|
On Hope
"From
where will a renewal come to us, to us who have spoiled and devastated
the
whole earthly globe?" asks Simone Weil. And she answers, "Only from
the past, if we love it." At first sight this is an enigmatic
formulation,
and it is difficult to guess what she has in mind. Her aphorism
acquires
meaning in the light of her other pronouncements. Thus she says
elsewhere:
"Two things cannot be reduced to any rationalism: Time and Beauty. We
should start from them." Or: "Distance
is the soul of beauty."
The past is "woven with time the color of eternity." In her opinion,
it is difficult for a man to reach through to reality, for he is
hindered by
his ego and by imagination in the service of his ego. Only a distance
in time
allows us to see reality without coloring it with our passions. And
reality seen
that way is beautiful. That why the past has such importance: "The
sense
of reality is pure in it. Here is pure joy. Here is pure beauty.
Proust."
When quoting Simone Weil I think of what made me personally so
receptive to her
theory of purification. It probably was not the work of Marcel Proust,
so dear to
her, but a work I read much earlier, in childhood, and my constant
companion
ever since-Pan Tadeusz by Adam
Mickiewicz, a poem in which the most ordinary incidents of everyday
life change
into a web of fairytale, for they are described as occurring long ago,
and
suffering is absent because suffering only affects us, the living, not
characters invoked by all-forgiving memory.
Humanity
will also explore itself in the sense that it will search for reality
purified,
for the "color of eternity," in other words, simply for beauty.
Probably this is what Dostoevsky, skeptical as he was about the fate of
civilization, meant when he affirmed that the world will be saved by
beauty. This means that our growing despair because of the
discrepancy between
reality
and the desire of our hearts would be healed, and the world which
exists
objectively-perhaps as it appears in the eyes of God, not as it is
perceived by
us, desiring and suffering-will be accepted with all its good and evil.
Milosz
Note: Đọc The
Witness of Poetry, thấy ảnh hưởng đậm đà của Simone Weil lên tư tưởng
và thi ca
của Milosz.
Post đoạn sau đây, liên quan tới từ Grace, Ân sủng.
Thế kỷ
của chúng
ta sản xuất ra một vài tư tưỏng gia kiệt xuất mà sự quan trọng của họ
tăng trưởng
theo từng, với mọi thập niên, with every decade, và, nhắc tới một trong
số họ ở
đây, Simone Weil, tôi bị cám dỗ bởi yếu tố tự thuật, mặc dù giờ đây,
tôi không
còn coi sự kính trọng bà của tôi có vẻ biệt lập.
“Từ đâu
cái lại
mới, a renewal, đến với chúng ta, một lũ người làm hư hỏng, làm tanh
bành trọn
trái đất?” Simone Weil hỏi, và bà trả lời, “Chỉ từ quá khứ, nếu chúng
ta yêu nó”.
Thoáng đọc,
thấy như một ẩn ngữ, và thật khó mà đoán ra được trong đầu bà nghĩ gì.
Đành đi tìm
lời giải từ những gì bà nói ở đâu đó, ở chỗ khác.
“Có hai điều
không thể nào giản lược về bất cứ một chủ nghĩa duy lý: Thời Gian và
Cái Đẹp. Chúng
ta có thể lấy đó làm điểm xuất phát”.
Hay câu này:
“Xa xôi, cách trở là linh hồn của cái đẹp” [‘Distance is the soul of
beauty’].
Quá khứ là ‘mầu sắc của thiên thu được dệt bằng thời gian’. Theo bà,
con người
thật khó mà nắm tới thực tại, do bị cản trở bởi cái tôi vị kỷ, his ego,
và sự bởi
sự tưởng tượng, được sai khiến bởi cái tôi vị kỷ, imagination in the
service of
his ego.
Chỉ xa xôi cách
trở về thời gian cho phép chúng ta nhìn thực tại mà không tô mầu, vẽ
vời nó, bằng
những đam mê của chúng ta. Và thực tại, nhìn theo cách này, thì đẹp.
