân thể bị lửa đốt. Nhưng cuốn tiểu thuyết vượt
quá những
quan tâm liên-văn hóa. Cuốn tiểu thuyết là để đọc từ từ. Phải chú ý đến
từng
nhân vật, bởi vì câu chuyện cứ từng bước lộ diện. Phải chú ý hơn thế
nữa, bởi
vì nó được chế tạo, y hệt những trái bom mà anh chàng theo đạo Sikh đến
để gỡ
bỏ. Sẽ là một màn tứ tấu, bắt được trong bước nhẩy thầm, tại một nơi
chốn, một
biệt thự bên trên thành phố Florence,
được dùng như một bệnh viện tình cờ. Mặt đất nhiều cạm bẫy, cũng như
cuốn tiểu
thuyết. Người gỡ mìn là một nghệ sĩ. Người đọc phải có tài. Và Michael
Ondaatje
thì chịu chơi, ông thích những thai đố, những câu chuyện, ông thích chữ
viết.
Chúng ta có được ở nơi đây,
tụ họp, rất nhiều định mệnh thêu dệt từ những xứ sở khác nhau (Ý, Canada, Ấn-độ, Anh, và chắc chắn rồi, Sahara, sa mạc của những sa mạc) và trên những
niên biểu
văn chương khác biệt. Những điển cố (Hérodote) được coi như là những cơ
duyên
(prétexts) để kể tên, những ngọn gió: Aajei, Africo, Arifi, Bis Roz,
Ghibi,
Haboub, Harmattan, Imbat, Khamsin, Datou, Nafhat, Mezzar-Ifouloussan,
Beshabar,
Samiel... tất cả là để gợi cho chúng ta, hãy chọn ngọn gió nào sẽ quét
sạch văn
minh Tây- phương. Bởi vì những cuốn sách, trầm luân; những trang, thiếu
hụt;
những nhà thờ, những pho tượng, những hồi ức bị chà đạp. Và Kip, chàng
gỡ mìn,
đã nhắc lại, lời nhắc nhở của người anh em: 'Đừng bao giờ quay lưng
lại, về
phía Âu-châu. Những con người này chuyên lo chuyện kinh doanh, khế ước,
bản đồ.
Đừng bao giờ tin tưởng những người Âu-châu.' Và những trái bom nguyên
tử đã
được bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki. 'Một
trái bom, rồi một trái bom
nữa.'
Cuốn sách về sự độc ác của
những con người, huỷ diệt chỉ vì mê hoặc; sửa sang chỉ vì ích kỷ; những
con
người chẳng hề áy náy, và họ khám phá ra rằng, sa mạc không chỉ là cát,
mà còn
là một nơi chốn diệu kỳ ấp ủ một nền văn minh lớn, của những người
Bédouins,
Touaregs, hay những người xanh. Người bệnh Anh đã mất bộ mặt, và
chính sa
mạc sẽ cho lại anh ta, kể cả khi cái chết còn đó, kỷ niệm cuộc chiến
cận kề thì
khốc liệt và sự bí ẩn thì tràn khắp, ở từng nhân vật.
Michael Ondaatje là một người
kể chuyện biết rất rõ Tây-phương mà ông ta đang đốt cháy. Cách viết của
ông,
chính xác; những con chữ, sàng lọc; cấu trúc, đa dạng và xảo diệu; văn
phong,
nhiều tầng. Lối kể chuyện không đơn tuyến; nó sử dụng, không chỉ thơ mà
luôn cả
truyền thuyết, ẩn dụ, cũng như huyền thoại. Đây là một người phương
Đông đọc rất
nhiều về Tây-phương, và đã đang sống tại đó. Ông để cho một người Anh
nói,
(trong kỷ niệm của Hana): "Tình yêu thì nhỏ bé đến nỗi nó có thể rách
bươm, khi chui qua lỗ trôn kim." Thật đúng là một hình ảnh mà một người
Đông-phương có thể viện dẫn ra để tóm gọn, chỉ trong vài từ, quan niệm
tình
yêu, bằng cách bịa ra một nhân vật kỳ bí, có tên khiến người ta mơ
mộng:
Zerzura. Ông biến mỗi sinh vật thành một hành tinh, làm xáo trộn, gieo
hỗn
loạn. Và người đàn bà nói với người đàn ông: "Nếu anh làm tình với em,
em
sẽ không nói dối. Nếu em làm tình với anh, em sẽ không nói dối."
