Before The Attack
|
Reflections
by
G_G
The
Outsider: On the Death of
Adlai
Stevenson
after a
Press Conference in London on the Vietnam War
Tiredness
can resemble dishonesty,
and when he
spoke to us,
it was only
a matter of minutes
before the
tired heart stopped.
So we were
amazed by the words he used –
'We shall
always fight against an outsider
imposing his
will, ' he said.
'Who is the
outsider?' we demanded,
but he gave
us no reply.
For
tiredness can resemble dishonesty,
and you must
be very tired when you die.
The outsider
was waiting,
on the
Embassy steps, in Grosvenor Square –
the outsider
who is always finally there,
even though
you begin
with an
advantage in tanks & guns
and a 7th
Day Adventist fleet;
the defences
fall & the outsider steps within
and death
resembles defeat.
July 1965
Graham
Greene: Reflections
'Who is the
outsider?' we demanded,
The ousitder, Kẻ Lạ, Người Dưng…là thằng cha nào vậy?
Yankee Mũi Lõ, hay Mũi Tẹt?
Kẻ bên ngoài:
Về cái chết của
Adlai
Stevenson
theo cuộc họp báo ở Luân
Ðôn về Chiến Tranh Việt Nam
Mệt mỏi có
thể giống bất lương,
và khi anh
ta nói với chúng ta
thì chỉ còn
vài phút
là trái tim
mệt mỏi ngừng đập.
Bởi thế chúng
ta ngỡ ngàng vì những từ anh dùng -
“Chúng ta luôn
chiến đấu chống ngoại bang
khi kẻ này muốn áp đặt ý muốn của nó lên chúng ta”,
anh nói.
“Ngoại bang
là thằng khốn nào vậy” chúng ta hỏi
Nhưng anh không
trả lời
bởi vì mệt mỏi
có thể giống không thành thực
và bạn phải
mệt mỏi lắm khi bạn chết.
Tên ngoại
bang thì đang đợi
ở bực thềm
Tòa Ðại Sứ, ở Công Trường Grosvernor -
kẻ ngoại
bang sau cùng luôn luôn ở đó,
ngay cả bạn
bắt đầu với lợi thế xe tăng & súng đạn
và hạm đội “7th Day Adventist fleet”
công cuộc phòng
thủ thất bại, kẻ ngoại bang bước vô
và cái chết giống như thua trận.
Gặp gỡ ở Ðiện
Cẩm Linh
Thưa Ngài
TBT,
Thú thực, tôi
tới diễn đàn này có tí bi quan. Tôi thuộc về ‘khu’ số 2 – Văn hóa.
Nói, lèm bèm,
bẻm mép… thì thường được coi như là 1 sự tẩu thoát, chạy trốn hành động
– thay vì
là một màn mở đầu đưa tới hành động – và những từ trừu tượng lớn lao
thì thường ùa
đi thật xa, và thật nhanh. Tôi cảm thấy không thể, thực sự là vậy, tóm
tắt một
vài tiểu luận dài, tuyệt, được đọc ở trong “khu” của tôi. Làm như thế
là bất công
đối với tác giả và trí nhớ của tôi, như là 1 người già, thì yếu xìu.
Ðiều mà tôi
nhận ra, thì cũng chỉ là cá nhân, riêng lẻ, là, tôi thường bị tấn công
vài lần,
bởi đám ký giả Tây Phương, mặc dù tôi cố tránh họ: “Tại sao mi ở đây?
Ấy là vì, trên trăm năm
nay vẫn có cái sự hồ nghi - thù địch, phải nói như thế
- giữa “nhà Chúa Ky tô La mã” và chủ nghĩa
CS. Ðây không phải chủ nghĩa Mác xít thứ thiệt, bởi vì Marx đã kết án
vua Henry
VIII, vì đã đóng cửa những tu viện. Nhưng sự hồ nghi thì vẫn còn. Vào
khoảng chừng
15 năm vừa qua, chừng đó, tôi thường trải qua khá nhiều thời gian của
đời mình ở
vùng Mỹ châu La tinh, và ở đó, tôi cảm thấy hạnh phúc, khi nói rằng, sự
hồ nghi
này thì đã chết, và được chôn vùi, trừ một dúm tín hữu Ky Tô, cá nhân
từng người,
và gần như đều già cằn như tôi. Nó không còn hiện hữu. Chúng
ta đang chiến đấu – Ky tô La mã đang
chiến đấu – cùng với những người Cộng sản, và làm việc với những người
Cộng sản.
Chúng ta cùng chiến đấu chống lại những Ðội Hành Quyết ở El Salvador.
Chúng ta
cùng chiến đấu chống lại bọn Contras ở Nicaragua. Chúng
ta cùng chiến đấu chống lại Tướng
Pinochet ở Chile.
Không có sự
phân chia về tư tưởng giữa tín hữu Ky tô – Ky-tô La mã – và những người
CS. Ở nơi
Chính quyền Sandinista, bạn tôi Tomas Borge, Bộ trưởng Nội vụ Mác xít,
làm việc
thật thân mật, bạn bè sát cánh bên nhau, với Ðức Hồng Y, Bộ trưởng Văn
hóa, Ðức
Hồng Y Jesuit, trông coi về sức khỏe, y tế và giáo dục, với Cha
D’Escoto, Bộ trưởng
Ngoại giao. Chẳng còn rào cản giữa Ky tô La mã và chủ nghĩa CS.
Giấc mơ của
tôi, tôi muốn nói ra ở đây, nhưng lại sợ không nằm trong ‘khu’ Văn hóa,
đó là,
sự cùng-hợp tác giữa Ky tô La mã và chủ nghĩa CS sẽ trải dài trải rộng
mãi ra,
tới tận Âu Châu, Tây và Ðông. Và tôi còn dám mơ như thế này nữa cơ,
thưa Ngài Tổng
Bí Thư, đó là, sẽ có một ngày, trước khi tôi chết, một vị Ðại sứ của
Liên Xô, tới
giảng đạo CS cho Vatican.
Bài diễn
thuyết này được đọc tại Moscow ngày 16 Tháng Hai, 1987.
Graham Greene: Reflections
Hoài
niệm Borges
Tôi muốn kể về cái lần tôi gặp
Borges. Tôi được bà bạn Victoria
Ocampo mời dùng bữa trưa có Borges cùng
dự, và được phái đi đón ông, tại Thư Viện Quốc Gia, để đưa ông tới căn
phòng của
bà, bởi vì ông mắt ông mù không còn nhìn thấy đường. Ngay khi cánh
cửa thư
viện đóng lại phía sau, là chúng tôi bắt đầu nói chuyện văn chương.
