|
Gods of the
Mall
Khi giới thiệu
Điếm Buồn của Mai Kim Ngọc, dịch Garcia Marquez, talawas có nhắc tới
hiện tượng
mê Murakami, ở Việt Nam hiện nay, và tin rằng, thời thượng, không so
được với sự
mến mộ trường kỳ, của cả giới nhà văn và độc giả, dành cho Garcia
Marquez.
Gấu sợ rằng
cái vụ mê Murakami nó rắc rối nhiêu khê hơn nhiều, không chỉ do ông là
vua kể
chuyện sex, tuy cách kể khác ông kia, nhưng còn do… mì ống!
Trên tờ Điểm
Sách Nữu Ước, số 1 Tháng Ba 2007, có một bài thật tuyệt về Murakami,
với hai
cái tít, cũng thật tuyệt, một ở trang bìa, Magnetic Murakami, [Cục nam
châm
Murakami], một ở trong, Gods of the Mall, Những vị thần Mall, điểm cuốn
Blind
Willow, Sleeping Woman, [bản tiếng Anh, dịch từ tiếng Nhật, của Philip
Gabriel
và Ray Rubin], cả hai đều quá hợp với ông nhà văn Nhật Bản này, và đều
nói lên,
lý do Murakami được hâm mộ.
Trên Tin
Văn, Gấu, đi theo dấu hài [dấu ấn,cũng được] của Phan Thị Vàng Anh, khi
ca ngợi
mì gói, món ăn “quốc hồn quốc tuý” của người Việt Nam quen chiến trận.
Tuy nhiên, cả
“nàng lẫn chàng”, đều không so được với Murakami, khi ông vinh danh mì
ống:
Bạn có thể
tưởng tượng, người Ý ngỡ ngàng đến thế nào, khi biết, rằng, cái mà họ
xuất cảng
vào năm 1971, thực sự là sự cô đơn?
Và nhân vật
của ông, trong một truyện ngắn, giới thiệu về mình:
“Năm 1971,
tôi nấu mì ống để sống, và sống để nấu mì ống”
[In 1971, I
cooked spaghetti to live, and lived to cook spaghetti].
Bạn có thể
tưởng tượng, người Ý ngỡ ngàng đến thế nào, khi biết, rằng, cái mà họ
xuất cảng
vào năm 1971, thực sự là sự cô đơn?
"In
some ways, a narrative is like a dream," Murakami said in one of his
lectures:
You don't
analyze a dream - you just pass through it. A dream is sometimes
healing and
sometimes it makes you anxious: A narrative is the same - you are just
in it. A
novelist is not an analyst. He just transforms one scene into another.
A
novelist is one who dreams wide awake. He decides to write and he sits
down and
dreams away, then wraps it into a package called fiction which allows
other
people to dream. Fiction warms the hearts and minds of the readers. So
I
believe that there is something deep and enduring in fiction, and I
have
learned to trust the power of the narrative."'
Trong vài đường
hướng, một câu chuyện kể thì cũng giống như một giấc mơ. Bạn không phân
tích
nó, mà chỉ tràn qua nó. Nó, đôi khi làm dịu bạn, đôi khi khác, làm nhăn
nhó. Một
câu chuyện kể thì cũng vậy. Tiểu thuyết gia không phải là phân tích
gia. Anh ta
chỉ chuyển một xen này qua xen khác. Tiểu thuyết gia là người mơ mộng,
nhưng
hoàn toàn tỉnh táo... Giả tưởng làm ấm trái tim, và tâm hồn người
đọc....
Haruki
Murakami
The Art of
Fiction
Haruki
Murakami is not only arguably the most experimental Japanese novelist
to have
been translated into English, he is also the most popular, with sales
in the
millions worldwide. His greatest novels inhabit the liminal zone
between
realism and fable, whodunit and science fiction: Hard-Boiled
Wonderland and the End of the World, for example,
features a protagonist who is literally of two minds, and The
Wind- Up Bird Chronicle, perhaps his best-known work outside of
Japan, begins prosaically-as a man's search for his missing wife-then
quietly
mutates into the strangest hybrid narrative since Laurence Sterne's Tristram Shandy. Murakami's world is an
allegorical one, constructed of familiar symbols-an empty well, an
underground
city-but the meaning of those symbols remains hermetic to the last. His
debt to
popular culture (and American pop culture, in particular)
notwithstanding, it
could be argued that no author's body of work has ever been more
private.
Murakami was
born in 1949 in Kyoto, Japan's ancient capital, to a middle-class
family with a
vested interest in the national culture: his father was a teacher of
Japanese
literature, his grandfather a Buddhist monk. When he was two, his
family moved
to Kobe, and it was this bustling port city, with its steady stream of
foreigners (especially American sailors), that most clearly shaped his
sensibility. Rejecting Japanese literature, art, and music at an early
age,
Murakami came to identify more and more closely with the world outside
Japan, a
world he knew only through jazz records, Hollywood movies, and dime
store
paperbacks.
