|
Andrei Makine
Thư độc giả:
Trung thành
với Đọc, mua dài hạn từ lâu lắm, ta rất ư
ngạc nhiên khi thấy báo chẳng bao giờ nhắc tới những cuốn tiểu thuyết
của
Andrei Makine? Trong khi, đây là 1 nhà văn đương thời rất bảnh. Báo
cũng chẳng
thèm nhắc tới cuốn mới ra lò của ông ta: Cuộc
đời 1 gã cà chớn, đếch ai thèm biết đến.
Hãy giải
thích cho ta biết, lý do của sự im lặng này!
GNV
Andrei
Makine
Makine là một
trong những tác giả sớm sủa nhất, Gấu tìm đọc, sau khi đọc bài điểm
cuốn Di Chúc
Pháp của ông, của Tolstaya trên tờ NYRB. Đọc bài điểm không thôi, là
bèn nhớ ra
liền dòng thơ “Hãy cho anh tí Paris, để anh làm thi sĩ”, của ông anh.
Nhớ luôn
cả kỷ niệm lần đầu tới Paris, trên đường tái định cư tại Xứ Lạnh, Paris
là trạm
ghé thứ nhì, sau khi rời Malaysia. Có nhân viên Cao Uỷ chờ sẵn, một em
Đầm, để
chỉ đường cho chuyến tiếp. Nghe Gấu xì xồ tiếng Tây, và xì xồ cái giấc
mộng “cho
xin 1 tí Paris”, em bật cười, Paris chẳng
đẹp như trong mộng đâu, đường phố toàn kít chó!
Makine là 1
mặt khác, cũng của linh hồn Nga, khác hẳn thứ linh hồn giết người của
đám nhà văn
nhà thơ vệ quốc. Sau khi giới thiệu tiếp cuốn Sông Tình Một Thưở của
ông, lu bu
quá, rồi quên luôn, cho tới khi đọc bài giới thiệu mới đây trên tờ TLS.
-Ông viết văn bằng tiếng Pháp,
và nói
tiếng Pháp từ nhỏ. Cái phần Nga ở trong ông, nó ra sao?
-Nước Nga rộng lớn đến
nỗi, chỉ
nội mình nó, đã là cả một vũ trụ, với chừng cả trăm dân tộc, ngôn ngữ,
văn hóa.
Ở trái tim của nó, là nơi tụ hội của Âu châu và Á châu, của miền Nam và
miền
Bắc, nó có thể được coi như là phổ cập (universaliste). Pouchkine viết
những
bài thơ về Cổ Hy lạp, những khổ thơ nhiều đoạn bằng nhau, về Tây phương
và Đông
phương, một nửa những lá thư của ông viết bằng một thứ tiếng Pháp trải
truốt,
nhưng vẫn luôn giữ gốc Éthiopienne của mình. Đây là một người Nga luôn
cảm thấy
mình rất Nga, một "slave", ngay cả trong tính đa dạng của mình; ông
nói: "Trong con người slave khắc khổ, tôi chẳng hề nhỏ một giọt nước
mắt,
nhưng tôi hiểu những giọt nước mắt." (En slave austère je n’ai jamais
versé une larme mais je comprends les larmes). Đây có lẽ cũng là thái
độ của
nhà văn: hiểu những giọt nước mắt nhưng không hề đổ lệ. Thật trái ngược
với thứ
văn chương hiện nay, vừa mới gặp bất cứ ai là cứ thế vãi nước mắt, đâu
còn thì
giờ hiểu những giọt nước mắt của người khác. Nếu tôi là Nga, thì cũng
giống như
Pouchkine… Muốn hiểu được những phản ứng của tôi, là phải qui chiếu về
sự cảm
nhận văn chương Pháp tại Nga. Một trong những nhà sáng lập thơ ca Nga,
Antioche
Kantemir - ông cứ thế mà chôm chĩa, "cọp dê" (copy) Boileau mà chẳng
thèm mắc cỡ - một bữa nói: "Những gì tôi mượn đỡ bạn bằng tiếng
Gaulois,
tôi trả lại bạn bằng tiếng Nga." Dostoievski và Tolstoi đã trả món nợ
của
Kantemir. Với hai người này, tiểu thuyết Nga trở thành [tiểu thuyết] Âu
châu.