Borges nói
tới ảnh hưởng của G. K. Chesterton, và của Robert Louis Stevension ở
hậu thời ở
nơi ông. Thơ xuôi của Stevenson ảnh hưởng lớn lên tôi, ông cho biết.
Nhân
tiện, tôi châm vô 1 cú. Robert Louis Stevenson ít nhất là đã từng làm
thơ, và ít
nhất, tôi còn nhớ một bài của ông ta. Một bài thật là bảnh. Viết về tổ
tiên. Ðã từng xây những ngọn hải đăng lớn nơi bờ biển Scotland, và tổ
tiên là một
đề tài ruột của Borges.
Bài thơ bắt đầu:
Ðừng nói với tôi chuyện,
tôi chẳng khoái sinh con đẻ cái,
để nối giái tông đường, và,
thay vì vậy,
thì đánh bài chuồn ra biển
Những cái tháp mà chúng ta xây, và những ngọn đèn mà chúng ta thắp
Ðể chơi ở nhà với tờ giấy như một đứa bé.
Con phố Buenos Aires đông
người, quá ồn. Borges dừng lại ở hè
đường, đọc trọn bài thơ cho tôi nghe, không hỏng một từ. Sau bữa ăn dễ
chịu,
ông ngồi tại sô pha và lèm bèm tới chỉ về văn chương Anglo-Saxon, tung
ra những
tảng lớn, như những khúc cây. Tôi chịu, không thể theo kịp. Nhưng nhìn
vào mắt
ông khi đọc những tảng lớn thơ văn đó, tôi hết sức ngạc nhiên về cái sự
biểu
hiện của chúng. Chúng chẳng có chi là mù lòa. Nhìn, có cảm tưởng, như
thể,
chúng nhìn vào chính chúng, một cách thật là kỳ cục, và chúng thật là
bảnh,
thật thanh lịch, cao nhã.
Borges, tất nhiên cũng có cùng một cảm nghĩ như vậy về tổ tiên, về
những “gauchos” trong quá khứ. Những truyện ngắn hậu thời của ông, thì
đầy những
câu chuyện về những “gauchos”, một trong đó, ông viết, “Thì cũng như
những con
người của một vài xứ sở thờ phụng và cảm thấy tiếng gọi của biển, người
Á Căn Ðình
chúng tôi hú vọng về những cánh đồng bạt ngàn sôi reo dưới móng ngựa."
Ông là một người đàn ông can đảm cùng mình. Thời kỳ đệ nhị Peron, một
lần, khi ông
sống cùng dưới mái nhà với bà mẹ già, thì có 1 cú phôn bí ẩn. Một
giọng đàn ông,
“Chúng ông tới làm thịt mi, và bà mẹ của mi ngay bi giờ.” Bà cụ Borges
trả lời,
“ta chín chục bó, tới lẹ lên không không kịp, còn thằng con ta, nó thì
mù, chuyện
dễ ợt”. Giai thoại này theo tôi đưa ra 1 bức tranh toàn cảnh về gia
đình ông.
Lần
nào cũng như lần ấy, và thật nhiều lần, mỗi lần giở 1 cuốn sách của
ông, tôi đều
tìm thấy những câu, mà một thằng nhà văn như tôi, cũng từng có kinh
nghiệm viết
lách, thì thấy, cũng chẳng khác gì kinh nghiệm của tôi! Ông gọi, viết là một “giấc mơ
được dẫn dắt”, và
trong một dịp, ông viết:
“Ta đếch viết cho một thiểu số
được chọn lọc, chúng là cái chó gì
mà viết cho chúng, ta cũng đếch viết cho một thực thể lý tưởng ưa nịnh
hót, được
biết dưới cái tên “Quần Chúng”. Cả hai lũ khốn, trừu tượng, đó, ta đều
không
tin, tuy chúng thật là đáng quí đối với những tên mị dân. Ta viết cho
chính ta,
và cho bạn bè của ta, và ta viết để làm dịu thời gian trôi qua."
Phán như thế, thành ra, bất cứ
1 nhà văn, thứ thiệt, thì đều cảm
thấy ông thật gần gụi với họ.
In Memory of
Borges
I would like
to recount the occasion on which I met Borges. I was invited with him
to lunch
by my friend Victoria Ocampo, and I was dispatched to the National
Library to
lead him to her flat because of his blindness. Almost as soon as the
door had
shut behind us at the National Library, we began to talk about
literature.
Borges talked about the influence G. K. Chesterton had had on him and
the
influence Robert Louis Stevenson had had on his later stories. He spoke
of the
prose of Stevenson as a great influence. I then interjected a remark.
Robert
Louis Stevenson did write at least one good poem. A poem about his
ancestors.
His ancestors had built the great lighthouses on the coast of Scotland,
and I
knew that ancestors were an interest of Borges'. The poem began,
Say not of
me that weakly I declined
The labors
of my sires, and fled the sea,
The towers
we founded and the lamps we lit,
To play at
home with paper like a child.
It was a
very noisy, crowded Buenos Aires street. Borges stopped on the edge of
the
pavement and recited the whole poem to me, word perfect. After an
agreeable
lunch, he sat on a sofa and quoted large chunks of Anglo-Saxon. That,
I'm
afraid, I was not able to follow. But I looked at his eyes as he
recited and I
was amazed at the expression in those blind eyes. They did not look
blind at
all. They looked as if they' were looking into themselves in some
curious way,
and they had great nobility.
Borges too,
of course, had this feeling for ancestors, for the gauchos of the past.
His later
tales are full of stories of the gauchos, and in one of them he wrote,
'Just as
men of certain countries worship and feel the call of the sea, we
Argentines in
turn yearn for the boundless plains that ring under a horse's hooves.'
He was a man
of great courage. At one time, during the second period of Peron, when
he was
living with his old mother, there was a mysterious phone call. A male
voice
said, 'We're coming to kill you and your mother.' Borges' mother
replied, 'I'm
ninety years old, so you'd better come quickly. And as for my son, it
will be
easy for you, since he is blind.' This, I think, gives a picture of
what the
family was like.
To me,
Borges speaks for all writers. Over and over again in his books, I find
phrases
which are my experience as a writer. He calls writing 'a guided dream',
and on
one occasion he wrote,
'I do not
write for a select minority, which means nothing to me, nor for that
adulated
platonic entity known as "The Masses". Both abstractions, so dear to
the demagogue, I disbelieve in. I write for myself and for my friends,
and I
write to ease the passing of time.'
That, I
think, will make every writer feel close to him.
