|
30 tháng
Tư đọc lại Milosz: Cầm Tưởng.
Trên báo
Partisan Review số Mùa Hạ 2000, Adam Michnik, khi viết về Jan Kott, một
nhà văn
Ba lan đào thoát qua Tây phương, đã nhắc tới bài “Về Nọc Độc” (On
Venom, 1982),
qua đó, Kott ghi nhận:
“Rắn cắn làm
hư cái đầu. Bên trong cái vòng tròn huyền hoặc, cái đầu luẩn quẩn trong
một thế
giới ảo. Cái đầu tin vào những lời dối trá, và không thể phân biệt thực
với ảo.”
(A snake
bite disables the mind. Inside a magic circle, the mind moves in a
fictitious
world, believes in lies, and cannot distinguish reality from illusion).
Ông cho rằng,
những mắc míu của tầng lớp trí thức với chủ nghĩa cộng sản, gia nhập
rồi rời bỏû
– trong chán chường và vỡ mộng: “thời điểm vỡ mộng có lẽ là quan trọng
nhất”
(“the moment of disullusion is perhaps the most important”).
Milosz viết
Cầm Tưởng (La Pensée Captive) ở Paris, khi còn Stalin. Cuốn sách gây
những biến
động khó lường ở Ba Lan, quê hương nhà thơ. Thoạt tiên bị coi là “phạm
thánh”,
và chỉ được đọc lén, dần dà tới năm 1956 được vinh danh qua việc trích
dẫn bởi
sách báo nhà nước. Sự thực, ngay vào thời kỳ đó, đã có những người chỉ
trích, rằng
cuốn sách muốn giải thích, và từ đó, biện minh, về những hành xử, thái
độ của tầng
lớp trí thức vốn đã quen được dẫn dắt bởi nhà nước và chế độ. Một số
người lại
coi nó quá bi quan, không đếm xỉa gì tới đà tiến lên của thế hệ trẻ,
vốn độc lập
so với đám già, gì thì gì cũng há miệng mắc quai, tay đã nhúng chàm.
Một thời
gian sau, nó lại được đưa vào danh sách đen, những tác phẩm nguy hại.
Thời kỳ
1951/52, chủ nghĩa Cộng Sản đang ở một trong những đỉnh cao của nó.
Trong lời mở
đầu, bản tiếng Anh, tác giả đưa ra một số nhận xét về nước Pháp, khi
tác giả ngồi
viết Cầm Tưởng: đa số trí thức Pháp cảm thấy xứ sở bị lệ thuộc vào Mỹ,
đã đặt
hy vọng vào một thế giới mới từ phía Đông, dưới sự lãnh đạo của Stalin,
một nhà
lãnh đạo khôn ngoan, đạo hạnh không ai có thể sánh được. Khi Albert
Camus dám
nhắc tới những trại tập trung, như là những viên gạch đầu tiên tạo nền
móng cho
chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, ông đã bị những đồng nghiệp trí thức xỉ vả
không tiếc
lời.
Triết gia
Karl Jaspers, trong lời mở đầu bản tiếng Pháp (nguyên bản tiếng Ba Lan
1951; bản
tiếng Pháp nhà xuất bản Gallimard, bản tiếng Anh của Knopf, New York,
cùng được
xuất bản năm 1953), coi những bài tiểu luận ở trong “Cầm Tưởng” là một
tài liệu,
và cùng lúc, một dẫn giải thuộc loại hảo hạng. Ông giải thích thêm:
Về chuyện nô
dịch tinh thần trong chế độ toàn trị, chúng ta, những người Đức thời kỳ
quốc
xã, đã có kinh nghiệm. Chúng ta đã từng biết những sắc thái bề ngoài
(những khẩu
hiệu, thái độ, cách hành xử hàng ngày) và chúng ta cũng đã nhận ra điều
gì đang
xẩy ra ở bên trong chúng ta, vào thời kỳ đó. Cuốn sách bầy ra cho chúng
ta thấy
chuyện gì xẩy ra ở những chế độ dân chủ nhân dân ở phía Đông, đặc biệt
là ở Ba
Lan. Nó gây ấn tượng đối với chúng ta, chắc là nhiều hơn so với những
người
khác, bởi vì chúng ta đã từng trải qua, cái điều đang xẩy ra ở đó.
