|
Về cái chết
của Tướng Võ Nguyên Giáp
Tháng 11 6,
2013
Thomas A.
Bass
Bùi Xuân
Bách dịch
Giờ đây viên
tướng đã qua đời, nhưng có lẽ con người này còn có thể hồi sinh. Đại
tướng Võ
Nguyên Giáp mất hôm mồng 4 tháng 10-2013 ở tuổi 102. Những cáo phó, sơ
lược tiểu
sử về ông, nhiều bản trong số đó được viết từ nhiều năm trước, chỉ cung
cấp một
sự diễn dịch chính thức về một cuộc đời mà chỉ gần đây các nhà sử học
mới khai
thác, một cuộc đời – bất chấp sự trường thọ của nó – chưa hề được xem
xét chi
tiết.
Những bản
cáo phó về Tướng Giáp, cùng một lúc đã gán cho ông quá nhiều và quá ít
công trạng.
Ông quả thực là kiến trúc sư của chiến
thắng huy hoàng tại Điện Biên Phủ năm 1954 chống người Pháp, chấm dứt
cuộc chiến
Đông Dương thứ nhất, và Graham Greene đã đúng khi gọi đó là một bước
ngoặt quan
trọng trong lịch sử thế giới. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của chủ
nghĩa
thực dân phương Tây, một đạo quân châu Á đã đánh bại một đạo quân châu
Âu trong
một trận đánh chính quy. Thông điệp đã vang vọng tới Algeria và các
thuộc địa
khác, trong khi họ noi theo tấm gương thành công của Việt Nam. “Việc
những
thanh niên Mỹ vẫn tiếp tục chết ở Việt Nam chỉ nói lên rằng, cần phải
có thời
gian để tiếng vọng, thậm chí, của một thất bại hoàn toàn có thể đi hết
một vòng
quả đất”, Greene viết.
Phần lớn những
cáo phó về Tướng Giáp đều gắn cho ông công lao đã chiến thắng cuộc
chiến Đông
Dương lần thứ hai, cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong đó đều nói rằng ông
đã dàn
dựng kế hoạch cho cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 và chiến dịch
cuối cùng,
chiến dịch kết thúc cuộc chiến với sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn
năm 1975.
Những phát biểu này hoàn toàn tảng lờ các thông tin được biết trong
những năm gần
đây, các tài liệu lưu trữ và những nét tiểu sử chỉ giờ đây mới phát lộ.
Ngay từ
năm 1963, sau khi phản đối Nghị quyết 9 về việc tiến hành chiến tranh
trực tiếp
chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tướng Giáp đã bị gạt sang một bên
trong cuộc
tranh giành quyền lực của Lê Duẩn cùng các nhà lý luận khác trong Đảng.
Sau đó,
ông Hồ tự cách ly mình ra bằng cách đi Trung Quốc chữa bệnh. Ông Giáp
thì đi
Hungary. Tướng Giáp đã ở lại Hungary năm tháng, khi cuộc Tổng tấn công
Tết Mậu
Thân được lên kế hoạch. Mãi hai ngày trước khi chiến dịch bắt đầu, một
chiếc
chuyên cơ của Trung Quốc mới chở ông về lại ViệtNam. Giáp – người mà
danh chính
ngôn thuận vẫn là Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang và Bộ trưởng Quốc
phòng –
đã bàng hoàng khi được biết những chi tiết về cuộc tiến công biển người
vào các
đô thị Nam Việt Nam và các mục tiêu quân sự khác. Ông biết rằng các lực
lượng
vũ trang giải phóng trong Nam quá thua kém về mặt hỏa lực và không một
cuộc đồng
khởi nào có thể cứu họ khỏi bị tàn sát. Điều mà ông nhận được chỉ vì
ông đúng –
là một dạng lưu đày mới, ngay trong nội bộ. Ba chục tướng tá và những
người cộng
sự gần gũi của ông đã bị bắt và bỏ tù vì họ đã không nhiệt tình đầy đủ
trong việc
ủng hộ đường lối của Đảng.
Là người
lính có kỷ luật, suốt năm mươi năm Tướng Giáp đã giữ kín miệng về cuộc
tranh
giành quyền lực trong nội bộ Đảng. Những đồng sự cộng sản đã hạ tầng
công tác của
ông, từ Phó Thủ tướng xuống Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ
có Kế hoạch,
nhưng sống càng lâu, ông càng trở thành biểu tượng của sự thông minh và
trung
thực, lòng dũng cảm và sự nhìn xa trông rộng của dân Việt. Ông đã phát
biểu chống
lại sự tham nhũng và nhà nước công an khắc nghiệt của Việt Nam. Ông đã
chống lại
việc Chính phủ cho phép Trung Quốc khai thác mỏ bauxite ở Tây Nguyên.