Extract from
a talk at the Anglo-Argentine Society, London, 1984. Extracted from In Memory of Borges, edited by Norman
Thomas di Giovanni
Hùm
Xám Bến Tre
Greene &
Leroy & nhân vật Q.A.
Q.A, theo
Norman Sherry, tên thực là Leo Hochstetter, ở Bến Tre.
Ðứa con trai
của đồng lúa
Một hồi ức
khác về 4 mùa đông tôi trải qua ở Việt Nam, là về Ðại tá Leroy, người,
trong cuốn
tự thuật, đã viết một cuốn sách cảm nhận nhất, có lẽ, về cuộc chiến
của người Pháp tại Ðông Dương. Nửa Việt, nửa Pháp, một người lính nông
dân, đứa
con của nông dân, ông trở thành vị đại tá, colonel, trẻ nhất trong quân
đội Pháp
vào lúc 30 tuổi, một người thuộc hai thế giới.
Tôi gặp Ðại
tá Leroy lần thứ nhất, là năm 1951, khi ông là một ông vua không vương
miện “Vua
Bến Tre” - một vùng đất có sông, đầm lầy, và rừng rú ở vùng đồng bằng
sông
Mekong, một vùng đất mà ông ta quá rành, từ khi còn là 1 đứa con nít.
Ông đã trở
về nhà, sau khi bị Nhật cầm tù, tra tấn, cùng với những người của riêng
ông, để
chiến đấu giữa bạn bè chống lại những bạn bè cũ - một đứa con trai, với
anh ta, ông
đã từng chơi đá banh, bây giờ là một vị tướng Việt Minh. Trong lần đầu
thăm viếng
Bến Tre, chúng tôi làm một chuyến tham quan vương quốc của ông, trên 1
chiến
thuyền, trang bị súng máy chĩa vào hai bên bờ sông: một năm sau đó,
chúng tôi làm
cùng một tua như thế, nhưng lần này, thay vì súng máy, thì là nhạc sĩ,
ca sĩ,
đàn sĩ,
và vũ nữ; cái ngôi chùa mà chúng tôi dùng bữa tối, ở trên một cái hồ,
được xây
cất mô phỏng theo một cái chùa ở Hà Nội; ông ta làm 1 cái sở thú cho
trẻ
con
trong vương quốc của ông, và trên bàn của ông thì là những tác phẩm của
Montesquieu
và Tocqueville.
Leroy bình định xứ sở của ông như Tướng de Lattre
bình định
Miền Bắc Việt Nam, nhưng.. thất bại. Ở Bến Tre, bạn cảm thấy an toàn,
một điều
chẳng thể có ở đằng sau những tuyến đường được gọi là Hà Nội.
Nhưng sự
thành công của Leroy khiến ông trở thành kẻ thù tồi tệ hơn cả Việt
Minh. Ông
thành lập một lữ đoàn Ky Tô, chiến đấu hiệu quả hơn đạo quân Lê Dương,
Rạch Mặt
[Senegalese], Ma Rốc, tạo thành quân đội Pháp. Ái quốc Ky Tô đối mặt Ái
quốc Cộng
Sản. Leroy trở thành một thứ Việt Nam mà nhà cầm quyền Pháp nhìn với
sự nghi kỵ,
và chính quyền quốc gia Việt Nam, với sự sợ hãi.
Khi tôi trở
lại Việt Nam cho mùa đông thứ ba của mình, thì Ðại tá Leroy không còn ở
Bến
Tre, và Bến Tre cũng không còn là vùng đất an toàn ở đồng bằng Mekong.
Ðại tá,
như tôi biết, đã được đưa đi Paris, học Trường Chiến Tranh, thứ chiến
tranh qui
ước đưa đến thảm họa Ðiện Biên Phủ - một vinh dự mà chẳng cần nói thì
cũng biết,
ông chẳng thèm. Ông có tội vì những lầm lẫn nặng nề trong thẩm định:
không khu
trục được Việt Minh ra khỏi Bến Tre, không thanh toán được nạn tham
nhũng trong
tỉnh, ông đã ban hành cải tổ ruộng đất, và tệ hại nhất, ông đã cho bầu
cử tự
do, cái này thì nhà cầm quyền Việt Nam không ưa. Với họ, một thằng nhà
quê
thì là 1 thằng nhà quê không có quyền hạn, kẻ nào trở nên giầu có thì
phải hợp
tác, làm cớm, làm chó săn cho nhà nước bảo hộ, mẫu quốc Phá Lãng Sa, và
phải chấp
nhận thứ độc lập giả hiệu. Thủ tướng Trần văn Hữu hành động đúng theo
quy cách
thường kệ, và tuyên bố những cuộc bầu cử ở Bến Tre nhà nước Việt Nam
không biết
tới, bởi là vì do ông chủ tỉnh tổ chức theo ý riêng của ông ta. Như
Leroy nhận
xét: “Nếu chúng ta cho bầu cử tự do để thành lập hội đồng tỉnh, thì tại
sao không
làm như vậy trên phạm vi cả nước?” Ông đã trình ra độc lập thứ thiệt,
và thứ
độc lập hiện đang có là đồ dởm, mặc dù mỗi năm lại được rêu rao, với 1
tí thay đổi,
nhượng bộ của nhà nước Pháp. Vào dịp này, Tướng de Lattre từ Mẽo, ra
lệnh ba tiểu
đoàn Senegalese và Bắc Phi được chuyển tới Bến Tre để dẹp loạn. Sau
cùng, vụ việc
được dàn xếp ổn thoả bằng cách tống Ðại tá Leroy đi Tây du học tại
Trường Chiến
Tranh, như trên đã nói.
Tôi [Greene]
cứ tự hỏi, chuyện gì xẩy ra, nếu Ðại tá Leroy được biệt phái ra xứ Bắc
Kít, cầm
đầu quân đội Việt Nam, chơi một trận ngoạn mục với VC Bắc Kít? Ông
chứng tỏ điều
ông đã từng làm với dân Ky Tô Miền Nam. Liệu ông thành công với Ky Tô
Bắc Kít,
nói gì thì nói, không hiền như Ky Tô Nam Kít? Những binh đoàn Ky Tô Bắc
Kít thì đã có
sẵn, dưới quyền hai ông giám mục ở Bùi Chu và Phát Diệm, chỉ cần một
tướng tài
như Le Roy! Tập luyện tới chỉ [sa trường đổ mồ hôi], và thêm nhiều võ
khí. Hào
hứng, thì đám Ky Tô ở Bùi Chu có thừa, như tôi đã từng chứng kiến và
còn nhớ kỷ
niệm về 1 làng vũ trang tại đây, nhà thờ biến thành pháo đài cố thủ
cuối cùng.