Cuốn tiểu thuyết là
một lời
thú nhận, Michael Ondaatje cho nghe nó. Nhưng chắc chắn, ông ta sẽ
không trao
cho chúng ta chiếc chìa khóa. Chìa khóa ở trong chúng ta, những độc giả
chăm
chú, và sững sờ. Cuối cuốn sách, người ta cảm thấy như bị cuốn hút vào
"giải
im lặng" (nappe du silence) mà Maurice Nadeau đã nói tới; nơi những từ
chỉ
là vô tích sự, và những sinh vật hiện hữu chỉ vì chúng. Những nhân vật
tiếp tục
sống, và chết giữa đôi tay của chúng ta. Và người ta tự nhủ, tác giả
viết để
giũ khỏi cõi tưởng tượng của mình vài vết phỏng, những vết thương cả
một dân
tộc cưu mang.
Nguồn
Note:
Bài giới thiệu trên, là dành cho ấn bản tiếng Tây. Nhớ, lúc đọc, mê
quá, mua cuốn luôn cuốn sách, chẳng cần biết hay dở!
*
1963.
Lauréat du prix
Renaudot, à vingt-trois ans, avec Le
Procès-verbal (roman dont certaines pages
ont été écrites à Nice dans les cafés et sur les plages)**. « Avant le
Renaudot, on m'avait laissé entendre que j'aurais peut-être le prix
Goncourt. Tout cela avait lieu de loin. Je n'avais pas le téléphone,
tout se passait par
lettre. Six mois avant le prix, l'éditeur avait soumis mon manuscrit au
prix
Formentor, ce qui m'avait rendu particulièrement heureux: je pouvais
gagner un
voyage dans "Île de Formentor. J'avais très envie de la connaître.
C'était
un rêve, comme si je recevais une lettre m'annonçant que je venais de
gagner un
voyage pour deux aux Antilles, dans
un bon
hôtel, etc. Uwe Johnson a obtenu le prix. J'étais très déçu, et
lorsqu'on
m'annonça que j'étais sur une autre liste je pensai: qu'importe! Puis
le temps
a passé ... Mon père avait pour habitude d'écouter la radio en
déjeunant, c'est
lui qui m'a appris que le prix Renaudot venait de m'être décemé.
« Que fais-tu ici? Tu dois
aller à Paris!
", me dit-il. Je n'en voyais pas l'utilité. Finalement je m'y suis
rendu.
C'était assez cocasse. Je rencontrai des gens très impressionnants,
comme
Queneau ou Paulhan. Je faisais aussi des choses absurdes: dîners
mondains,
interviews, photos. Quel mélange bizarre…”
Le Clézio kể
về lần ông được giải Le Renaudot. Trước
Le Renaudot, nghe đồn, sẽ được Goncourt với cuốn đầu tay, Biên bản, [nhiều
trang được viết ở Nice, trong quán cà phê, bãi biển. Bất giác, Gấu lại
nhớ đến MBD, và cảnh
NMG vừa gặm bánh mì, tại ghế đá công viên Quận Cam, vừa viết!]. Rồi nhà
xb đưa
sách dự giải Formentor. Hụt. Quê quá, rồi lại nghe đồn, cuốn sách lọt
vô một giải khác, OK, con gà đen.... Thế rồi ông già của ông có thói
quen nghe la dô, "mày được Le Renaudot đấy, đi Paris lãnh giải!" Tới
Paris, gặp toàn thứ dữ, đóng vai nhà văn...
Trên TLS có bài điểm Le
Procès-verbal, song song với một cuốn của Llosa, bài thật
hay. Tác phẩm đầu tay mà được tờ này ưu ái, còn tiên đoán sẽ đi xa.