Trong khi
tin tức về việc ông qua đời lan truyền trên mạng internet – không có
một thông
báo chính thức nào được công bố cho tới ngày hôm sau – hàng trăm nghìn
người Việt
Nam đã đổ ra các đường phố mang theo những bó hoa vàng và ảnh của con
người đã
từng tham gia tạo nên nước Việt Nam hiện đại và cũng là người đại diện
tiêu biểu
nhất cho những hy vọng và giá trị của đất nước. Mọi người đã khóc vì
tất cả những
gì họ đã phải chịu đựng trong suốt ba mươi năm chiến tranh chống Pháp
và Mỹ. Họ
khóc vì những lời hứa cuội của những con người tầm vóc nhỏ hơn ông,
nhưng đã gạt
ra rìa một viên tướng vĩ đại.
Tôi đã đến
thăm nhà báo Sài Gòn kiêm điệp viên Phạm Xuân Ẩn chỉ ít lâu trước khi
ông mất
năm 2006. Lúc đó ông bước tới cái ngăn kéo trong phòng khách của mình
và lôi ra
một tập giấy. “Đây là bức thư mười bảy trang của Tướng Giáp”, ông nói.
Đó là một
trong những bức thư tướng Giáp gửi cho Bộ Chính trị vào cuối đời, phê
phán ảnh
hưởng của Trung Quốc trong công việc nội bộ của Việt Nam, nạn tham
nhũng, hối lộ,
việc theo dõi của công an, sự tàn phá môi sinh, và những căn bệnh xã
hội khác. Ẩn
kể với tôi rằng, ba mươi tướng lĩnh đã ký thỉnh nguyện thư ủng hộ Tướng
Giáp.
“Thật nguy hiểm nếu anh đứng về một phía nào đó”, Ẩn nói. “Nguyên nhân
khiến
chúng tôi không có sách lịch sử Việt Nam do người Việt Nam viết, là do
anh
không thể nói thật. Đó là tại sao tất cả sách trên giá của tôi đều do
người ngoại
quốc viết.”
Thượng nghị
sĩ John McCain và những nhà bình luận khác đã từng phê phán ông Giáp về
việc
phí phạm sinh mạng những người lính của mình. Sự nhẫn tâm của ông không
thể nào
so sánh được với các viên chỉ huy người Anh trong Đại chiến Thế giới
thứ nhất,
và ông đã phản đối ý kiến của các cố vấn Trung Quốc, muốn dùng chiến
thuật biển
người để đánh Pháp tại Điện Biên Phủ. Thay vào đó, Tướng Giáp đã lựa
chọn chiến
thuật bao vây và kiên trì sử dụng pháo binh. Những lời khuyên còn tồi
tệ hơn của
Trung Quốc đã góp phần tạo ra cuộc Tổng tấn công Mậu Thân. Tướng Giáp
không phải
người để đổ lỗi về thất bại quân sự nặng nề này, với cái giá phải trả
là một nửa
số quân của cộng sản ở miền Nam và việc xóa sổ các đơn vị Việt cộng như
những lực
lượng chiến đấu. Sự phê phán cuối cùng của
McCain, rằng Tướng Giáp đã liều lĩnh đẩy đất nước của ông tới chỗ “bị
tàn phá gần
như hoàn toàn”, để “đánh bại bất cứ địch thủ nào, dù họ có mạnh tới đâu
chăng nữa”
cũng có thể áp dụng cho những nhà cách mạng thành công khác – như
George
Washington chẳng hạn.
Trong số các
cán bộ cách mạng Việt Nam, Tướng Giáp là người được giáo dục theo
phương pháp cổ
điển, với bằng cấp về triết học, lịch sử, luật pháp và chính trị, một
người vượt
trội hơn hẳn trong cái ban lãnh đạo tập thể không rõ mặt của đất nước
ông, một
người yêu phong lan và văn chương Pháp – thậm chí cả sau khi người Pháp
đã tra
tấn vợ ông tới chết – người đã dám đương đầu với mạng lưới kiểm duyệt
của Việt
Nam để nói lên sự thật. Chẳng có gì đáng
ngạc nhiên khi có hàng trăm nghìn người Việt Nam đã
dự đám tang và tiễn
đưa quan tài của ông tới nơi chôn cất, trên một sườn núi trông ra biển.
Ông đã
mở ra một thế giới hiện đại, hậu thực dân. Ông là biểu tượng của độc
lập và quyền
tự quyết. Những gì ông đã nói là một động lực cho cái Thiện trên đời
này, và những
gì ông chưa nói ra thì lại thuộc về chúng ta để khám phá. Giờ đây viên
tướng đã
đi xa, ta hãy nhìn lại con người này.
20-10-2013
Thomas A.
Bass, GS Anh ngữ và Báo chí tại Viện Đại học Tiểu bang New York (SUNY),
Albany,
là tác giả của hai cuốn sách về Việt Nam, The Spy Who Loved Us: The
Vietnam War
and Pham Xuan An’s Dangerous Game) và Vietnamerica: The War Comes Home.