Và nếu họ đọc những nhà văn lớn Pháp, họ cũng biết phê phán xã hội
Pháp. Thí dụ
như Tolstoi, ông đọc lại "Tu viện thành Parme" (La Chartreuse de Parme)
của Stendhal để viết về trận đánh Moskova. Cùng lúc đó, trong "Bản
xô-nát
ở Kreutzer", ông chế nhạo xã hội Paris, những lối nói trống rỗng của
nó,
những quần áo dát kim loại của nó. Sự ngưỡng mộ của tôi là vô cùng, về
những gì
mà nước Pháp đã mang lại cho văn chương. Cùng lúc đó, sự nhỏ nhen của
những môi
trường phó-văn chương (paralittéraires) làm cho tôi phải tư lự.
-Ông đã chịu trận vì thói
làm dáng
của giới xuất bản Pháp, trước khi biết tới vinh quang của giải
Goncourt. Làm
sao sống trong một tình trạng nghịch đảo như vậy?
-Thì cứ tỉnh bơ đi. Thoạt
đầu,
hoàn cảnh của tôi ở Pháp thật ngược ngạo thành thử tôi cũng chẳng mong
được
công nhận ngay lập tức. Tôi cứ thế mà tiến tới, tin ở mình, và tự nhủ
thầm,
rằng mọi công nhận đều chỉ là tương đối. Khi được Goncourt, tôi thấy
được
choàng hoa. Như vậy là tôi đã sống cả hai thái cực, và tất cả những gì
sẽ xẩy
ra là ở giữa hai thái cực đó.
-Trong số những cuốn tiểu
thuyết
đã xuất bản, có cuốn nào được ông cưng nhất không?
-Không, cuốn nào thì cũng
có câu
chuyện của nó, khí hậu của nó. Hơi giống như những cơ bắp, tùy theo bạn
cử tạ
hay phóng lao. Điều tôi thích ở trong cuốn "Lời thú tội của người cầm
cờ
bị thất sủng", là bố cục (composition), bằng cách nào cả một thời đại
hiện
ra, dưới cái nhìn trẻ thơ của một cậu con trai. Trong "Di chúc Pháp",
tôi yêu sự di chuyển giữa hai văn hóa, một mang tính xã hội, một mang
tính thơ
ca…. Những cuốn sách là một phần của ngã (moi), hoặc của siêu ngã
(surmoi). Xớ,
sợi của chúng, đó là cái điều những người khác không diễn tả: một cử
chỉ tình
cờ nào đó trở nên thật thiết yếu đối với tôi, một thoáng chốc, được cắt
ra từ
cái dòng đều đều của thời gian, trở thành cả một cõi nhân gian nhỏ xíu,
với
không gian, với bầu trời của nó. Người thai nghén những khoảnh khắc… Là
nhà thơ,
là như vậy đó… Tôi nhớ, có một bữa trời mưa ở Sables-d’Olonne. Tôi chạy
trú mưa
ở một hàng hiên. Một cụ già lụ khụ cũng theo tôi trú mưa. Cụ chắc cũng
được
trăm tuổi, mặt tái nhợt. Ông cụ nói về bệnh tật của mình, về nỗi khó
khăn khi
đi đứng, về chuyện máu của ông chảy ngược. Tôi chẳng nói gì hết, tôi
nhập vào
ông cụ, tôi sống khoảnh khắc ông cụ đang sống. Mưa ngưng, ông cụ bỏ đi,
nhưng
có lẽ ông cụ đã chuyển sang cho tôi cái cốt tủy trong đời cụ, mà cũng
chẳng
thèm coi đó là quan trọng. Cuộc đời – và cuộc đời nhà văn của tôi – làm
bằng
những khoảnh khắc này.
-Cảm nhận cái đẹp, đầu
tiên, đầu
đời, của ông, là gì?
-Tôi luôn luôn sững sờ,
vì đàn bà.