Chính vì
thế mà quá khứ quan trọng đến như thế: “Ý nghĩa thực tại thì thuần
khiết ở
trong nó. Đây là niềm vui thuần khiết. Đây là cái đẹp thuần khiết.
Proust”
Trong khi trích
dẫn Simone Weil, tôi [Czeslaw Milosz]
Ocean Vuong
The Photo
After the infamous 1968
photograph of a Viet Cong officer executed by South Vietnam's
national police
chief.
What hurts the most
is not how death
is made permanent
by the cameras flash
the irony of sunlight
on gunmetal
but the hand gripping the
pistol
is a yellow hand,
and the face squinting
behind the barrel
a yellow face.
Like all photographs this one
fails
to reveal the picture.
Like where the bullet
entered his skull
the phantom of a rose
leapt into light, or how
after smoke cleared
from behind the fool
with blood on his cheek
and the dead dog by his feet
a white man
was lighting a cigarette.
ASIA LITERARY REVIEW
SUMMER 2010
Nhưng tôn vinh
cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm
thơ,
không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài
người, như
Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý,
đẩy đưa
đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi
phi lý ấy
chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ
chẳng bao
giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay
làm thơ
như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng
thì vẫn là
cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi
chi, biết
không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng
là tự
nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một
đời để
ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng
trăng” từ
“Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi
quán” đến
Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một
phương,” đến
Ngày lớn. Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu -
hỏi thực
cũng như chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi
đến đâu
- nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng
Chương
đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách
nói
thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì
mới biết
được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời?
Ai
biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết.
Thay nhau
nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng
ta cần
nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
TTT
GNV này cứ lần
lữa mãi, chưa làm sao dịch nổi vài dòng của Simone Weil, qua đó, chúng ta mới
hiểu ra được
Cái Đẹp của Thơ, đúng theo nghĩa của Dos: Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế
giới.
Chán thật!
Và có “tỉnh lớn” thì mới biết
được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời?
Ai
biết?
Thơ là
lời và hơn lời. Đã đến
lúc chúng ta cần nghe thơ.
Three
Poems by
Charles Simic
Migrating
Birds
If only I had a dog, these
crows congregating
In my yard would not hear the
end of it.
If only the mailman would
stop by my mailbox,
I'd stand in the road reading
a letter
So all you who went by could
envy me.
If only
I had a car that ran
well,
I'd drive out to the beach
one winter day
And sit watching the waves
Trying to hurt the big rocks
Then scatter like mice after
each try.
If only
I had a woman to cook
for me
Some hot soup on cold nights
And maybe bake a chocolate
cake
A slice of which we'd take to
our bed
And share after we've done
loving.
If only
these eyes of mine
would see better,
I could read about birds
migrating,
The vast oceans and deserts
they cross
And their need to return to
this shithole
After visiting many warm and
exotic countries.
Eternities
A child lifted in his
mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding
around him in the park,
Could they be the same person?
The
blind woman who may know
the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
All lit up in the night sail
past their kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.
All Gone into the Dark
Where's
the blind old street
preacher led by a little boy
Who said the world will end
next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark
naked and proud of herself?
Where's
the poet Delmore
Schwartz I once saw sitting
In Washington
Square Park gesturing
theatrically to himself?
Where's the young man in a
wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about
wanting to kill more Vietnamese?
Mr
Undertaker, sitting in a
window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of
us, equally in the dark
As you busy yourself around
the newly arrived dead?
LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
Note:
Cả ba bài đều tuyệt!
Rảnh, GNV sẽ dịch hầu quí vị, sau!
Ui chao, đọc cái câu về anh chàng thương
binh ngồi ghế lăn, được mẹ đẩy, miệng hô làm thịt thêm VC mà chẳng
‘lạnh’ sao?
Một độc
giả, cũng mới biết đến
trang TV ít lâu nay, do tình cờ, và trở thành một thân hữu, lần đầu
tiên
đọc thơ Joseph Huỳnh Văn, sửng sốt la lên, ‘lạnh’, y chang TTT!
Ui
chao, GNV này chưa từng thấy
có ai nhận xét, bằng cái tính từ ‘lạnh’, cho cả hai cõi thơ, như thế!