Gấu lại nhớ đến ông anh khen tác phẩm đầu tay của Gấu, Những Con Dã Tràng: Sẽ đi xa hơn
DNM!
Qui he?
A
report on the Publishers
Weekly website last Friday morning suggested that, on learning of the
award of
the Nobel Prize for Literature to J. M. G. Le Clezio, "even the most
literate of Americans must have said, qui?". Michael Coffey's comment
sounds dispiriting, but it is untrue. We have the evidence. Indeed, we
are the
evidence. Many of the most literate of Americans have received informed
comment
on the novels of Le Clezio from the TIS, since publication of his
debut, Le Proces-verbal, in 1963. John Sturrock
described it as "an attractively playful and intelligent beginning",
and suggested that Le Clezio might "one day produce something quite
remarkable".
Since then, the TIS has kept
literate folk up to date with Le Clezio's progress, reviewing many of
this
prolific writer's books, mostly in the original French. When Adrian
Tahourdin
provided a refresher course in April 2006, he did not omit to mention
that in France
"Le
Clezio has a reputation that has prompted talk of a possible Nobel
Prize".
By contrast, Mr Coffey's report had the effect of underlining the
much-derided
comment of Horace Engdahl, permanent secretary of the Swedish Academy,
that the
United States is "too insular" in cultural matters, that it
"does not participate in the big dialogue of literature" .
Le Clezio belongs to a group
of French writers - Patrick Modiano and Sylvie Germain are among the
others -
who fell into a gulf created by the unrelenting inwardness of the nouveaux romanciers. Although the early
novels were translated, readers found it difficult to keep up with his
experimentation and output (Mr Tahourdin mentioned fourteen titles, in
addition
to the book under review, Ourania).
By coincidence, Le Clezio's new novel arrived in this office two days
after the
prize was announced. Ritoumelle de la
faim will doubtless be translated into English and eventually
reviewed
widely, but literate Americans will have the chance to read an account
of the
original before then. None need ever say "qui?" again (we suspect few
did).
Giai thoại Qui est Ky ? [Kỳ
là thằng nào, câu của de Gaulle] chúng
ta đã từng nghe, khi Tướng Râu Kẽm tới Paris dự hòa đàm, và thay vì gặp
VC trên chiếc bàn tam giác, bầu dục, hình tròn... thì đi trượt ski với
"mom" Mai của Kỳ Duyên, và biểu diễn lái máy bay phản lực. Bây giờ
đến lượt Mẽo hỏi, Qui he?,
khi Le Clézio được Nobel.
TLS đi một đường tự nâng bi, chúng tôi đã từng viết về ông ta, ngay từ
cuốn đầu tay, và đã tiên đoán được cái chuyện ông ta sẽ làm được cái gì
đó. (1)
Qui he? còn là do
cái gọi là tiểu thuyết mới mà
ra.
(1)
Le Proces-Verbal
Taken
from the TLS of January
9, 1964
John Sturrock
Both these novels, one by a
Peruvian [Mario Vargas-LLosa] now working in Paris, the other by a
young
Anglo-Frenchman, were concerned in the final stages of the judging for
the Prix
Formentor last May, La Ciudad y los
Perros narrowly failing to win the prize.
Read together they make an encouraging comparison, for they have,
happily,
absolutely nothing in common except their talent, which is surely as it
should
be with any literary prize of this sort.
For a first novel La Cuidad y
los Perros is impressively dense and sure-footed . . . . this is
a very
bright
beginning indeed.
The same applies equally to Le
Proces-Verbal,
unsuccessful in the Prix Formentor but since awarded the Prix
Renaudot in France.
This novel, according to its author, belongs to the category of
roman-jeu or
roman-puzzle, a total fiction aimed at setting up reverberations in the
reader's mind. Puzzle and reverberate it certainly does.
The hero comes from a long
line of symbolic recluses and is called Adam Pollo. Nothing is known
about him
for certain; indeed his past is deliberately ambiguous—is he an army
deserter
or has he escaped from a psychiatric ward? These are the only two
alternatives
we are offered. Certain it is that he ends up in an asylum, after
society has
taken its revenge on him for his peculiar way of life. For Pollo lives
alone on
a hill, having moved uninvited into an unoccupied house, and his only
human
contact is with a girl called Michele, with whom he makes rather abrupt
love or
discusses metaphysics as they lie on a billiard table.