Tôi còn nhớ một trong những người đó, mà tôi yêu như điên như khùng,
tại một
làng ở Sibérie. Tôi lúc đó mới mười tuổi, nàng cỡ ba mươi lăm, hoặc bốn
mươi;
nàng đi lấy nước, từ một nhánh sông gần đó. Nàng bước lên những tấm
phên trải
qua những vũng bùn, còn tôi thì ở trên một mỏm đất ngó xuống. Một chốc,
một
lát, nàng biến mất, và cứ thế tôi trở đi trở lại khúc sông, chỗ nàng đã
từng
đặt chân, rồi tôi đăm đăm nhìn dòng nước, thấy bóng nàng phản chiếu,
tôi vuốt
ve bóng nàng và lên bẩy từng trời. Đó là một tình yêu rất trong trắng,
và rất
vật thể (physique). Nếu muốn, người ta có thể nhập vào một dòng sông
bất cứ lúc
nào, mà chẳng làm phiền lòng Héraclite. Yếu tính nghệ thuật ở đó, ở
trong dục
vọng một lần nữa muốn nhập vào dòng sông.
-Cậu bé ngày xưa nghĩ sao
về người
đàn ông bây giờ?
-Cậu xét
đoán thật nghiêm
khắc,
nhưng cậu nhận ra người đàn ông. Cậu nhận ra sự khó khăn, những mục
đích đã đạt
được, con đường chưa đi hết. Cậu không đỏ mặt xấu hổ, nhưng cậu cho
rằng tôi
hơi khinh bạc, nhưng chưa đủ cấp tiến. Nhưng cậu vẫn chấp nhận tôi. Đây
là một
độc giả trung thành, tôi nghĩ vậy.
Có lẽ cái
tay nhà văn viết văn bằng tiếng Tây hơn cả Tây, phải là Andrei Makine.
Ông còn
viết cả 1 cuốn sách chửi Tây thuộc dòng chính, thế mới ghê: "Nước Pháp
mà người quên yêu."
Vốn sống, vốn
viết của ông là cuộc chiến Nga, giữa Đỏ và Trắng, chống Nazi, và cuộc
lên ngôi
của Đế Quốc Đỏ sau đó, củng tất cả những hệ lụy của nó.
Nhưng có lẽ
phải gọi ông là nhà văn chuyên viết truyện tình thì mới đúng.
GNV biết tới Makine, qua
bài điểm cuốn được Goncourt của Tây, “Di chúc Pháp”. Đọc
bài điểm mê quá, mò đi kiến tác phẩm. Sau đọc tiếp cuốn “Sông Tình Một
Thuở”,
cũng quá tuyệt, và, vẫn truyện tình. Mới đây, thấy TLS khen ông nức nở,
với cuốn
“Cuộc đời của 1 kẻ vô danh”, Bèn đi kiếm đọc, thay vì nó, thì lại vớ
được cuốn
mới nhất của ông sau đây:
Le destin de
Dmitri Ress pourrait être mesuré en longues années de combats, de rêves
et de
souffrances. Ou bien à l'intensité de l'amour qu'il portait à une
femme. Ou
encore en blessures, d'âme et de corps, qu'il a reçues, happé par la
violence
de l'affrontement entre l'Occident et la Russie. Cette pesée du Bien et
du Mal
serait juste s'il n'y avait pas, dans nos vies hâtives, des instants
humbles et
essentiels où surviennent les retrouvailles avec le sens, avec le
courage
d'aimer, avec la grisante intimité de l'être.
Dans un
style sobre et puissant, ce livre transcrit la mystérieuse symphonie de
ces
moments de grâce.
Les héros de
Makine les vivent dans la vérité des passions peu loquaces, au cœur
même de
l'Histoire et si loin des brutales clameurs de notre monde.
Andreï
Makine, né en Sibérie, a publié plusieurs romans, parmi lesquels Le
Testament
français (prix Goncourt et prix
Médicis), La Musique d'une vie (prix
RTL-Lire), La Femme qui
attendait, L'Amour humain et La
Vie d'un homme inconnu. Il est aussi
l'auteur
d'une pièce de théâtre: Le Monde
selon Gabriel. Ses livres sont
traduits en
plus de quarante langues.