Nhưng hai cõi lạnh, trên, khác nhau!
Tờ TLS số
Sept 10, 2010 có bài về Milosz và Brodsky, “Causework”, với cái tiểu
tít, ‘quyền
của nhà thơ trong thời không tưởng’, the poet’s authority in the age of
utopia.
Đây là một bài điểm một số sách mới xb và một cuốn phim chuyển thể cái
thư của
Brodsky viết về hai đấng sinh thành, trên TV đã từng dịch Một căn
phòng rưỡi.
Bài này tuyệt, và phần nào đó, trả lời câu hỏi liên quan đến HC và thái
độ của
ông trước nhà cầm quyền.
Những
nhà thơ trữ tình sẽ trở
nên ra sao, một khi thay vì phục vụ nàng thơ, ‘service to the muse’,
thì phục
vụ nhà nước, 'service of the nation'? Liệu cái thứ thơ trữ tình, như
của… cô Tú, thí dụ, vượt ra khỏi biên
cương, và
vươn tới cõi xuyên quốc gia, transnational ? Liệu những nhà thơ, ngay
cả khi
lưu vong, trốn thoát, escape, cái bản đồ tinh thần, the mental mape,
của quê hương mẹ đẻ? Đó là một số những câu hỏi mà một vài cuốn sách
mới xuất
bản, đề ra, kể cả cuốn phim chuyển từ tiểu luận, đúng ra, thư của
Brodsky, viết
về ông bô bà bô của mình, Một Căn
Phòng Rưỡi. Vượt lên trên tất cả, là những
toan tính trầm trọng, serious, nhằm tìm hiểu liên hệ của nghệ thuật thơ
ca với
cuộc sống của những thi sĩ.
Nothing
reveals a poet's
weakness like classic verse and that why it's so universally dodged
Brodsky [Intro to Anna
Akhmatova's Poems, selected and edited by Lyn Coffin. Norton]
Không gì tố cáo cái yếu kém
của một nhà thơ cho bằng thơ cổ điển, và chính vì
thế mà mấy nhà thơ Mít dởm của chúng ta tránh nó như tránh... hủi!
Thơ lục bát: Một duyên phận
long đong
TYT
Note: Tay này đặt ngược vấn đề!
Thơ lục bát không long đong, nhưng
nhà thơ long đong, nếu đụng vô nó, mà không đủ nội lực.
Đây là
nhận định của hơn 1 nhà
văn, nhà thơ, trên thế giới, khi cho rằng, ‘truyền thống’, trong có lục
bát, tất
nhiên, là một thách đố, đối với những nhà thơ dởm, và chính vì nó,
truyền thống [ở đây, là lục bát], mà đẻ
ra ba thứ
thơ nhảm nhí, như tự do, không vần, tân hình thức, những nhà thơ cách
tân, canh
tân, hậu vệ, mở miệng....!
Trong
quá khứ, cũng có hơn 1
nhà thơ Mít, đụng vô lục bát, mà thành công, thí dụ, Cung Trầm Tưởng,
[Bùi Giáng
nữa, ở 1 số bài, thí dụ như khi ông dịch Apollinaire], Đồng Đức Bốn,
Viên Linh,
[nhớ đại khái vài cái tên]
TTT
phải đến khi vô tù mới trở
lại được với truyền thống, một phần là vì hoàn cảnh, cái khó nó bó cái
khôn, nhưng
theo Gấu, chính ở trong tù ông mới ngộ ra được truyền thống, một phần
là do, cái
gọi là bạo lực trong thơ của ông tới được cõi viên mãn của nó: thiền.
Borges
đã từng đặt ra vấn đề này, trong 1 lần nói chuyện
về thơ, với sinh viên:
'Tôi nghĩ những nhà thơ trẻ
thích bắt đầu bằng một điều cực kỳ khó
khăn - thơ tự do. Và đây là một lỗi lầm lớn. Nếu bạn tính làm một bài
sonnet,
thí dụ vậy, bạn có ảo tưởng, thực sự đã có một cái gì đó: cái khung của
bài
thơ. Cái khung có trước, cho dù dòng thơ đầu tiên chưa được viết ra.
