|
Phận
lưu vong
Chúng ta tụ tập nơi đây,
trong phòng ốc sáng trưng, quyến rũ như thế này, để bàn về số phận nhà
văn lưu
vong, chúng ta hãy im lặng một phút, để nghĩ tới một vài người không có
mặt ở
phòng này. Hãy tưởng tượng, thí dụ, những người di dân Thổ nhĩ kỳ đang
lang
thang trong những con phố ở Tây Đức; thật xa lạ nhưng cũng thật thèm
muốn đối
với họ, là thực tại chung quanh. Hay hãy tưởng tượng những thuyền nhân
Việt Nam
đang chới với
ở đầu sóng dữ, nơi biển cao, hay đã được ổn định tại một nơi chốn xa
xôi hẻo lánh
nào ở Úc. Chúng ta hãy tưởng tượng những di dân lậu người Mễ bò lết ở
trong những
đường hầm vượt biên giới ở vùng phiá Nam
tiểu bang Cali.
Hay chúng ta hãy tưởng tượng tới những con tầu chở dân Pakistanis đổ
xuống đâu đó
tại xứ Kuwait, hay Saudi Arabia, cố làm sao kiếm cho được 1 việc làm rẻ
mạt, tại
xứ sở của những ông chủ mỏ dầu giầu có, thứ công việc dân sở tại chê
chẳng thèm
làm. Hay tưởng tượng hằng hà những nguời Ethopians đi bộ vượt sa mạc vô
xứ Somalia,
[hay đi
vòng vòng theo một lối khác?] cố làm sao cho khỏi chết đói.
Nhưng có lẽ chúng ta nên ngưng
tại đây, bởi vì một phút đã qua, mặc dù danh sách còn dài. Chẳng có ai
đếm được
những người này, ngay cả Cao Uỷ Tị Nạn thì cũng chịu thua. Hàng triệu
triệu con người
như thế tạo thành điều được gọi là thiên di.
Thì cứ tạm gọi họ bằng cái từ đó,
trong khi nhân loại cố kiếm cho ra 1 từ thân thương hơn.
Cho dù bạn dùng bất cứ một
thứ tiếng nào để gọi hiện tượng này, di dân hay gì gì đó, có điều này,
là tuyệt
đối hiển nhiên: thật rất khó khăn đối với họ, khi nhìn thẳng mặt vào
người đối
diện để nói về số phận nhà văn lưu vong [one thing is absolutely clear:
they
make it very difficult to talk with a straight face about the plight of
the
writer in exile.]
Tuy nhiên, không thể không
nói về số phận lưu vong của nhà văn, bởi vì không chỉ vì văn chương,
và, văn
chương, thì cũng giống như sự nghèo đói, nó có thói quen tự lo cho nó;
nhưng
còn là bởi vì, từ ngàn xưa, chúng ta có niềm tin, chẳng có cơ sở nào để
mà kiểm
chứng, rằng, nếu những sư phụ của thế gian này được truyền tụng rộng
rãi, thì
nỗi khổ đau giáng xuống những kẻ cơ cực được dịu đi…
Kể từ khi chẳng hy vọng, chẳng trông mong gì, về 1 thế giới tốt đẹp
hơn, và kể
từ khi mọi chuyện thì có vẻ đều hư hỏng, hoặc cách này, hoặc cách khác,
chúng ta đành chấp nhận, và cố giữ cho được, văn chương là hình thức
độc nhất của sự bảo hiểm đạo đức mà một xã hội có được, we must somehow
maintain that literature is the only form of moral insurance that a
society has,
nó là cái thứ thuốc khử độc, trừ độc, giải độc, độc nhất, chống lại
nguyên
lý chó ăn chó, người ăn người [dog-eat-dog principle], nó, văn chương,
cung cấp
cho con người một luận cứ tốt đẹp nhất, chống lại bất cứ một giải
pháp ủi sập đại trà [it provides the best argument against any sort of
bulldozer
mass-solution] – và nếu ‘báu vật của đời’, là văn chương, thì, văn
chương cũng
chính là lý do hiện hữu của cuộc đời.
Chúng ta phải nói, bởi vì chúng
ta phải nhấn mạnh, văn chương thì lớn lao vĩ đại nhất - chắc chắn là
lớn lao hơn
bất cứ một tín ngưỡng nào – vị thầy của con người về sự tinh tế, và, do
can thiệp
vào sự hiện hữu tự nhiên của văn chương, vào khả năng của con người khi
học những
bài học của văn chương, một xã hội kìm hãm tiềm năng của nó, làm chậm
bước tiến
hoá, và sau cùng, nó khiến cho bản chất, yếu tính của chính cái xã hội
đó lâm
nguy. Chính vì thế mà chúng ta phải nói, không chỉ cho chúng ta mà còn
cho văn
chương.
Thích
hay không thích, di dân
và tị nạn, bất cứ kiểu gì, ngắt mẹ cái bông hoa lan cài trên ve áo của
ông nhà
văn lưu vong. Dời đổi, và chọn không đúng cái xứ để mà dời đổi,
displacement
and misplacement, là chuyện thường ngày của thế kỷ. Và cái điều mà nhà
văn lưu
vong của chúng ta cùng có chung với di dân, hay tị nạn, đó là, cả
hai đều
chạy từ cái tệ hại tới cái tốt hơn. Cốt lõi của vấn đề ở đây là, từ một
chế độ
độc tài con người ‘chỉ được’ lưu vong tới một chế độ dân chủ! Cái quá
khứ vàng
son lưu vong tốt, thì hết rồi. Chẳng còn cái vụ dời bỏ La Mã văn minh
để lưu
vong sống đời dã man, bán khai ở Sarmatia!