Ý kiến
của ông đã được đăng (có lược chút ít) trên tờ Washington Post ngày
2-11-2013,
nhan đề “The man who was Vietnam’s master of war”. Bản dịch này được
thực hiện
theo nguyên bản do tác giả cung cấp, nhan đề “On the Death of General
Vo Nguyen
Giap”.
Bản tiếng Việt
© 2013 Bùi Xuân Bách & pro&contra
The man who was Vietnam’s master of
war
Now that the general has
died, perhaps the man can come to life. Gen. Vo Nguyen Giap died Oct. 4 at the age of 102. His
obituaries, many written years ago, report official versions of a life
that only recently has been explored by historians and still has yet to
be examined in detail.
Giap’s obituaries give the
man both too much and too little credit. He was indeed the architect of
Vietnam’s remarkable 1954 victory at Dien Bien Phu, which ended the
first Indochinese war, against the French. This was the first time in
the history of Western colonialism that Asian troops defeated a
European army in fixed battle. The message went out to Algeria and
other colonies, as they began emulating Vietnam’s success. “That young
Americans were still to die in Vietnam only shows that it takes time
for the echoes even of total defeat to circle the globe,” said writer
Graham Greene.
Most of Giap’s obituaries
also credit him with winning the second Indochinese war, against the
United States. They claim he masterminded the Tet Offensive of 1968 and
the final campaign that ended the war with the fall of Saigon in 1975.
These statements ignore the archival material and biographical traces
only now coming to light. As early as 1963, after opposing a Communist
Party resolution to begin warring directly against the United States,
President Ho Chi Minh and Giap were sidelined in a power grab by Le
Duan and other party ideologues. Later, Ho would exile himself to
China, Giap to Hungary. This is where Giap lived for five months when
the Tet Offensive was planned. Flown back to Vietnam on a Chinese
airplane two days before the campaign began, Giap — who was still
nominally commander in chief of the armed forces and minister of
defense — was dismayed to learn the details of this human-wave assault
on South Vietnamese cities and other military targets. He knew the
southern forces were outgunned and that no popular uprising would save
them from being slaughtered. What he got for being right was a new kind
of internal exile. Thirty of Giap’s closest associates had already been
arrested and imprisoned for not being enthusiastic enough in their
support of the Communist Party.
For 50 years, the good
soldier Giap kept his mouth shut about Vietnam’s internal power
struggles. His Communist colleagues shoved him down the ranks, from
deputy premier to director of family planning, but the longer Giap
lived, the more he came to embody the intelligence, decency, courage
and foresight of his people. He spoke out against Vietnam’s draconian
police state and corruption. He fought against the government allowing
China to strip mine bauxite in the Central Highlands.
As news of Giap’s death
spread, hundreds of thousands of Vietnamese poured into the streets
holding yellow flowers and photos of the man. People wept for all they
had suffered during 30 years of warring against the French and
Americans and for the broken promises of the lesser men who had
sidelined the great general.
I was visiting the Saigon
journalist and spy Pham Xuan An shortly before his death in 2006 when
he showed me a sheaf of papers. “This is a 17-page letter from General
Giap,” he said. The letter was one of several that Giap sent late in
his life to the Politburo, attacking Chinese influence in Vietnamese
affairs, bribery, corruption, police surveillance, environmental
depredation and other social ills. An told me that 30 generals had
signed a petition supporting Giap. “It is dangerous to take sides,” he
said. “The reason we have no history of Vietnam written by Vietnamese
is that you can’t tell the truth. That’s why all the books on my
shelves are written by foreigners.”
Sen. John McCain and
others have criticized Giap for being profligate with the lives of his
soldiers. He was nowhere near as ruthless as British commanders in
World War I, and he rejected the counsel of Chinese advisers who wanted
to use human-wave attacks against French forces at Dien Bien Phu. Giap
opted instead for siege techniques and the patient use of artillery.
More bad advice from China crafted the Tet Offensive. Giap is not to
blame for this military blunder, which cost the Communists half their
soldiers in the south and destroyed the Vietcong as a fighting force.
McCain’s criticism that Giap risked “the near total destruction” of his
country “to defeat any adversary, no matter how powerful” might be
applied to other successful revolutionaries — George Washington, for
example.
Giap, the one classically
trained member of Vietnam’s revolutionary cadre, with degrees in
philosophy, history, law and politics, stood out in his country’s
faceless collective leadership. He was a lover of orchids and French
literature — even after the French tortured his wife to death. He
braved Vietnam’s censors to speak the truth. No wonder hundreds of
thousands of Vietnamese attended his funeral. He ushered in the modern,
post-colonial world. He stood for independence and self-determination.
What he said was meant to be a force for good in the world, and what he
left unsaid is ours to discover.
|