Rồi bạn chỉ
việc kiếm từ có vần có điệu. Chúng làm mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn.
Nói như
vậy, không có nghĩa là tôi thích một bài sonnet, hơn là một bài thơ tự
do. Nếu
bạn lấy một vài trang đẹp nhất, trong Lá Cỏ của Whitman, rồi hỏi tôi,
liệu
chúng có hơn, một bài sonnet của Shakespeare, hay Keats, hoặc Yeats,
tôi cho một
câu hỏi như vậy, là vô nghĩa. Tôi thích cả hai. Tại sao lại phải bỏ
một, nếu có
thể giữ cả ? Nhưng sự khác biệt là như thế này: Nếu bạn làm một bài thơ
vần, bạn
đã có sẵn một vóc dáng, và người đọc có thể tham dự vào vóc dáng đó;
trong lúc
nếu bạn làm thơ tự do, mọi chuyện là do bạn. Kỹ năng của bạn phải cao.
Lẽ dĩ
nhiên, nếu bạn là Walt Whitman, nội lực thâm hậu chỉ muốn bật ra thôi,
bạn cứ
làm thơ tự do, và đây là một điều đáng làm. Chuyện này đâu xẩy ra cho
nhiều người
trong số chúng ta. Tôi đã gặp phải lỗi lầm này, khi in tập thơ đầu. Tôi
đọc
Whitman, và tưởng chuyện dễ. Bởi vậy lời khuyên của tôi đối với những
nhà thơ
trẻ, là hãy bắt đầu bằng những thể thơ cổ điển; chỉ sau đó, mới trở
thành cách
mạng được. Tôi nhớ một nhận xét của Oscar Wilde - một nhận xét đầy chất
tiên
tri. Ông nói: "Nếu không có thơ vần, chúng ta đều trở thành thiên
tài". Đây là chuyện đang xẩy ra ngày hôm nay, ít ra là tại xứ tôi. Hầu
như
ngày nào tôi cũng nhận được những cuốn thơ của những thiên tài hoặc mấp
mí
thiên tài: nghĩa là những cuốn thơ hình như chẳng có một chút ý nghĩa
nào đối với
tôi. Ngay cả những ẩn dụ ở trong đó, tôi không thể nào nhận ra được. Ẩn
dụ đề
nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Nhưng trong những cuốn thơ đó, tôi
chẳng
nhìn thấy bất cứ một nối kết nào. Tôi đã phạm vào lầm lẫn thiên tài như
vậy,
trong tập đầu, tập hai cũng vậy, và có lẽ ngay cả tập ba; và rồi tôi
khám phá
ra, có một điều gì thực sự huyền ảo, và không thể nào cắt nghĩa được,
về một
bài sonnet: Nó có thể đẻ ra đủ thứ, đủ loại thơ, khác nhau.
Q: Về
thơ vần, ông có nghĩ
là, tất cả tùy thuộc vào loại thơ mà ông đã trưởng thành?
Borges:
Câu hỏi thật kỳ cục.
Có vẻ như ông có quá ít tò mò, về quá khứ. Nếu ông viết bằng tiếng Anh,
thì đó
là một truyền thống. Ngôn ngữ, tự thân, là một truyền thống. Tại sao
không theo
truyền thống thật dài, thật xuất sắc của những nhà thơ sonnet, thí dụ
vậy? Tôi
nhận thấy thật lạ lùng, khi bỏ qua thể thơ (form). Nói cho cùng, ít nhà
thơ làm
thơ tự do hay, nhưng rất nhiều nhà thơ bậc thầy, ở những thể thơ khác.
Ngay cả
Cummings cũng có nhiều bài sonnet thật tuyệt. Tôi có thuộc một số bài.
Tôi
không nghĩ ông có thể gạt bỏ tất cả quá khứ. Nếu làm vậy, ông sẽ gặp
rủi ro khi
khám phá ra những điều đã được khám phá rồi. Điều này là do sự thiếu tò
mò.