As a student
in Tokyo in the late sixties, Murakami developed a taste for postmodern
fiction
while looking on, quietly but sympathetically, as the protest movement
reached
its high-water mark. He married at twenty-three and spent the next
several
years of his life running a jazz club in Tokyo, Peter Cat, before the
publication of his first novel made it possible for him to pay his way
by
writing. The novel, Hear the Wind Sing,
translated into English but not available outside Japan at the author's
request, won him the coveted Gunzo Literature Prize and the beginnings
of a
readership. With each book that followed, his acclaim and popularity
grew,
until the publication in 1987 of his first realistic novel, Norwegian
Wood, transformed him into a
literary mega star and the de facto "voice of his generation"-
eighties'
Japan's version of J. D. Salinger. The book has sold more than two
million
copies in Japan alone, the equivalent of one for every household in
Tokyo.
Since then
Murakami has been an unwilling celebrity in his native country, living
abroad
for years at a time to secure a measure of distance from his public
image. He
has lived both in Europe and the U.S.; The Wind-Up Bird Chronicle, for
example,
was written while teaching at Princeton and Tufts. Though he has never
returned
to the straightforward lyricism of Norwegian
Wood, his novels continue to find
an ever wider audience-his new novel Kafka on the Shore has already
sold three
thousand copies in Japan and is due out in English later this year.
Internationally, Murakami is now the most widely read Japanese novelist
of his
generation; he has won virtually every prize Japan has to offer,
including its
greatest, the Yomiuri Literary Prize. He is also an extremely active
translator,
having brought writers as diverse as Raymond Carver, Tim O 'Brien, and
F. Scott
Fitzgerald to Japanese readers, many of them for the first time.
Murakami's
office sits just off the main drag in boutique-choked Aoyama, Tokyo's
equivalent of New York City's SoHo. The building itself is squat and
dated-looking, as though the change in the neighborhood had happened
without
its permission. Murakami rents a moderate-sized suite on the building's
sixth
floor, and his rooms give much the same impression: plain wooden
cabinets,
swivel chairs, Mylar-covered desks-office furniture, in short. The
decor seems
both deeply incongruous with the notion of a writer's studio and at the
same time
somehow fitting: his characters are often in just such an everyday
environment
when the dream world first beckons to them. As it turns out, although
he writes
there on occasion, the office's main function is as the nerve center
for the
business end of Murakami's career. The air hums with polite industry.
No fewer
than two assistants glide capably about in dainty stockinged feet.
Throughout
the following interview, which took place over two consecutive
afternoons, he
showed a readiness to laugh that was pleasantly out of keeping with the
quiet
of the office. He's clearly a busy man and by his own admission a
reluctant
talker, but once serious conversation began I found him focused and
forthcoming. He spoke fluently, but with extended pauses between
statements, taking
great care to give the most accurate answer possible. When the talk
turned to
jazz or to running marathons, two of his great passions, he could
easily have
been mistaken for a man twenty years younger, or even for a
fifteen-year-old
boy.
-John Wray,
2004
The Paris
Review Interview IV
Note: TV đã từng giới
thiệu Murakami, khi Gấu lần đầu tiên đọc 1 bài viết về
ông,
trên tờ Người Nữu Ước, khi bản dịch tiếng Anh Ký Sự Chim
Dây Thiều ra
lò. Nhân cuốn mới nhất của ông, "viết lại" 1984 của Orwell, ra mắt độc
giả, sẽ giới
thiệu thêm, bài phỏng vấn trên Obs, và trên tờ The Paris Review, vì, có
vẻ như
độc giả trong nước rất mê ông, và với tình hình văn học Mít như hiện
nay, khó mà
có nổi 1 ông Mít như Murakami!
Mura
George Orwell,
tác giả được ông nhắc tới, viết một biếm
văn u tối về chủ nghĩa toàn trị. Tác phẩm của ông không u tối, nhưng
liệu có thể
nói, ông viết nó “theo kiểu Orwell”?
G. Orwell viết
“1984” vào năm 1949, năm tôi ra đời, và đây là một trớ trêu lớn, tình
cờ lớn. Với
ông ta, vào thời đó, “1984” trình ra một tương lai chưa biết. Cuốn tiểu
thuyết như
thế thuộc dòng viễn tưởng. Khi đưa ra một thế giới tương lai, Orwell
coi thời của
ông như là một ẩn dụ. Về phần tôi, tôi miêu tả trong “1Q84”, một năm
1984 mà
tôi quan sát nó từ thế kỷ 21 của chúng ta. Như vậy, đây là 1 cuốn sách
nhìn lại.