Không được sự giúp đỡ từ bên ngoài, ngoại trừ lời chúc phúc của ngài
Giám Mục. Ðiều
mà họ cần, là 1 thủ lãnh cùng máu huyết với họ. Leroy cho thấy, ông
bảnh chẳng
thua gì Tướng Giáp, cũng một thứ thủ lãnh cách mạng, và lại có riêng
của ông một
thứ ý thức hệ có thể Tây Mũi Lõ chấp nhận. Cũng vẫn cùng
1 ý thức hệ, nhưng anh Tây mũi lõ chỉ nói bằng cái miệng, trong khi
Leroy thực
lòng tin với trái tim của ông.
Tôi năm đó
31 tuổi, tôi cảm thấy mình được đẩy tới thế đứng mũi chịu sào bằng
những uy lực; tôi
thực tin thấy mình nhập làm một với tất cả mọi người, và khi chấp nhận
tôi là chấp
nhận hơn cả 1 con người riêng lẻ, mà là chấp nhận một liên hiệp thực
với nước
Pháp được xây dựng bằng bình đẳng và cảm thông.
Dân tộc độc
nhất trên thế giới hoàn toàn muốn chia sẻ, hợp tác, và cùng thông cảm
với số phận
của dân Á châu, là người Pháp, đôi khi họ cũng có đầu óc thiển cận,
nhưng không
hề có sự kỳ thị màu da. Ðằng sau những sở đoản của Tây Mũi Lõ, bạn luôn
cảm thấy sự cần thiết đến tuyệt vọng, tình yêu, và không hề có thứ
người nào trên
thế giới bị ảnh hưởng bởi tình yêu, bị tình yêu xỏ mũi dẫn dắt, như là
đám dân
quê Mít anh em của tôi.
Leroy nói thêm,
với 1 tí hóm hỉnh: “Tôi không hề là 1 nhà chính trị. Tôi tính toán chưa
tới chỉ,
và khi tôi đổ quá nhiều rượu vô họng, tôi thường nói điều tôi nghĩ.
Ngay cả trước
những người rất quan trọng”
Một trong những
nét tuyệt với của cuốn tự thuật của ông, đây là 1 cuộc phiêu lưu
lớn, hầu như
một huyền thoại của một đứa bé, một đứa bé nhà quê trở thành 1 ông vua
và bị phản
bội bởi những bạn bè của nó. Câu chuyện phiêu lưu lớn này được viết với
sự thành
thật, thẳng thắn của một bợm rượu.
Lời tựa cho
cuốn Cuộc đời của Ðại tá Jean Leroy
[1977]
Graham
Greene: Reflections
Greene,
trong lần thăm viếng Bến Tre thứ nhì, trên chiếc du thuyền của Leroy,
trên đường
trở lại Sài Gòn, đã ngủ chung phòng với 1 tay tùy viên kinh tế Mẽo,
thực sự là
Xịa, và qua người này, chắc cũng say mèm, ông biết được tham vọng của
Mẽo, tìm
cho được 1 đấng Mít, hoàn toàn Mít, không theo VC, mà cũng không theo
Tây Mũi
Lõ, để thành lập Lực Lượng Thứ Ba, chống với VC.
Ðề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng, là từ đó mà ra.
Cái
người mà Mẽo kiếm ra, là TMT.
Greene không
ưa TMT, người mà theo ông, dởm. Tuy nhiên, có thể ông đã dành cho TMT
những lời
nồng hậu nhất, khi ông ta chết rồi, bằng cách gián tiếp tố cáo Diệm đã
làm thịt
TMT, qua
lá thư mở ra Người Mỹ Trầm Lặng
René và Phượng
thân mến,
Tôi xin phép
được tặng cuốn sách này cho các bạn, không chỉ để tưởng nhớ những buổi
chiều hạnh
phúc mà chúng ta đã cùng trải qua tại Sài Gòn, trong hơn năm năm qua,
nhưng còn
bởi vì tôi cảm thật hổ thẹn đã mượn căn hộ của các bạn, làm chỗ trú ngụ
cho một
nhân vật của tôi, và tên của bạn, Phượng, để độc giả dễ dàng theo dõi,
bởi vì
đây là một cái tên giản dị, đẹp, và dễ phát âm, so với những tên đàn bà
khác, của
đồng bào bạn. Cả hai bạn sẽ nhận ra một điều, tôi còn vay mượn thêm
chút đỉnh,
nhưng chắc chắn không phải từ phía Việt Nam. Pyle, Granger, Fowler,
Vigot, Joe
– những người này chẳng có chút dây mơ rễ má với cuộc đời của Sài Gòn
hay Hà Nội,
và Tướng Thế thì đã chết: bị bắn từ phía sau lưng, như người ta nói.
Ngay cả những
biến động thực sự xẩy ra, cũng đã được dàn dựng lại, ít ra là trong một
trường
hợp. Thí dụ như vụ nổ lớn gần khách sạn Continental, đã xẩy ra trước
những vụ nổ
do bom cài trên những chiếc xe đạp. Tôi chẳng cần phải đắn đo, về những
thay đổi
nho nhỏ như vậy. Đây là một câu chuyện tiểu thuyết, chứ không phải là
một mẩu lịch
sử, và tôi hy vọng câu chuyện về vài nhân vật giả tưởng sẽ mua vui cho
đôi bạn
được một vài trống canh, trong một đêm nóng nực của Sài Gòn.
Time / 14 May
1973
Topplers and
the Toppled
- You write
that 'Ngo Dinh Diem and his ambitious brother Ngo Dinh Nhu ... were
toppled in
a 1963 coup that had active US encouragement' [2 April]. Well, perhaps
'toppled' is not so bad a word to choose for 'murdered', though it
would be
more accurately applied to the fate of Louis XVI and Charles I, who
certainly
lost their 'tops'. (You do not mention a third brother, the Governor of
Hue,
who took refuge in the US Consulate and was handed over by the American
authorities to his 'topplers'. The fourth brother, an archbishop, was,
luckily
for himself, in Rome, though President Kennedy might have had scruples
in
toppling a member of the ecclesiastical hierarchy. Did it ever occur to
him
that he who lives by toppling will die by toppling?)
Now there is
another word, insurgent, which you use to describe the opponents of Lon
Nol in
Cambodia, who was himself surely an 'insurgent', with American aid,
against the
neutral Prince Sihanouk. Perhaps it is time that Lon Nol was 'toppled'.
Graham Greene: Yours etc.