Chẳng lẽ ông hết tò mò về quá khứ? Không tò mò về những bạn thơ thế kỷ
này? Thế
kỷ trước? Thế kỷ 18? John Donne chẳng là gì đối với ông? Hay là Milton? Thật sự
tôi không
thể, ngay cả để "bắt đầu", trả lời câu hỏi của ông.
Q: Liệu
chúng ta có thể đọc
những nhà thơ quá khứ, rồi diễn giải những gì học được, bằng thơ tự do?
Borges:
Điều tôi không hiểu
được, đó là, tại sao ông lại muốn bắt đầu, bằng một điều thật khó, thí
dụ như
thơ tự do?
Q:
Nhưng tôi thấy không khó.
Borges:
Well, tôi không biết
thơ bạn làm, thật khó mà nói. Vấn đề có thể là, làm thì dễ, nhưng đọc
thì khó.
Trong hầu hết trường hợp, có sự lười biếng. Lẽ dĩ nhiên, có những ngoại
lệ. Thí
dụ Whitman, Sandburg, Edgar Lee Masters. Một trong những lập luận của
thơ tự
do, đó là người đọc biết, đừng trông mong lấy ra được từ đó một thông
tin nào;
hoặc phải tin vào một điều gì đó - khác với một trang thơ xuôi, vốn
thuộc về
văn chương của tri thức, chứ không phải văn chương của quyền lực.
Q: Ông
có nghĩ, có thể tạo ra
những thể thơ mới?
Borges:
Lý thuyết có thể
đúng. Nhưng điều tôi muốn nói, và chưa nói ra được, đó là bắt buộc phải
có một
cấu trúc; và nếu bắt đầu bằng một cấu trúc hiển nhiên, như vậy vẫn dễ
dàng hơn.
Phải có cấu trúc thôi. Mallarmé có nói: "Chẳng có cái gọi là thơ xuôi
(prose); đúng vào lúc bạn lo tới nhịp điệu, nó trở thành thơ (verse)."
Stevenson cũng nói đại khái như vậy: "Sự khác biệt giữa thơ và thơ xuôi
là
do khi bạn đang đọc" - ông muốn nói những thể thơ cổ điển - "bạn mong
một điều, thế là bạn có".
Nói
ngắn gọn, sự khác biệt
giữa một sonnet của Keats, với một trang thơ tự do của Whitman, thí dụ
vậy, đó
là bài sonnet, cấu trúc của nó hiển nhiên - thành ra dễ làm - trong khi
nếu bạn
thử làm một bài thơ như "Children of Adams" or "Song of
Myself", bạn phải tự mình bịa đặt ra một cấu trúc của riêng bạn. Không
có
cấu trúc, bài thơ sẽ chẳng có hình dạng, và tôi nghĩ, nó chẳng thể chịu
nổi một
chuyện như thế đâu.
Borges: Nói về thơ
Mới…
lúc nãy, GNV lại gặp lại
vấn đề ‘long đong’ này, nhân đọc cuốn thơ tuyển của Mandelstam, với lời
Tựa của
chính bà vợ của thi sĩ.
Một bài viết thật tuyệt. Post tại đây, rồi, lèm bèm
sau!
Bài Tựa này, và nhận xét của Akhmatova về Mandelstham, còn giải thích
tại
làm sao... TTT không có ‘tiền thân’ [‘fore-runner’]!
Foreword by Nadezhda Mandelshtam
I think
that the most
difficult task in the world is the translation of verses, particularly
of a
true poet, in whose verses there is no discrepancy between the form and
the
content (or meaning) - both of them always new and but a bit different
(with no
great disparity between them) - and where the ego of the poet is always
strikingly felt. Marina Tsvetayeva said she could write as Mandelshtam
did but
that she didn't want to. She was a great poet but she was greatly
mistaken. She
could be influenced by Mayakovsky and Pasternak and remain Tsvetayeva
because
they were innovators and
therefore easily aped. But Mandelshtam composed verses
in tradition, which is far more difficult to imitate.