Trong khi tái tạo dựng thời kỳ đó, thực sự hiện hữu, tới lượt tôi, tôi
chuyển
hóa - hoặc ít ra, tôi cố - hiện tại
thành ẩn dụ.
Tại sao tôi
chọn cuộc chơi như thế?
Trước hết, tiểu thuyết
viễn tưởng, một cõi chơi riêng lẻ
đã tạo thành 1 thế giá, nay trở thành tầm phào rồi. Thứ nữa, đó là 1
thể loại văn
học, do gắn bó, do thế giá như đã nói ở trên, cho nên chỉ đưa ra những
hình ảnh
bi quan. Thử miêu tả 1 tương lai gần, bạn khó mà không ban cho nó cái
áo khoác đen
thui, của 1 thứ ẩn dụ ảm đạm, sầu não, [bạn cứ thử viết về 1 tương lai
gần của
nước Mít coi!] Trong khi đó, nếu muốn “tháo gỡ”, [dépeindre: miêu tả
một cảnh mà
bạn đã từng chứng kiến] một quá khứ gần, thì bạn tha hồ mà ban cho nó
đủ những
cái áo khoác ẩn dụ [nào là do Cái Ác Bắc Kít, ý thức hệ Quốc Cộng, do
cái hình
chữ S….].
Tại sao tôi
phải làm cái điều tái tạo 30 Tháng Tư 1975 - ấy chết xin lỗi – cái năm
1984, từ
cái nhìn của tôi, là 1 con người của thế kỷ 21?
Blind Willow
Sleeping Woman - Haruki Murakami
… Tôi định dịch
the Mirror nhưng thấy đâu đó trên mạng có người đã dịch truyện này và
truyện Đom Đóm.
Blog HH
Người
dịch là
Phạm Vũ Thịnh. Anh có web ở đây
Ðọc Ðom Ðóm ở đây
Trân
trọng giới thiệu.
NQT
New theatre
Dreams within dreams
Mộng
trong mộng
A haunting
vision
of Haruki Murakami’s “The
Wind-Up Bird Chronicle”
Một viễn
ảnh ám ảnh, ma quái của “Ký sự chim dây thiều” của
Haruki Murakami
If Mr
Murakami’s book was hard to follow, Mr Earnhart’s version does little
to
clarify. Better to give yourself up to the theatrical experience of
Okada’s
passage into the unknown. In a land of dreams, it is never the
destination but
the journey that counts most of al
Chuyển 1 tiểu
thuyết thành kịch trình diễn đòi hỏi can đảm, tầm nhìn, và một tinh
thần; tinh
thần này từ chối thần phục nguyên tác của tiểu thuyết gia. Nhưng ít
tiểu thuyết
nào căng như Ký sự chim dây thiều, của
nhà văn Nhật, Haruki Murakami, một khi toan tính chuyển thể, “làm lại”,
vì đây
là một công cuộc thám hiểm siêu thực, cồng kềnh [cuốn tiểu thuyết dày
600
trang] về niềm sợ hãi.
Chuyển thể, [kịch
bản], của Stephen Earnhart [viết chung với Greg Pierce], 7 năm cầy cục,
sẽ mở màn
lần đầu trước khán thính giả tại Hội Edinburgh, ngày 21 Tháng Tám,
2011. Như 1
giấc mộng, nó thần sầu, tuyệt cú mèo, vô phương nắm bắt, và cực nhức
nhối trong
hồi tưởng, theo đủ mọi đường hướng không thể biết trước, hay mong đợi.
Lần
đầu tiên được xb năm vào năm 1997, ấn bản tiếng Anh, và bèn được coi là
1 tuyệt
tác, mặc dù tuyệt tác này đếch chiều theo thị hiếu của độc giả, chỉ
thích được
giải thích, được hiểu. Mr Earnhar, một cựu sản xuất gia của hãng phim
Miramax
Films đã thêm thắt vài nhát cọ điện ảnh cho sản phẩm này, và chúng làm
nhớ
đến thứ
điện ảnh kỳ kỳ của David Lynch, cái thế giới hoang tưởng của cuốn tiểu
thuyết
được làm bật lên qua những phóng chiếu, những con rối, và âm nhạc. Bầu
khí kịch ám ảnh, ma quái, rối mù, được điểm xuyết bằng những chi
tiết quái
quái, như một con chim trắng bất thình lình vỗ cánh từ miếng vải
trải giường,
và bay đi mất.