[Letters to the Press]
Thư này cũng
thú. Greene chửi tờ Time, về cách dùng
từ, [nhạy cảm hay không nhạy cảm], những kẻ “lật đổ” hay là “sát nhân”,
trong vụ
Mẽo làm thịt mấy anh em ông Diệm.
Những kẻ lật
đổ và bị lật đổ
Mi viết, xừ
Diệm và ông em tham vọng, Nhu… bị lật đổ trong cú 1963, và cú này được
sự khuyến
khích tích cực của Mẽo [báo Time ngày
2 Tháng Tư]. OK. Có lẽ “bị lật đổ” là 1 từ không đến nỗi tệ, để thay
thế từ “bị làm
thịt”, nhưng có lẽ cái từ “tóp, tóp” như thế đó, đúng ra, nên áp dụng
cho những
trường hợp của vua Louis 16, và Charles Ðệ Nhất, vì hai xừ này bị chúng
chặt mẹ
mất chỗ đội nón, [their tops]!
Mi quên
không nhắc tới viên Tổng Trấn Huế, đã chạy vô được Tòa lãnh Sự Mẽo xin
ẩn trú,
nhưng bị Mẽo giao cho “những kẻ lật đổ”.
Ông anh Thứ Tư, một vị giám mục, may cho ông ta, ở La Mã; Tông Tông
Mẽo, Kennedy hẳn cũng phải có tí ngần ngại, khi toan tính lật đổ một
chức sắc
nhà thờ.
Nhưng xừ luỷ có bao giờ nghĩ đến câu, kẻ nào dùng gươm thì sẽ chết vì
gươm, mi tính chặt đầu người khác, thì cũng có kẻ khác tính chặt đầu mi!
Rushdie,
trong Quê Hương Tưởng Tượng, khi viết
về Greene, đã chọn cuốn sách viết về con nít, mà GNV thực sự nghĩ,
ngoài Gấu
ra, chắc ít người để ý đến: Đại Uý và Kẻ Thù, The Captain
and the
Enemy. GNV đọc nó, [mượn thư viện Consortium dành cho ngưòi
Hmong], những ngày ở trại tị nạn Thái Lan, khi đã qua thanh lọc, được
Canada nhận, chờ ngày lên máy bay... (1)
Đề tài cuốn này, một cách
nào đó, là số phận cuộc chiến Mít,
theo nghĩa,
chính cái đứa "cứu vớt" mi, là đứa ‘sau cùng hóa ra là’ kẻ "làm thịt"
mi, và,
có những con người sinh ra để "bị làm thịt", nhiều khi, những con
người này, là cả một dân tộc, cả 1 miền đất!
Gấu tin chắc rằng, cái
"niềm tin sắt
đá" này, là ở trong tim trong hồn trong não của những tên Bắc Kít, thí
dụ như nhà văn... Tô
Hoài. Gấu
chẳng đã từng thú nhận, cái giấc mơ tới được Miền Nam là của ông,
truyền cho Gấu,
ngay từ khi còn bé tí, đọc ông, và suýt soa, tại làm sao lại có 1 miền
đất hạnh
phúc đến như thế?
Làm sao bỏ qua ?
Làm sao mà không… ăn cướp?
Cuốn thứ nhì
Rushdie chọn, là cuốn Thư viết cho Báo Chí
của Greene.
(1)
19.10.1993.
Thái Lan. Ðọc “Viên Ðại Uý và Kẻ Thù” của Greene:
Bây giờ, tôi rời bỏ Liza,
và rời
bỏ cái nơi mà tôi đã được học để mà gọi nó là "Nhà".
Câu trên,
trong trí tưởng của Gấu, như còn nhớ được, nó như vầy:
Bây giờ tôi đã
rời Sài Gòn,
rời bỏ cái nơi mà tôi quen gọi là Nhà…
Tôi cảm thấy
chúng trưởng thành mà không có tôi [Mấy đứa nhỏ ở Vientiane, Lào].
20.10.1993:
Tôi luôn luôn viết nháp, một lá thư tình.
Trong Tuyết
Sơn Phi Hồ, ông via của thằng bé Hồ Phỉ, khi khám phá ra người
yêu, thì cùng
lúc khám phá ra kho tàng nằm trong núi Tuyết Sơn.
Người yêu là bà con với cái tay chọn núi Tuyết Sơn làm nhà, hy vọng có
ngày khám phá kho tàng.
Và nàng nói,
giữa kho tàng và tui, anh chỉ được chọn 1; và ông via của Hồ Phi,
tức
Thần Ðao Hồ Ðại Ðởm, bật cười, cái kho tàng đó là cái chó
gì so với
em!
Khi lấy Gấu Cái, Gấu
Ðực cũng phách lối như thế đấy!
Hà, hà!
Kho tàng
Tuyết Sơn, là cái nền của những cuốn Tuyết
Sơn Phi Hồ, Lãnh Nguyệt Bảo Ðao.
Tuyết Sơn
Phi Hồ,
khi mới
ra lò, chấn động trong chốn giang hồ, được giới võ lâm coi là một,
trong Tân
Lục Tài Tử của xứ Tầu Lạ. [Xin lỗi, Gấu lộn với Bích Huyết Kiếm]
Về cấu trúc, Tuyết Sơn
Phi Hồ xoay quanh cái chết của Thần Ðao,
mà mỗi
người chỉ nắm được 1 tí ti sự thực, đâu khác cái chết của anh chồng võ
sĩ đạo
trong La Sanh Môn. Tuy nhiên TSPH bảnh hơn LSM, theo Gấu,
vì cái kết
bỏ lửng của nó:
Liệu lưỡi gươm
của "Ðả biến thiên hạ vô địch thủ, Kim Diện Phật, Miêu Nhân Phượng” sẽ
chém xuống, hay là ngọn đao của Hồ Phi sẽ theo cái bóng của Miêu
Nhân
Phượng trên vách đá, để mà nhìn ra gót chân Achille trên lưng Miêu, và
“đi một đường”, kết thúc ân oán triền miên giữa 4 anh em kết nghĩa, và
dòng dõi, hậu duệ của họ?
Gấu cũng
coi đây là cuốn đắc ý nhất của Kim Dung, về mặt hào hùng, mã thượng,
tình yêu
cao đẹp...
Ngược lại với nó, là Tố Tâm Kiếm,
quá bi thương, tàn nhẫn.
Có thể vì vậy, ít ai mê Tố Tâm
Kiếm, vì nó độc quá, thê lương quá.