Thường thường,
người ta có thói quen áp dụng những bản kẽm cũ mòn, về những chuyện
đang xẩy ra
ở đó: dối trá/sự thực; phản động/phản kháng… Với cuốn sách, không giản
dị như vậy,
mà là hoàn cảnh, thực tại ‘thực’. Bằng cách nào, những con người thay
đổi, một
khi không ngừng cảm thấy, đè nặng lên họ, là một hiểm họa hủy diệt, và
cùng
lúc, họ còng lưng gánh vác lịch sử, theo nghĩa, đây là niềm tin, đây là
chân
lý: lịch sử cần thiết như thế đó. Và đó là Niềm Tin Mới. Milosz nhớ lại
thời kỳ
1945, mốt thời thượng trong những câu lạc bộ trí thức ở Varsovie, là so
sánh chủ
nghĩa cộng sản với sự ra đời của thiên chúa giáo. [Người viết còn nhớ,
một ký
giả đã từng hỏi Stalin, bao giờ thì đảng cộng sản có một Đức Giáo
Hoàng.]
***
Chắc chắn một
điều, Milosz viết Cầm Tưởng từ những kinh nghiệm ông đã từng trải qua,
kể luôn
cả cái kinh nghiệm cay đắng của một nhà văn nhà thơ bị rứt ra khỏi
tiếng nói mẹ
đẻ. Nhưng đây mới là điều tuyệt vời: Cầm Tưởng đã được gợi hứng từ
những tư tưởng
của một vị thánh, một bậc nữ lưu số một của thế kỷ 20: Simone Weil.
***
Trong “The
Poet’s Work” (“Tác phẩm của Nhà Thơ”, một dẫn nhập thơ Milosz, nhà xb
Harvard,
1991), hai tác giả Leonard Nathan và Arthur Quinn cho rằng, thật khó mà
bỏ qua
tầm quan trọng của Weil đối với Milosz, thời gian ông viết Cầm Tưởng.
Ngay cả
cái tên Cầm Tưởng, cũng đã được lấy ra từ một trong những tiểu luận sau
cùng của
Weil, nhan đề là “Human Personality” (“Cá nhân tính của con người”),
được xuất
bản năm 1950, sau khi bà mất (24 tháng Tám, năm 1943; 34 tuổi).
Trong tiểu
luận trên, Weil khẳng định, có một điều gì thật thiêng liêng ở tâm khảm
của mỗi
con người; rằng cái “tâm thiêng” này (this sacred center) không phải là
cá nhân
tính (personality), vốn là kết hợp (combination) của những thói quen,
những
thái độ do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Đây là một đốm lửa thần thánh,
một cái
nhân vô ngã, nhờ nó mà con người tạo nên âm nhạc Gregorian (chant),
kiến trúc
Romanesque, [hùng ca] “Iliad”: “Những con người mà qua họ, những tác
phẩm này
đã được đem lại cho chúng ta - những con người đó đã không coi đây là
những cơ
hội để biểu bỏ cá nhân tính.” Những con người không để ý tới tia lửa
uyên
nguyên nội tại này [thường] giản lược họ, như
là sản phẩm của những sức mạnh xã hội. Họ bị vây
khổn (traped) ở trong
ngôn ngữ, như là những cái đầu bị giam cầm:
“Nói rõ hơn,
một cái đầu bị vây khổn ở trong ngôn ngữ, là ở trong nhà tù…. Nếu một
cái đầu bị
cầm tù, mà lại không nhận ra điều này, như vậy là sống trong lầm lẫn.
Nếu nó nhận
ra điều này, dù chỉ một phần mười của một giây, và rồi sau đó quên đi,
để trốn
đau, như vậy là sống trong giả trá. Những con người - ấy là cực kỳ
thông minh -
vẫn có thể sinh ra, sống, rồi chết trong lầm lẫn và giả trá. Thông minh
ở trong
họ chẳng [được coi là] tốt, [coi là] một tài sản cũng không luôn. Sự
khác biệt
giữa những con người, thông minh hơn kém nhau, thì cũng giống như sự
khác biệt
giữa những tên tội phạm bị kết án chung thân ở trong những phòng giam
lớn hoặc
nhỏ. Người tự hào thông minh thì cũng giống như tù tự hào phòng giam
rộng rãi.”