*
Chuyện Tình
-Ông là nhà văn hách xì xằng,
đứng sau chót,
trong dòng những nhà văn - Conrad, Beckett, Nabokov, Kundera - được đời
biết
đến nhờ những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ thứ nhì. Đâu là lợi, đâu là
hại, khi
đếch viết văn bằng tiếng mẹ đẻ?
Andrei Makine:
Khi bạn chuyển từ ngôn ngữ thứ nhất qua thứ nhì, bạn bị bắt buộc trở
thành lưu
vong, và điều này có thể rất ư là hướng thượng [positive]. Thí dụ, bạn
có thể
quẳng mẹ tất cả những bản kẽm, có từ thuở Hùng Vương dựng nước - thí
dụ, quê
hương là chùm khế ngọt, nếu ai không có thì đếch có thể lớn lên thành
Mít được
- ở đằng sau bạn; nói về mặt ngôn ngữ, bạn bèn bước vô một vùng đất
trinh
nguyên. Đúng là một kiểu tái sinh, sống lại.
Tại sao, bằng cách nào, và
như thế nào, mà ông lại chọn
anh chàng tài tử mặt
ngựa, Jean-Paul Belmondo, như là một mẫu mã Tây Phương cho những cuốn
tiểu
thuyết của ông?
Một phần, là do cơ
may, có thể nói như vậy, nhưng cũng
còn vì điều này,
những cuốn phim của anh ta được chiếu đại trà ở Nga. Khi tôi vừa mới
lớn lên,
là lập tức bị nhồi đủ thứ Đến hẹn lại lên, Hãy chết như anh...
Anh mặt
ngựa Belmondo hớp hồn chúng tôi ấy là vì anh ta có vẻ hoàn toàn tự do,
cứ phơi
phới mà yêu mà sống mà chết, vượt ra khỏi, vượt lên trên, chính trị.
Anh ta rất
ư là quyến rũ, rất ư là vô chính trị - với chúng tôi, anh ta chuyển
hóa, vượt
qua, transcendend, Cuộc Chiến Lạnh.
Nhưng
tại sao lại là (tài tử
Pháp) Belmondo?
Với cái mũi dèn dẹt, anh ta giống chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi -
taiga,
vodka, những trại - là từ những hình vóc đó. Những khuôn mặt của một vẻ
đẹp man
rợ hằn lên những đường nét khắc khổ. Tại sao anh ta?
Bởi vì anh ta chờ đợi chúng tôi. Anh ta không bỏ rơi chúng tôi ở bậc
thềm một
lâu đài tráng lệ, và những lần tới lui, giữa những giấc mơ và cuộc sống
thường
ngày của anh, anh ta luôn luôn ở bên cạnh chúng tôi. Người ta theo anh
vào tới
cái điều không thể tưởng tượng ra nổi.
Chúng tôi còn yêu anh, bởi cái điều vô ích, của những thành quả, những
chiến
công. Bởi sự phi lý của những chiến thắng, chinh phục. Thế giới mà
chúng tôi sống
dựa trên tương lai rạng rỡ của một ngày mai ca hát. Đó là luận lý của
chúng
tôi. Những buổi gắn mề đay nơi điện Cẩm Linh là một biểu tượng cao cả.
Ngay cả
trại (tù) cũng có chỗ đứng ở trong cái trật tự hài hòa đó.
Rồi Belmondo tới cùng với những thành quả chẳng để làm gì, những trình
diễn chẳng
cần mục đích, chủ nghĩa anh hùng rẻ tiền, miễn phí (gratuit). Chúng tôi
khám
phá ra rằng, sự hiện hữu xác thịt của con người tự nó là một cái đẹp.
Chẳng cần
bất cứ một ngụy tư tưởng mang tính ý thức hệ, hoặc vì tương lai. Kể từ
ngày đó,
chúng tôi biết, về cái tự tại, tự thân tuyệt vời có tên là Tây-phương.