Boundlessly
loyal to the great monster
Trung thành
vô bờ bến với đại quái vật
Sinh
Nhạt
Bác
Before
the
Attack
Trước khi xẩy
ra cú tấn công
[Điện Biên Phủ]
Tôi luôn cảm
thấy mình có tí ti tội lỗi, khi làm một nhà du lịch dân sự, ở những
vùng thần
chết ngự trị: nói cho cùng, một cái gã còn được gọi là một người, không
nên đi
tham quan một thảm họa, ngoại trừ là nhân viên cứu trợ - một con người
cảm thấy
mình là 1 nhà “thấu thị”, a “voyeur”, trước bạo lực, như tôi cảm thấy,
trong một cú tấn công [của VC] ở Phát Diệm, hai năm trước đây. Ở đó,
bạo lực đã
có mặt rồi: một ngôi chợ cháy, những căn nhà bị tàn phá, con phố dài
vắng hoe không
người qua lại, hay bén mảng, vì sợ bị bắn xẻ. Nó cũng hiện diện trên
con
kênh đầy
xác người đến nỗi nước không thể chảy được, với một cái thuyền
lính nhẩy dù
ở mép kênh. Nó cũng tới thăm tận nhà, qua những chuyến hành quân kiểm
tra, khi một
bà mẹ và đứa con trai còn nhỏ của bà, mất mạng, khi bị kẹt giữa hai
luồng đạn đối
nghịch,
Họ để
lại cơn hốt hoảng nào, cho đám dân làng sống giữa hai lằn đạn như thế?
Tôi đã từng
cảm thấy cơn hốt hoảng này, lần bị lọt vào giữa, một bên Việt Minh, và
một bên là
lực lượng Lê Dương. Tôi tự bảo mình,
tôi thù ghét chiến tranh, tuy nhiên, tôi lại mò tới đây – làm một kẻ
'thấu thị'
với những mánh mung của mình .
Graham
Greene
Tẩu
vi thượng sách
Ui
chao, đọc lại cái đoạn nhật ký của Greene, về những ngày đầu làm quen
Cô Ba, mới
thấy sướng làm sao! Gấu post lại ở đây, để gợi hứng, viết ra những kỷ
niệm của
Gấu, về những ngày đầu, về những bạn bè cùng vướng vào cái thú đau
thương này.
Cũng là một cách tự thú trước “tòa án lịch sử”, về “nghi án”, “có mấy
NQT”.
Tiếp theo liền những trang nhật ký viết về Cô Ba, Greene bắt qua trận
đánh Điện
Biên Phủ, với những nhận định thật hách về trận đánh này:
There
remains another memory which I find it difficult to dispel, the
doom-laden twenty-fours I spent in Dien
Bien Phu in January 1954. Nine years later when
I was
asked by the Sunday Times to write on ‘a decisive battle of my
choice',
it was Dien Bien Phu
that came straightway to my mind.
Fifteen Decisive Battles of the World - Sir Edward
Creasy gave that
classic title to his book in 1851, but it is doubtful whether any
battle listed
there was more decisive than Dien
Bien Phu in 1954. Even Sedan, which came too
late for
Creasy, was only an episode in Franco-German relations, decisive for
the moment
in a provincial dispute, but the decision was to be reversed in 1918,
and that
decision again in 1940.
Dien Bien Phu,
however, was a defeat for more than the French army. The battle marked
virtually the end of any hope the Western Powers might have entertained
that
they could dominate the East. The French with Cartesian clarity
accepted the
verdict. So, too, to a lesser extent, did the British: the independence
of
Malaya, whether the Malays like to think it or not, was won for them
when the
Communist forces of General Giap, an ex-geography professor of Hanoi
University, defeated the forces of General Navarre, ex-cavalry officer,
ex-Deuxieme Bureau chief, at Dien Bien Phu. (That young Americans were
still to
die in Vietnam
only shows that it takes time for the echoes even of a total defeat to
encircle
the globe.)
Còn 1 hồi nhớ
khác nữa mà tôi cảm thấy thật khó mà vờ đi được, là 24 tiếng đồng hồ
sặc mùi tận
thế là đây, mà tôi trải qua ở Điện Biên Phủ, vào tháng Giêng 1954. Chín
năm
sau, tôi được tờ Sunday Times đi
1 đường hỏi thăm, và đề nghị viết, về
1 “trận
đánh quyết định”, tùy tôi chọn, tôi bèn nghĩ ngay tới DBP.
Mười lăm
trận quyết
định trên thế giới, là cái tít thật là cổ điển mà Edward Creasy
đã ban
cho cuốn
sách của Sir, vào năm 1851. Nhưng thật đáng ngờ, là trong 15 trận đó,
có một, bảnh,
“quyết định”, như là “Điên Biên Phủ”, vào năm 1954.
Điện Biên Phủ
không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà hơn thế nhiều! Nó
đánh dấu
chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín
năm sau
trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh
thần sầu
này.
Võ tướng
quân đọc mà chẳng sướng mê tơi sao?
The Meeting
in the Kremlin
Mr General
Secretary I admit I came to this forum with a certain degree of
skepticism. I
belong to section number two - Culture.
Talk is so
often an escape from action - instead of a prelude to action - and big
abstract
words have to flow too far and too fast. I feel incapable, really, of
summarizing some of the excellent and long essays which were read in my
section. It would do injustice to the authors, and my memory as an old
man is
getting weak.
What I have
found, if I may be personal, is that I have been attacked several times
by
Western correspondents, whom I try to avoid, and they all say, 'Why are
you
here?' This is because for over a hundred years there has been a
certain
suspicion, an enmity even, between the Roman Catholic Church and
Communism.
This is not true Marxism, for Marx condemned Henry VIII for closing the
monasteries. But this is a suspicion which has remained. For the last
fifteen
years or so, I have been spending a great deal of time in Latin
America, and
there, I am happy to say, that suspicion is dead and buried, except for
a few
individual Catholics, nearly as old as I am. It no longer exists. We
are fighting
- Roman Catholics are fighting together with the Communists, and
working
together with the Communists. We are fighting together against the
Death Squads
in El Salvador. We are fighting together against the Contras in
Nicaragua. We
are fighting together against General Pinochet in Chile.
There is no
division in our thoughts between Catholics - Roman Catholics - and
Communists.
In the Sandinista Government my friend Tomas Borge, the Marxist
Minister of the
Interior, works in close friendship with Father Cardinal, the Minister
of
Culture, the Jesuit Father Cardinal, who is in charge of health and
education,
with Father D'Escoto, who is Minister for Foreign Affairs. There is no
longer a
barrier between Roman Catholics and Communism.
The dream I
have, which, I am afraid, I should have spoken to the Commission here
about,
but somehow it did not seem to come under the heading of 'Culture', the
dream I
have is that this co-operation between Roman Catholics and Communists
will
spread and prolong itself in Europe, West and East. And I even have a
dream, Mr
General Secretary, that perhaps one day before I die, I shall know that
there
is an Ambassador of the Soviet Union giving good advice at the Vatican.