The novel has little rational
development, but reads like a very intelligent collection of random
ideas and
even styles. There are some fetching typographical innovations,
including words
crossed out and what purports to be a page of a newspaper bound into
the text
at one point. It is extremely ambitious and deliberately naive by
turns; there
are exotic moments of a sort of Lautreamont mysticism together with
careful
descriptions of totally irrelevant details, like a Martini sign in the
street.
Adam Pollo himself suffers, if that is the right word, from an extase
materialiste. and the dividing lines between himself and other
organisms are
correspondingly weak. At different times he identifies himself with a
dog, a
drowned man, even rocks.
The most hopeful of M. Le
Clezio's several moods and manners is his own form of lucid lyricism,
which
suggests that he may one day produce something quite remarkable.
Meanwhile this
is an attractively playful and intelligent beginning.
J.M.G. Le Clézio : người lữ
hành nhân ái (Diễn Đàn 2-1-09) –
Muốn biết về Le Clézio, phải
đọc bài này của Đỗ Tuyết Khanh! Mà chỉ Đỗ Tuyết Khanh mới viết được
những bài
như thế này!
THD
*
Vừa vừa thôi!
Bài viết thì cũng chỉ là góp
nhặt những thông tin về Le Clézio, có cái gì là của riêng của người
viết đâu? Nó
bổ ích, nó rất tốt, như là một tài liệu, cho những ai chưa từng đọc,
chưa từng
biết gì về nhà văn Tây này, vậy thôi.
Làm sao giải thích được, tại
sao Le Clézio được Nobel, và trước khi đó, tay thư ký Nobel phạng cho
anh Mẽo một
cú, và sau đó, rũ đít ra đi, thì mới bảnh chứ! NQT
Nobel
cho Mẽo hả? Còn khuya!
Nobel 2008
Qui he?
A
report on the Publishers
Weekly website last Friday morning suggested that, on learning of the
award of
the Nobel Prize for Literature to J. M. G. Le Clezio, "even the most
literate of Americans must have said, qui?". Michael Coffey's comment
sounds dispiriting, but it is untrue. We have the evidence. Indeed, we
are the
evidence. Many of the most literate of Americans have received informed
comment
on the novels of Le Clezio from the TIS, since publication of his
debut, Le Proces-verbal, in 1963. John Sturrock
described it as "an attractively playful and intelligent beginning",
and suggested that Le Clezio might "one day produce something quite
remarkable".
Since then, the TIS has kept
literate folk up to date with Le Clezio's progress, reviewing many of
this
prolific writer's books, mostly in the original French. When Adrian
Tahourdin
provided a refresher course in April 2006, he did not omit to mention
that in France
"Le
Clezio has a reputation that has prompted talk of a possible Nobel
Prize".
By contrast, Mr Coffey's report had the effect of underlining the
much-derided
comment of Horace Engdahl, permanent secretary of the Swedish Academy,
that the
United States is "too insular" in cultural matters, that it
"does not participate in the big dialogue of literature" .
Le Clezio belongs to a group
of French writers - Patrick Modiano and Sylvie Germain are among the
others -
who fell into a gulf created by the unrelenting inwardness of the nouveaux romanciers. Although the early
novels were translated, readers found it difficult to keep up with his
experimentation and output (Mr Tahourdin mentioned fourteen titles, in
addition
to the book under review, Ourania).
By coincidence, Le Clezio's new novel arrived in this office two days
after the
prize was announced. Ritoumelle de la
faim will doubtless be translated into English and eventually
reviewed
widely, but literate Americans will have the chance to read an account
of the
original before then. None need ever say "qui?" again (we suspect few
did).
Giai thoại Qui est Ky ? [Kỳ
là thằng nào, câu của de Gaulle] chúng
ta đã từng nghe, khi Tướng Râu Kẽm tới Paris dự hòa đàm Paris. Bây giờ
đến lượt Mẽo hỏi, Qui he?,
khi Le Clézio được Nobel.