Lại còn cuộc gặp gỡ tại phi trường. Người nữ điệp viên chờ đón vị anh
hùng của
chúng tôi phải có một vật gì đó để họ nhận ra nhau. Dữ thần chưa, đó là
một...
karavai, một mẩu bánh mì đen, được gọi bằng cái tên chính hiệu Nga của
nó,
trong một phim Pháp! Một tiếng rú vang lên, và cùng với nó là lòng tự
hào Nga
chạy dài theo suốt những hàng ghế trong rạp Tháng Mười Đỏ... Khi trở
lại
Svetlaia, chúng tôi chỉ nói về chuyện đó: vậy là, ở nơi chốn Tây-phương
xa vời
kia, họ cũng biết một tí, rằng chúng tôi hiện hữu!
Sông Tình Một Thuở
Tôi thức dậy,
tôi đã mơ 1 âm nhạc... Nhạc 1 đời... đối với thằng em trai đã tử trận
của Gấu,
là bản “Tôi đẹp nhất đêm nay”, của “em” Sylvie Vartan, và cùng với bản
nhạc của
Đầm, là "Đồn anh đóng bên rừng mai", của Mít.
*
"Sao không hát cho những người
vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng
nước
mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích.
Của cuộc
chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống
thảm hại,
nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn
Duyệt-Phan
Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt
hải chạy
ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé
dời lên
đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu
Chợ Đũi,
đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu
đường. Khi
về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo
chiếc lá nhẹ
nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở,
anh đâu biết Xuân về hay
chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng
báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp,
trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong mỗi chúng ta đều có một
Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than
hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Lần
Cuối Sài Gòn
Lèm bèm về dòng
văn học "Lạc Đường"
Dispatches from the heart of the revolution
Andreï Makine confirms his
status as a major novelist in this moving tale of an African Marxist
Nguồn
Bản tin từ trái tim của cách mạng chuyển đi:
Tại sao Cách Mạng chết bất đắc kỳ tử ngay sau khi thành công?
Tại sao VC nằm vùng biến thành ruồi?
Tại sao Yankee mũi tẹt biến thành bọ?
*
Hãy tìm đọc Tình Người, tác
phẩm thứ 11 của Andrei Makine, nhà văn lưu vong Nga.
Trong bản văn viết về lịch sử của ông, một mẩu được tìm thấy ở trong Sổ Ghi của Che, sau khi ông chết,
nhan đề là: Tại sao Cách Mạng chết?
Cuốn tiểu thuyết của Andrei Makine là để tìm câu trả lời cho quan tâm
của Che, và cho câu hỏi, Cách Mạng, “ba cái trò làm xàm giải phóng này
là cái quái gì, nếu nó không thay đổi đến tận cơ bản cách mà chúng ta
hiểu và yêu những bạn người của chúng ta?”
Trên Tin Văn đã từng giới thiệu Makine.
Tây phương vẫy gọi
Nhưng tại sao lại là (tài
tử Pháp) Belmondo?
Với cái mũi dèn dẹt, anh
ta giống chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi - taiga, vodka, những trại
- là từ những hình vóc đó. Những khuôn mặt của một vẻ đẹp man rợ hằn
lên những đường nét khắc khổ. Tại sao anh ta?
Bởi vì anh ta chờ đợi
chúng tôi. Anh ta không bỏ rơi chúng tôi ở bậc thềm một lâu đài tráng
lệ, và những lần tới lui, giữa những giấc mơ và cuộc sống thường ngày
của anh, anh ta luôn luôn ở bên cạnh chúng tôi. Người ta theo anh vào
tới cái điều không thể tưởng tượng ra nổi.
Chúng tôi còn yêu anh,
bởi cái điều vô ích, của những thành quả, những chiến công. Bởi sự phi
lý của những chiến thắng, chinh phục. Thế giới mà chúng tôi sống dựa
trên tương lai rạng rỡ của một ngày mai ca hát. Đó là luận lý của chúng
tôi. Những buổi gắn mề đay nơi điện Cẩm Linh là một biểu tượng cao cả.
Ngay cả trại (tù) cũng có chỗ đứng ở trong cái trật tự hài hòa đó.
Rồi Belmondo tới cùng với
những thành quả chẳng để làm gì, những trình diễn chẳng cần mục đích,
chủ nghĩa anh hùng rẻ tiền, miễn phí (gratuit).