Trong 1
căn
phòng ngoại ô thành phố, một anh chàng thất nghiệp, raté, thất bại,
Toru Okada,
trong lúc gấp đồ giặt, lẩn thẩn nghĩ tới sự biến mất của chú mèo và sau
đó, bà
vợ, mấy ngày rồi không thấy về nhà. Chuông cửa reo. Những viễn cảnh
nước chẩy lầu
bầu, mù mịt trên sàn diễn báo hiệu sự khởi đầu cuộc hành trình vào miền
khám
phá của Okada. Những người lạ chẳng đâu
vào đâu ghé thăm, mỗi đấng dạy cho Okada một điều gì đó về bản thân của
anh ta.
Một vị dẫn anh tới một cái giếng tối như mực, nơi bày
ra nhiều độc thoại triết học của cuốn tiểu
thuyết. “Ðôi khi cách tốt nhất để nghĩ về thực tại là bỏ chạy thật xa
nó, càng
xa càng tốt,” anh nói.
Chẳng có gì
thẳng một mạch. Như Okada, Mr. Yaegashi
thì vừa sợ hãi vừa cởi mở. Bà vợ, Kumiko (Ai Kiyono), có thể bỏ nhà ra
đi, có
thể bị bắt cóc. Người anh em thú vật của bà, do
James Saito đóng, ca ngợi những sự lãng
mạn của đám hữu
phái Nhật, vẫn hoài vọng những ngày mà chiến tranh, tinh thần hiệp sĩ,
và danh
dự được đề cao hơn hết. Một cựu binh từ Hiroshima viếng thăm Okada kể câu chuyện ghê rợn về một người bị lực
lượng
kẻ thù lột da trong khi người này còn đang sống thời kỳ trước chiến
tranh. “Kể
cho anh nghe những hồi ức của tôi khiến tôi nhẹ thở hơn rất nhiều,” anh
ta nói
khi chào từ biệt
Nếu cuốn
sách của Mr Murakami thật khó theo dõi, thì kịch bản của Mr Earnhart
cũng chẳng
làm cho nó sáng sủa hơn. Tốt nhất là kệ mẹ nó, cứ nhập vào kinh nghiệm
kịch của
chuyến đi của Okada vào miền vô danh. Trong miền đất của những giấc mơ,
không hề
có chuyện bến tới quan trọng, nhưng mà là cuộc hành trình.
Lịch Sử Của
Chiến Tranh
Murakami trả lời
Le Nouvel Observateur
25 & 31
Aout 2011
Trước hết, đây
là câu chuyện của sự thành công khủng: Mẻ đầu tiên vừa ra lò là đã bán
sạch, vào
năm 2009; tiểu thuyết bộ ba chỉ trong vòng 1 tháng là đã vượt ngưỡng 2
triệu ấn
bản, độc giả vồ nó còn nhanh hơn vồ chú bé phù thuỷ Harry
Porter!
Hiệu ứng trùng:
“1984”, tiểu thuyết của Orwell, có thể coi như là ‘tiền thân’của
“1Q84”của Murakami [trong tiếng Nhật, Q đọc như số
9], cũng gặt hái thành công tương tự. Tchekhov, tác giả Nga, được nhắc
tới nhiều
lần trong cuốn tiểu thuyết “1Q84”, và trong “Kafka trên bờ biển”, [cũng
của
Murakami], cũng được ăn theo, dân Nhật đổ xô đọc ông!
Khủng hơn nữa, “Sinfonietta”, nhạc thính
phòng, của Janacek, một
thứ BO [bande
originale] của cuốn sách, [cuốn tiểu thuyết mở ra bằng 1 khúc dạo của
nó], hầu
như ở tất cả những nhà hàng nào ở Nhật cũng vang lên bản nhạc này!
Vẻ
đẹp trai, sự khả ái của cá nhân tiểu thuyết gia chưa đủ để gây nên sự
hâm mộ
khiếp đảm như thế.
Bởi
vì, nếu Orwell, trong “1984”, miêu tả những âu lo của thế giới
giới hiện đại
sẽ tới, thì “1Q84” của Murakami đẩy chúng
ta tới trái tim của những khắc khoải đương thời.
Le Nouvel
Observateur:
George
Orwell, auquel vous faites référence, a écrit une satire sombre du
totalitarisme. Bien que votre œuvre ne soit pas si sombre, la
décririez-vous
comme « orwellienne » ?
Haruki
Murakami:
George
Orwell a écrit “1984” en 1949- l’année où, par le plus grand des
hasards, je
suis né. Pour lui, à l'époque, 1984 représentait
un futur encore inconnu. Ce livre est
devenu par la suite
un roman d'anticipation. En mettant en scène le monde du futur, Orwell
a pu
faire de l'époque contemporaine, de notre époque, une fable. De mon
côté, j'ai
dépeint dans “1Q84” une année 1984 que j'observe depuis notre XXIe
siècle.
C'est donc un roman de rétrospection. En reconstruisant cette époque
qui a
réellement existé je transforme à mon tour - ou du moins, j'essaie - le
présent
en fable.
|