Cũng
chẳng có vụ lưu đầy 1 người từ Bulgaria
tới TQ, hay xứ Mít!
Không, như là một luật, là sự
chuyển đổi từ một chế độ khốn kiếp về chính trị, và kinh tế, tới một xã
hội văn
minh với ‘lời cuối trên môi’, là, tự do cá nhân.
Và có lẽ chính là lý do này,
mà, ‘tôi chọn con đường lưu vong’ hoá ra là chọn con đường về nhà, bởi
vì nhà
văn lưu vong trên đường đi tìm lưu vong như thế, lại trở nên gần gụi
với cái
ghế ngồi viết văn của mình, và với những lý tưởng mà chính chúng đã gợi
hứng
cho anh ta viết.
Tuy nhiên, nếu phải tìm cho
ra một dạng nào đó, a genre, cho cuộc sống của nhà văn lưu vong, thì có
lẽ phải
nói, nó thì bi hài, tragicomedy. Do những nhập thân có trước đó, [do
cũng đã có
tí ti hiểu biết về cái nơi sắp tới], anh ta có thể dễ dàng chấp nhận,
thưởng
thức, appreciating, những tiện nghi về mặt xã hội, về mặt vật chất của
1 chế độ
dân chủ, chẳng thua, và khi còn hơn cả dân bản xứ. Nhưng, chính vì lý
do này,
[mà 1 trong những phó sản phẩm của nó, là rào cản về ngôn ngữ], anh ta
nhận ra,
anh ta chẳng là cái chó gì, chẳng đóng 1 vai trò nào có ý nghĩa, thấy
mình thậm
vô ích, trong cái xã hội mới đó. [Viết cứ như viết vào hư vô, đúng như
nhà văn
NMG đã từng than, là vậy!]. Cái xã hội dân chủ cung cấp cho nhà văn lưu
vong
một sự an toàn về mặt vật chất, đồng thời tước mẹ của anh ta cái lý do
hiện
hữu, như là 1 nhà văn, nghĩa là, làm cho anh ta trở nên vô tích sự,
chẳng có ý
nghĩa chó gì, về mặt xã hội. [Viết cứ như là thủ dâm, là… gì gì như
Thầy Cuốc
phán, Gấu quên mẹ nó mất, và được nhà văn Võ Đình gật gù khen, khiếp,
chắc là
vì thế này chăng?] (1)
Và vì cái sự mất mẹ nó ý
nghĩa sống ở trên đời, mà, nhà văn hay không nhà văn, đếch ai chịu nổi.
Brodsky
(1)
“Viết
văn, ngày xưa, là một danh
phận; sau này, vừa là một danh phận vừa là một nghề nghiệp. Ở hải
ngoại, viết
văn không thể là một nghề nghiệp mà trên thực tế, cũng không còn là một
danh
phận. Viết văn trở thành một cách hành lạc đau đớn của những người bị
bất lực.”
Nhớ, khi bài viết ấy xuất hiện, nhiều người đã bàn tán khá sôi nổi, đây
đó,
trên nhiều diễn đàn khác nhau.
Nhà văn Võ Đình, trong bài “Khiêm tốn hay buồn thảm” (http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=226),
khi nhắc đến hình ảnh ấy, chỉ buông một tiếng: “Khiếp”.
Tôi rất thích cái tiếng “Khiếp” ấy.
NHQ: Kinh nghiệm viết văn:
Cần có hình tượng mạnh
*
Khiếp,
thật!
Cái thứ
văn chương cần hình tượng
mạnh này, theo Gấu, thì cũng giống như bạn sử dụng ma túy, để tạo ép
phê, nói rõ
hơn, là doping văn chương, như doping trong thể thao, thí dụ.
Gấu,
khi mới ra được ngoài này,
nghe thiên hạ khen um lên, nhà văn Trần Vũ, và tò mò đọc, chán quá,
chính là vì
anh lạm dụng từ ngữ, sử dụng quá ‘đô’, tất cả mọi thứ, để tạo hình
tượng mạnh,
và chỉ đến khi anh ta đã chín, đã trầm lắng đi, tức là khi anh viết
Lưng Trần,
thì Gấu mới gật gù, được, được!
Nhà văn
Cao Hành Kiện là 1
trong những nhà văn bậc thầy, chính là ở cái thứ văn chương nhạt thếch
của ông,
như ở trong tập truyện ngắn “mua 1 cái cần câu cho ông tôi”: thám hiểm,
khai phá
những giới hạn và ý nghĩa rất ư là ý nghĩa, the very meaning, của giả
tưởng, đúng
như lời khen tặng ở trang bìa.
Chẳng có tình tiết, giống như ở trong
hầu hết mọi
giả tưởng, và nếu có gì thích thú, thì đó là sự hòa hợp, inherent, ở
trong ngôn
ngữ, chính nó.
Cái thứ
văn chương “viết như
không viết” này mới là tuyệt đỉnh, tuyệt đích của văn chương.
Lý Trác
Ngô, trong bài Tựa cho Mái Tây, phán, "người viết Mái Tây là thợ trời.
Người viết Tỳ Bà chỉ
là thợ
vẽ. Người thợ vẽ có thể cướp được cái khéo của thợ trời. Nhưng thực ra
thợ trời
nào có khéo đâu", là cũng ý đó.
Bạn đọc
TV có thể thưởng thức
1 truyện ngắn trong tập trên của Cao Hành Kiện, trên trang Chim Việt
Cành Nam:
Joseph Brodsky
|