Chuyện tình
"Làm cho văn chương
trở thành điếm đàng là một tội ác chống lại nhân loại
Human Love
Andreï Makine
Sceptre £12.99, pp249
In
Andreï Makine's version of history, a fragment is found among Che
Guevara's notebooks after his death entitled 'Why Revolutions Die'.
Makine's 11th novel is an extended answer to Guevara's query, and to
the related question of what revolutions are for in the first place.
'For what is the point of such liberating turmoil,' asks Elias Almeida,
the African revolutionary whose story is narrated here, 'if it does not
radically change the way we understand and love our fellow human
beings?'
Makine
is not greatly celebrated in this country but in his adopted homeland
of France, where he has lived and written in French since seeking
political asylum from Russia in 1987, he is considered one of the
leading contemporary European novelists. Much of his fiction has
focused on Russian lives lived in the shadow of the Soviet experiment
and sustained by dreams of the West. In Human Love he turns his
attention to the failure of the Marxist ideal in another context: the
Soviet-backed revolutions in Africa
and their aftershocks that rumble on into the present.
Nguồn
Bản
tin từ trái tim của cách mạng chuyển đi:
Tại sao Cách Mạng chết bất đắc kỳ tử ngay sau khi thành công?
Tại sao VC nằm vùng biến thành ruồi?
Tại sao Yankee mũi tẹt biến thành bọ?
*
Hãy tìm đọc Tình Người, tác
phẩm thứ 11 của Andrei Makine, nhà văn lưu vong Nga.
Trong bản văn viết về lịch sử của ông, một mẩu được tìm thấy ở trong Sổ Ghi của Che, sau khi ông chết,
nhan đề là: Tại sao Cách Mạng chết?
Cuốn tiểu thuyết của Andrei Makine là để tìm câu trả lời cho quan tâm
của Che, và cho câu hỏi, Cách Mạng, “ba cái trò làm xàm giải phóng này
là cái quái gì, nếu nó không thay đổi đến tận cơ bản cách mà chúng ta
hiểu và yêu những bạn người của chúng ta?”
Trên Tin Văn đã từng giới thiệu Makine.
In the
company of ghosts
DAVID EVANS
Andrei:
Makine
THE LIFE OF
AN UNKNOWN MAN
Translated
by Geoffrey Strachan
256pp.
Sceptre. £16.99. 978034099878 6
There is a
Chekhov story in which a young woman joins a friend for a ride on a
toboggan.
As they rush through the snow, she hears him whisper in her ear: "I
love
you, Nadenka". Did he really say those words? Or did she just imagine
it?
They grow apart, settle down, have children. Two decades pass. Then one
day
they meet again, and board a toboggan together. As they pick up speed,
the
woman hears her old friend confide once more: "I love you, Nadenka".
At least,
that is how Shutov, the protagonist of The Life of an Unknown Man,
remembers
the story. As the novel begins, we find him reciting the tale from
memory,
recalling with fondness its old-fashioned romance. But the version he
tells
differs exquisitely from Chekhov's tale. Shutov has forgotten that the
story is
called "Shutochka" or "A Little Joke"; that whispered
declaration of love was a cruel prank, and the happy reconciliation
never
occurred in the ·original.
It is a
beautifully subtle piece of characterization; the mistake reveals
Shutov's
tendency to fall back on comforting illusions. A middle-aged,
moderately
successful Russian novelist settled in Paris, he idealizes the country
of his
birth but hasn't visited it in twenty years. He prefers the company of
characters in books ("faithful ghosts . . . the creatures brought into
being by writers") to that of his flesh-and-blood girlfriend. When she
leaves him, he experiences something like a midlife crisis, and decides
to
return to Russia to track down Yana, an old flame.
He finds her
in St Petersburg, but she shows little interest in him. Disheartened,
he
wanders Nevsky Prospekt, bewildered by the "frenzied materialism" of
the New Russia. He encounters Volsky, an elderly man who reminisces
about his
wartime experiences. Shutov listens, humbled, as Volsky speaks of the
siege of
Leningrad and the privations of Stalin's gulags. The man's tale has a
luminous,
didactic quality, like a fable, and it leads Shutov to an epiphany; he
will
give up his bourgeois fiction and write a new kind of book, a tribute
to the
"unvoiced" men and women of his country's past.