TLS đi một đường tự nâng bi,
chúng tôi đã từng viết về ông ta, ngay từ
cuốn đầu tay, và đã tiên đoán được cái chuyện ông ta sẽ làm được cái gì
đó.
Qui he? còn là do
cái gọi là tiểu thuyết mới mà
ra.
*
Qui he?
Trên tờ Lire, số mới nhất, tháng 11, 2008, đặc biệt về Le Clézio, ông
trả lời phỏng vấn: Tôi viết để cố gắng hiểu tôi là ai. "J'écris pour
essayer de savoir qui je suis", câu này đặc tiểu thuyết mới: Tôi viết
để hiểu tại sao tôi viết, 'thương hiệu' của nhóm.
Lucien
Goldmann, trong bài
viết "Tiểu thuyết mới và Thực tại", in trong cuốn "Xã hội học về
tiểu thuyết", cho thấy, trong khi nhiều nhà phê bình, và đa số công
chúng
thưởng ngoạn, nhìn tiểu thuyết mới, như là những kinh nghiệm hoàn toàn
có tính
hình thức, hay một toan tính chạy trốn thực tại xã hội, hai tác giả đại
diện
chính của trào lưu này là Nathalie Sarraute và Alain Robbe- Grillet,
ngược lại,
đã muốn nói với chúng ta rằng, tác phẩm của họ được sản sinh từ một cố
gắng -
càng chân xác, càng cơ bản chừng nào hay chừng đó - nắm bắt thực tại
thời đại
của chúng ta. Họ là mhững tác giả hiện thực cơ bản nhất, triệt để nhất
trong số
những nhà văn hiện thực Pháp, nếu chúng ta quan niệm chủ nghĩa hiện
thực trong
văn chương là sáng tạo bằng tưởng tượng ra một thế giới mà cơ cấu của
nó tương
ứng với cơ cấu thiết yếu của thực tại xã hội - một xã hội mà tiểu
thuyết đã
được viết ra từ trong lòng của nó. Một xã hội đã cưu mang, thai nghén
ra tiểu
thuyết. Và đây là giả thuyết của Goldmann: Trong các dạng văn học, tiểu
thuyết
là dạng liên can, tức thời nhất, và trực tiếp nhất, tới cơ cấu kinh tế,
theo
một nghĩa hẹp nhất của từ này. Tới những cơ cấu trao đổi và sản phẩm
thị
trường. Thực tại thời đại chúng ta cho thấy, nếu trước đây, con người
là trung
tâm vũ trụ, bây giờ đồ vật trở thành "thần vật". Liên hệ người-vật
ngày càng nghiêng về phía đồ vật. Thế nhất quán mang tính cơ cấu "nhân
vật-đồ vật" ngày càng biến đổi cùng với sự biến mất của nhân vật nhường
chỗ cho đồ vật làm chủ. Từ đó, tiểu thuyết mới mang đủ thứ tên,
phản-tiểu
thuyết, phản-con người, phản-văn chương...
Tiểu thuyết mới ở Việt Nam
Vào năm 1963, Le Clézio gửi bản thảo bằng đường Bưu Điện tới Gallimard,
Le Procès-verbal, 'một thứ trình diện cách mà tôi nhìn cuộc
đời', 'une
sorte de présentation de la facon dont j'envisage la vie', và với một
số người, nó làm nhớ tới, réminiscente, Kẻ Xa Lạ của Camus. Người khám
phá ra thần đồng, là một tay cựu trào của nhà xb Nửa Đêm.