Address
given in Moscow 16 February 1987
Note: Bài diễn
văn này thật là thú.
Greene quên
1 điều, là Toà Thánh La Mã còn liên kết với Nazi, để xây dựng Địa Ngục:
Lò Thiêu
Do Thái!
Dòng nhạc đỏ
vẫn thao thiết cháy
Dòng nhạc đó
đẻ ra quái vật sau đây:
Làm việc với
Công An 18/05
Trong đám báo
chí, ký giả ký giếc, Mẽo, viết về cuộc chiến Việt Nam, thú thực, chẳng
có bài nào, cuốn nào, tên nào cho ra hồn, với riêng Gấu.
Ngoài Greene ra.
Nhưng ông không
phải là Mẽo. Tất nhiên!
Hơn cả đám Tây.
Với đám Tây,
chúng có nỗi “đau vàng”, le "mal jaune", và nỗi nhục bỏ chạy, nhường
mảnh
đất lại
cho Mẽo, thầm mong, chúng mày rồi cũng thua thôi!
Greene rất
mê Miền Nam, và rất trân trọng với cuộc chiến của dân Mít giành độc lập
thống
nhất. Nhưng, như 1 nhà văn lúc nào cũng ở biên cương của thiện và ác,
ông đã từng
cảnh cáo, một khi cờ “phỏng giái”, nón tai bèo rụng xuống, là phải lập
tức chạy
về phía những kẻ bị thua thiệt, bị làm nhục, là lũ Ngụy.
Có đâu khốn
kiếp như đám này. [Bắc] Kít hay không Kít, [Nằm] Vùng hay không Vùng.
Tụi khốn này chắc là chưa
từng cảm thấy
tí ti tội lỗi, [a sense of guilt, chữ của Greene, dưới đây], khi, với
chiến thắng 30 Tháng
Tư, đẩy nước Mít vô tình trạng như hiện nay, có thể nói, vô phương cứu
chữa, với nạn Tầu Lạ, lạm phát, và tận cùng của tội ác.
Thao thức
cháy, sao không thổi cháy Tầu Lạ đi?
Tình cờ lục
được cuốn Reflections, trong
có mấy bài viết về Việt Nam, về Điện Biên Phủ.
TV
post và hy vọng dịch dọt sau.
Reflections
là những bài viết ngắn, về đủ thứ, những chuyến đi, những bài điểm
sách, điểm
phim, giới thiệu sách. Trong có hai bài thật thú. Một, về những tiệm
bán sách
cũ, và một, tưởng niệm Borges, cũng là kỷ niệm lần Greene gặp Borges.
TV sẽ
chuyển ngữ cả hai.
Bài về những
tiệm sách cũ làm Gấu nhớ tới những tiệm sách cũ ở khu Chợ Đũi, cũng một
thiên
đường tuổi mới lớn của Gấu cùng với Sài Gòn. Thời gian quen HPA. Gấu đã
kể về
chúng trong một bài viết cũ. Đọc bài viết của Greene còn làm Gấu nhớ
tới cái tiệm
sách cũ nằm giữa một con hẻm giữa hai bức tường, của hai căn nhà trên
con phố
Catinat, cũng gần Quán Chùa. Gấu thường ghé đó, cùng với ông Hưng, AP
man. Cũng
một trong những đền thiêng của VNCH, và cũng bị VC ủi sập, cùng với
Givral,
Passage Eden, Quán Chùa.
Tôi không biết
Freud giải thích thế nào về chúng, nhưng trong hơn ba chục năm, những
giấc mơ hạnh
phúc nhất của tôi, là về những tiệm bán sách cũ: những tiệm trước đó
tôi chẳng
hề biết, hoàn toàn vô danh đối với tôi, hay những tiệm quen thuộc, cũ
xưa mà
tôi đang ghé.
Đó là những
tiệm sách quen chẳng hề hiện hữu; tôi thật ngại ngần và đành phải đi
đến kết luận
như vậy.
Đâu đó,
không xa Gare du Nord ở Paris tôi vẫn còn nguyên những kỷ niệm tươi rói
về một
tiệm sách ở cuối một con phố dài chạy mãi lên một đỉnh đồi, một tiệm
sách sâu
hun hút, với những quầy, giá sách cao thật cao, và cao như tôi mà cũng
phải
dùng tới một cái thang, để lục lọi những giá sách gần đụng trần nhà.
Trong ít
ra là hai lần, tôi đã lục lọi như vậy, và tôi tin rằng, đã vớ được bản
dịch một
cuốn của Apollinaire, nhà xb Fanny Hill, trong một lần đó.
Nhưng khi
chiến tranh chấm dứt tôi cố tìm tiệm sách cũ trên, vô ích, vô phương.
Lẽ dĩ nhiên,
tiệm có thể biến mất, nhưng con phố, chính nó, cũng đếch còn. Thế mới
quái!
Rồi còn một
tiệm sách cũ của London, nó cứ trăn trở, đi đi lại lại hoài, trong
những giấc mộng
của tôi; tôi có thể nhớ ra thật là rõ ràng mặt tiền của nó, nhưng chịu
thua,
phía bên trong tiệm. Nó đứng đâu đó trong khu đằng sau Charlotte Street
trước
khi bạn tới Euston Road. Tôi chưa từng đi vô bên trong tiệm, và bây giờ
thì tôi
tin chắc là làm đếch gì có cái tiệm quỉ quái đó, và tôi luôn luôn tỉnh
giấc mơ
với cảm giác, ôi chao, sướng ơi là sướng nếu mình kiếm thấy nó.
Graham
Greene
Ui chao,
không lẽ Sài Gòn, Khu Chợ Đũi, BHD, Quán Chùa..... của Gấu, thì cũng
chỉ như một
trong những tiệm sách cũ, như trên, của Greene?
Nhưng, giả
như thế, thì lại càng tuyệt, tuyệt!
Bởi vì rõ
ràng là, khi dịch Istanbul,
Gấu cũng có cảm giác như vậy, không phải về
những
con phố của Istanbul của Pamuk, nhưng mà là của Sài Gòn. Những đoạn
phóng bút,
là về Sài Gòn, về BHD của Gấu, không phải về Istanbul, về BHD của Pamuk!