Mr Robert Lowell's
translations are very free; Mr Paul Celan's into German also free. But
both are
a very far cry from the original text. As far as I know the
translations of Mr
Greene are the best I ever saw. I can't give my opinion about the
Italian
translations, as I don’t know Italian as well as English, French and
German. As
for Elsa Triolet's, they are as naive and vulgar as she was.
Mandelshtam said that the
contents are squeezed from the form as water from a sponge. * If the
sponge is
dry, there would be no moisture at all. So, to render the content -
which Mr
Greene has succeeded in doing - is to give, in a way, the form or
harmony, the harmony which can't be rendered in translation, the
harmony which is quite
simple and at the same time mysteriously complicated. Poetry is a
mystery.
Nadezhda Mandelshtam, 1976 (1)
Translator's Preface
[Mandelshtam]
had no poetic
forerunners - wouldn't that be something worth thinking about for his
biography? In all of world poetry I know of no other such case. We know
the
sources of Pushkin and Blok, but who will tell us where that new,
divine
harmony, Mandelshtam's poetry, came from?
Anna Akhmatova
M. không có tiền thân, liệu
điều này có tính đếm đến, khi lèm bèm về tiểu sử của ông? Trong
trọn thế giới
thi ca mà tôi biết, chưa hề có một trường hợp như thế. Chúng ta biết
nguồn thơ
của Pushkin, của Blok, nhưng ai bảo cho ta biết sự hài hòa mới mẻ, thần
thánh,
thơ của Mandelstham, đến từ đâu?
Translation
it is that
openeth the window, to let in the light; that breaketh the shell, that
we may
eat the kernel.
King James Bible, 1611: 'The
Translators to the Reader'
(1) Tôi
nghĩ cực trần ai là
cái chuyện dịch thơ, nhất là thơ của 1 thi sĩ thứ thực, thứ thơ không
làm sao mò ra
đâu ra nội dung đâu là hình thức của thơ, cả hai thì đều mới tinh, và
lại hơi
khác khác, khi phải so với nhau, thành ra mới khó lần đường ranh giữa
chúng,
và chính tại đây mà cái tôi của nhà thơ được cảm nhận một cách thật dữ
dội và
đầy kinh ngạc.
Marina Tsvetayeva nói, bà có thể làm thơ như Mandelshtam nhưng
không thèm làm, bà nói thế là nói bậy, tuy bà là một nhà thơ vĩ đại. Bà
có thể
bị ảnh hưởng bởi Mayakovsky và Pasternak và vẫn là Tsvetayeva, bởi vì
họ là những nhà thơ canh tân, và do đó, thật dễ chôm
chĩa,
phỏng theo.
Nhưng Mandelshtam làm thứ thơ theo
truyền thống, và như thế, thật khó bắt chước.
Bản dịch của Mr Robert Lowell thì quá phóng túng, Của Mr Paul Celan qua
tiếng
Đức, cũng phóng túng, Nhưng cả hai thì đều là một tiếng khóc quá xa
nguyên bản.
Như tôi biết, bản dịch của Mr Greene là bảnh nhất, tôi từng được đọc.
Tôi
không thể phán về những bản dịch tiếng Ý, vì không biết tiếng Ý, mà chỉ
biết có
tiếng Anh, tiếng Tây, và tiếng Đức. Về bản dịch của Elsa Triolet, thì
nhảm quá,
như cô em này thì ngây thơ và dung tục.
Mandelshtam nói, nội dung thì được vắt ra khỏi hình thức, như người ta
vắt một miếng
bọt biển dùng để lau bảng. Nếu cái miếng bọt biển khô, thì làm sao vắt,
dù chỉ
được tí ẩm, ướt?
Thành thử, đem đến nội dung, như Mr Greene đã thành công trong khi
dịch, là đem
đến, một cách nào đó, hình thức, hay hài hòa, một thứ hài hòa không thể
nào đem
lại được, qua dịch thuật, thứ hài hòa thật đơn giản, và cùng lúc, thật
đa đoan
một cách rất ư là bí ẩn.
Thơ là một huyền nhiệm.
Nadezhda Mandelshtam, 1976
|