Jean Giono và Raymond Queneau chấp nhận đỡ đầu nhà văn trẻ thần đồng 23
tuổi giành giải Goncourt, nhưng hụt, nhưng lại vớ được Renaudot, do
công của Maurice Nadeau, khi ông này tán tỉnh được [convaincre] mấy ông
hàn của giải này. Le Clézio nghe qua Đài ông được giải, khi ở Nice. Ông
già biểu con, đi Paris liền đi. Nhưng con nhát quá, đếch dám chường mặt
ra với đời [Có một nghịch lý, giữa viết và là một con người của công
chúng,
như sau này ông giải thích]. Ông coi cái trò xuất hiện tại Paris, bắt
tay bắt chân, là nhố nhăng, snob, và coi giải thưởng thì cũng giống như
một đợt sóng lớn, gặp bờ là xẹp. Ông giải thích về mình: Tôi là sản
phẩm của Đệ Nhị Chiến. Hỏi, thích đọc ai, Derek Walcott, thi sĩ,
Nobel
văn chương, và Beckett, cũng thi sĩ, cũng Nobel văn chương, [tôi là độc
giả lớn, le grand lecteur, của ông ta, nhưng là bạn đồng hành], không
phải sư phụ.
*
Bạn đọc Gấu viết về Beckett, khi viết về tiểu thuyết mới, rồi đọc Le
Clézio, khi ông thú tội trước bàn thở, ông là độc giả lớn của
Beckett, thì sẽ nhận ra con mắt xanh của thằng cha Gấu, và còn nhận ra,
câu thần chú của Beckett: Thua. Thua
nữa. Thua cho thật bảnh. Văn
chương của Le Clézio, và Qui he
cho thấy, đây cũng là một thứ văn chương "thua cho thật bảnh."
*
Tuy dựa vào lý thuyết Mác-xít
để giải thích sự xuất hiện của trào lưu tiểu thuyết mới, như L.
Goldmann đã
làm, trên thực tế, ngay tại Pháp, và tại những nước Cộng Sản, trào lưu
này đã
không tránh khỏi những chỉ trích nặng nề là đã không có trách nhiệm
(lack of
commitment) với văn chương, lịch sử, với con người... "Một sự từ chối
cái
thực. Không thể hiện những mâu thuẫn trong xã hội tư bản. 'Trong mê
cung'
('Dans le labyrinthé , của A. Robbe- Grillet) là cái quái gì nếu so với
Việt Nam?"
Sartre đã từng phát biểu, ông không thể đọc Robbe-Grillet trong một xứ
sở kém
phát triển. Câu nói của ông sau được ghi lại trong bài viết của Claude
Simon,
Orion aveugle, (Geneva, 1970, trang 106), trong bài nói chuyện
của một
thành
viên tham dự một hội nghị văn chương bàn về nghĩa vụ xã hội của nhà
văn, được
tổ chức tại một xứ Mỹ Châu La Tinh: "Hình như đối với tôi, chúng ta hội
họp ở đây để bàn về những vấn đề này (không phải những vấn đề mang tính
hàn
lâm), những vấn đề về sáng tạo văn chương mà những dân tộc bị áp bức
chẳng có
gì mắc mớ với chúng". "Nhóm" tiểu thuyết mới tại Việt Nam đã
từng bị
những người theo Cộng Sản, như Lữ Phương chẳng hạn, gọi là nhóm văn
chương
"viễn mơ".
Người xưa nói, đừng đem thành
bại luận anh hùng. Trong "cõi văn chương", tất cả những tác phẩm
thành công đều là những kinh nghiệm về sự thất bại. Hoặc chính là sự
thất bại.
"Hết thuốc chữa, chuyện
anh có mặt trên trái đất này", Hamm
nói với Clov trong Tàn Cuộc, Endgame
(Beckett), hay như trong Tiến lên Tàn
Mạt, Worstward Ho (1) (cũng của
Beckett): "Hãy thua. Thua nữa. Thua cho bảnh." ("Fail. Fail
again. Fail better.") Theo ông, đó là chức năng tuyệt vọng của người
nghệ
sĩ hiện đại, kẻ bị kết án phải trung thành với sự thất bại.
Nhìn theo cách thế đó, tiểu
thuyết mới và các tác giả của nó chính là một sự thất bại, như James
Joyce, như
Beckett, như Kafka... đã từng thất bại.
Ho, Ho! là thời
cả thế giới hò reo trước Đỉnh Cao Chói Lọi: Ho! Ho! Worstward!
|