Like his
finest work, Le Testament Francais (which was awarded the Prix Goncourt
in
1995), Andrei' Makine's latest novel is about memory, both personal and
historical. Although he lives in exile and writes in French, Makine
grew up in
the Soviet Union, and his novel examines and dramatizes attitudes
towards the
Communist period in present-day Russia, He criticizes the blithe
"forgetfulness" of the country's youth, who have "turned the
page of history" with "vigorous indifference", But he also
satirizes the nostalgia of an older generation who cling pathetically
to
"the wretched vestiges of those days". Is Shutov any different? Or
does his decision to write about the Soviet era at the end of the book
represent
a retreat into a romanticized Russian past? One suspects that his new
project
may just be another exercise in self-deception, like the bowdlerized
Chekhov
story.
In any case,
this masterful novel resists easy answers. It finds Makine at the
height of his
powers: in the book's latter stages, he alternates dazzlingly, between
the
intimate Shutov narrative and the more expansive Vol sky saga, spinning
a
compelling, Beckettian vision of history as a "whirligig absurdity".
Rich, artful, and affecting, The Life of an Unknown Man secures
Makine's place
in the first rank of European novelists.Giấc mơ Pháp thuộc về truyền
thống cổ
xưa, của Nga. Một người Pháp lẽ dĩ nhiên chẳng hề mơ mộng như vậy: anh
ta sống ở
đó. Những người ngoại quốc khác, nếu mơ đi Tây, cũng thường thôi: dành
dụm tiền
bạc, rồi làm một chuyến ngao du. Người Nga, sau bao thập kỷ bị nhốt
phía sau bức
màn sắt, họ nghĩ ra những giấc mộng hải hồ chẳng giống ai, chẳng ai có
thể nghĩ
ra nổi. Không phải ngẫu nhiên, suốt thế kỷ 19, tiếng Pháp được coi là
ngôn ngữ
học đường tại Nga, dấu hiệu cho thấy thuộc về giai cấp ở trên. Không
phải một
chọn lựa may rủi, sau cơn động đất đổ nhà đổ cửa, Cách mạng 1917, người
Nga đã
đổ xô qua Pháp. Sau khi không còn bức màn sắt, đi Mỹ là những kẻ "thực
dụng";
những con người "lý tưởng" vẫn chọn Pháp.
"Này,
thấy Paris thế nào?", (Well, what is Paris like?), T. Tolstaya đã từng
hỏi
một ông bạn thi sĩ, vào năm 1987. Ông này mới trải qua một tuần, lần
thứ nhất
trong đời, ở Paris. "Y chang trong mộng, của tụi mình!" Không chỉ vì
nó đúng như tất cả những giấc mơ, nhưng Paris "không thể" làm thất
vọng,
bất cứ một hoài vọng nào, về nó.
Makine là một
trong những tác giả sớm sủa nhất, Gấu tìm đọc, sau khi đọc bài điểm
cuốn Di Chúc
Pháp của ông, của Tolstaya trên tờ NYRB. Đọc bài điểm không thôi, là
bèn nhớ ra
liền dòng thơ “Hãy cho anh tí Paris, để anh làm thi sĩ”, của ông anh.
Nhớ luôn
cả kỷ niệm lần đầu tới Paris, trên đường tái định cư tại Xứ Lạnh, Paris
là trạm
ghé thứ nhì, sau khi rời Malaysia. Có nhân viên Cao Uỷ chờ sẵn, một em
Đầm, để
chỉ đường cho chuyến tiếp. Nghe Gấu xì xồ tiếng Tây, và xì xồ cái giấc
mộng “cho
xin 1 tí Paris”, em bật cười, Paris chẳng
đẹp như trong mộng đâu, đường phố toàn kít chó!
Makine là 1
mặt khác, cũng của linh hồn Nga, khác hẳn thứ linh hồn giết người của
đám nhà văn
nhà thơ vệ quốc. Sau khi giới thiệu tiếp cuốn Sông Tình Một Thưở của
ông, lu bu
quá, rồi quên luôn, cho tới khi đọc bài giới thiệu mới đây trên tờ TLS.
|