Một thân hữu
nhận ra điều này, khi viết:
Những mối
tình e ấp , sót lại những sợi tơ vương vướng đâu đó trong tâm hồn phần
đông
trong chúng ta, không giống như vết dao vẫn còn tươm máu mãi trong “Lan
Hương”
của tác giả Nguyễn Quốc Trụ . Anh có thể lồng bóng mình và người yêu
một thời
(và một đời) của mình gần như vào bất cứ một mối tình văn chương nào mà
anh đọc
đến, chỉ cần mối tình ấy là một mối tình lý tưởng, trong trắng và mù
quáng đến
rũ rượi . Đọc truyện tình của anh, K có cảm tưởng như nếu giả thử cần
bắt đầu lại,
thì anh cũng sẽ lao vào cuộc tình như thế, không ngần ngại chút nào,
chỉ lại để
được đau đớn một cách hạnh phúc.
Ui chao Gấu
Cái đọc đoạn trên, lắc đầu!
Nguồn
Before
the
Attack
I
always have a sense of guilt when I am a
civilian tourist in the regions of death: after all one does not visit
a
disaster except to give aid - one feels a voyeur
of violence, as I felt during the attack two years ago on Phat Diem.
Giặc ngồi
sau lưng Vua đó!
Cái họa
Tầu
Lạ, đã được cảnh báo từ thời... An Dương Vương. Thằng anh Bắc Kít
bằng mọi cách phải
làm thịt thằng em Nam Bộ, bèn cầu cứu Tầu Quen, nó trang bị từ đầu đến
tận cái lông chim anh Bộ Đội Cụ Hồ, đều là đồ "made in China", chuyện
này thì Tô Hải kể, không
phải Gấu. Bi giờ nó đòi lại, đến sợi lông bướm của gái Mít, nó cũng bảo
của nó, đâu chỉ hai…
hòn dái nhỏ xíu Trường Sa, Hoàng Sa?
Son of the
Rice Paddies
One other
memory of the four winters I spent in Vietnam is that of Colonel Leroy
who, in
his autobiography, wrote perhaps the most perceptive book on the French
war in
Indo-China. Half Vietnamese and half French, a peasant soldier, the
child of
peasants, he became at thirty the youngest colonel in the French army,
a man
who belonged to two worlds.
I met
Colonel Leroy first in 1951 when he was the uncrowned 'King of Bentre'
- an
area of river, marsh and jungle in the Mekong delta which he had known
from childhood.
He had returned home, after imprisonment and torture by the Japanese,
to his
own people, to fight among friends against former friends - a boy with
whom he
had played football was now a Viet Minh general. On my first visit to
Bentre we
made a tour of his kingdom in an armoured boat with machine-guns
trained on
either bank: a year later we made the same tour but this time instead
of guns
and guards our boat carried musicians and dancing girls; the pagoda
where we
dined had been built on a lake in imitation of Hanoi; he had made a zoo
to
entertain the children of his kingdom, and works by Montesquieu and de
Tocqueville lay on his table. Leroy had pacified his territory as
General de
Lattre had never succeeded in doing in the north - one was safe in
Bentre, but
not behind the so-called lines of Hanoi.
But Leroy's
success made him worse enemies than the Viet Minh. He had formed a
Catholic
brigade who fought more effectively than the Foreign Legionaries, the
Senegalese and Moroccans who formed the French army. Catholic patriots
faced
Communist patriots: Leroy represented a kind of Vietnam the French
authorities
regarded with suspicion and the South Vietnamese Government feared,
because it
would have meant the end of easy money and the old corruption which
fitted so
easily from the past like a well-made glove.
When I
returned for my third winter in Vietnam Colonel Leroy was no longer in
Bentre,
and Bentre was no longer a haven of safety in the delta. The Colonel, I
learnt,
had been sent to Paris to L'Ecole de Guerre to learn those conventional
arts of
war which led to the disaster of Dien Bien Phu - an honour, needless to
say,
that the Colonel did not appreciate. He had been guilty of a grave
error of
judgement: he had not merely purged Bentre of the Viet Minh, he had
purged it
of corruption; he had instituted agrarian reforms; worst of all he had
held
elections, free elections, which were not at all to the taste of the
Vietnam
authorities to whom a peasant was a peasant without rights, and who
were growing
rich with the spoils of collaboration and a bogus independence.
President Tran
Van Huu acted with in habitual speed and announced that the elections
of Bentre
would be ignored by the Government since they were 'organized by the
head of
the province on his own initiative'. As Leroy remarked: 'If we elected
a
provincial assembly, why not a national one?' He had exposed the
genuine lack
of independence, though each year the independence of the country was
'finally'
declared, with a new little concession, by the French Government. On
this
occasion General de Lattre sent orders from the United States that
three
battalions of Senegalese or North Africans should be dispatched to
Bentre to
restore the authority of Saigon out of the hands of this Colonel of the
French
army. In the end the affair was settled diplomatically with the
promotion of
Colonel Leroy to L'Ecole de Guerre.
I have often
wondered what would have happened if Leroy had been given his head and
transferred to Tongking to take over command of the Vietnamese forces
there. He
had proved what he could do with the docile Catholics of the south;
isn't it
conceivable that he might have repeated his success with the much
tougher
Catholics of the north? The elements were already there in the partisan
troops
recruited, but hardly sustained, by the two bishops of Bui-Chu and Phat
Diem.
These men only needed real training and proper weapons. Enthusiasm the
men of
Bui-Chu certainly had. 1 remember one armored village where the last
defences
had been erected inside the church itself. With no support, except a
lofty
condescension from the French and a blessing from the Bishop, they
needed a
leader of their own blood. Leroy had proved himself a revolutionary
leader of
the same quality in his own small area as General Giap, and he had an
ideology
which should have been acceptable to the French authorities; but they
paid it
the worst service of all - the service of the lips; Leroy believed it
with his
heart.
'I was
thirty-one at the time. 1 felt myself pushed to the fore by powerful
forces; 1
believed myself to be in harmony with a whole people who, in accepting
me,
would accept more than a man: would accept a true union with France
built on
equality and communion.
'The only
people in the world who can blend completely with Asia are the French
who are
sometimes narrow-minded and meddling, but have no real racial
prejudice. Behind
all their shortcomings, you can always feel their desperate need for
love, and
there is no one in the world more influenced by love than my brother
the
peasant.'
Leroy adds
with characteristic humor: 'I was never much of a politician. 1 was
never
calculating enough, and when I've had a drink too many, 1 often say
what 1
think, even in front of very important people.'
One of the
chief merits of his book which at one level is a
great
adventure story, almost a child's myth, of a peasant boy who became a
king and
was betrayed by his friends, is that it was certainly written with the
frankness of a drink too many.
Introduction
to Life of Colonel Leroy by Colonel
Jean Leroy 1977
Graham Greene: Reflections
|