(Trích dẫn
tác phẩm Weil, trang 330-331)
“Cầm Tưởng”
của Milosz có thể đọc như một chứng minh luận đề trên đây của Weil,
nhất là bốn
chương giữa, trong đó đưa ra chân dung bốn cầm tưởng, tự hào vì cái
chuồng giam
Xô viết của họ. Bốn cái đầu mang vòng kim cô ở trong Cầm Tưởng là: A.,
hay là một
kẻ đạo đức; B., một tình nhân bất hạnh; C., tên nô lệ của lịch sử; D.,
nhà thơ
hay là gã hát rong. Được ý thức hệ rủ rê mời chào, từng người đã đem
quá khứ của
mình ra để buôn bán, nhằm kiếm chút quyền lực hão huyền. C., tên tù của
lịch sử,
đã “theo đuổi một cuộc chiến chống lại chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền
hoà
bình, nhưng thực ra - như một cư dân ở Varsovie nói về ông – chỉ mơ
tưởng chiến
tranh. Bởi vì nếu chiến tranh bùng nổ, ông sẽ đọc diễn văn, đi du lịch
bằng phi
cơ, viết phóng sự chiến trường, và sẽ chẳng phải ngồi vào bàn để mà cố
nặn ra một
cuốn tiểu thuyết. Nhưng buồn thay cho ông, lúc này đương hoà
bình…”….”Ông rất
nghiêm túc về chuyện viết tiểu thuyết. Nhưng khi cá đã mắc mồi, người
ta lôi nó
lên khỏi mặt nước. Những nhà văn, một khi đã là thành viên của Hội,
phải viết,
phải trình tác phẩm, nếu không sẽ bị đuổi ra khỏi Hội, mất đặc quyền
đặc lợi.”
Cả bốn người
đã biến sự yếu đuối của họ thành một sức mạnh bề ngoài, và cả bốn cuối
cùng đã
mất đứt linh hồn trong cuộc mà cả nói trên, như Milosz đã cay đắng nhận
xét số
phận của họ, những ngườøi bạn của ông, và cũng là số phận của ông:
“Những khổ
đau của con người bị nhận chìm trong tiếng ré kèn đồng của đội giao
hưởng trong
trại tập trung; và tôi, như là một thi sĩ, chỗ ngồi của tôi đã được
dánh dấu sẵn,
trong đám những tay đàn vĩ cầm hàng đầu.”
Phòng triển
lãm nho nhỏ những tù nhân thê thảm của ý thức hệ, đã được Milosz nhắc
tới trong
một, hai bài thơ làm vào cuối thập niên 1940, như “Đứa trẻ của Âu
Châu”, hay
“Chân dung giữa thế kỷ 20” (Mid-Twentieth Century Portrait”), nhưng sau
đó, cái
chỗ đã được đánh dấu sẵn dành cho ông, không còn nữa. Nói rõ hơn, ông
không còn
coi mình là một “cái đầu bị vây khổn”. Chính điều này làm cho Cầm Tưởng
trở thành
một cuốn sách mê hoặc và gây bực (a fascinating and disturbing book),
“ảm đạm tự
mãn về mình” trong khi nặng nề chỉ trích những người khác, theo đánh
giá của
Paul Coates, một trong những độc giả chịu khó đọc ông vào lúc đó (1).
Chắc chắn, ở
đây Milosz tự biện minh, về quyết định “chạy làng” (to defect) của ông.
Chính
cái hành động chạy làng đó đẩy ông vào một vị trí đạo đức cao hơn người
khác, một
khi biết rõ mọi mũi dùi sẽ chĩa vào ông, chưa kể thái độ khinh khi, rè
bỉu của
những người cộng sản mà ông bỏ lại sau lưng. Nhưng điều mà những người
chỉ
trích không nhận ra, đó là, bằng cách nào, ông tin rằng cái đầu của ông
hết còn
bị vây khổn. Và đây chính là một “hạnh ngộ”, nếu coi tầm quan trọng của
Weil
trên tư tưởng của ông, những ngày ở Paris.
Ngay từ thoạt
kỳ thủy, Milosz vẫn nhấn mạnh, cuộc chạy làng của ông mang tính bản
năng, hơn
là một vấn đề liên quan tới trí thức hay ước muốn. Có lần ông diễn tả
quyết định
trên của mình, là “cuộc nổi loạn của cái bao tử”.
Milosz được
cứu thoát là bởi vì có một lần trong đời, như Weil nói, ông nhận ra
rằng mình
đã sống trong lầm lạc. Nhưng, thay vì ôm lấy kinh nghiệm này, ông trốn
đau một
thời gian, bằng một cuộc sống “phù du”, ở New York, Washington, Warsaw;
và”không dám rờ tới thơ” (nguyên văn: ít viết thơ, rồi ít viết thơ hơn
nữa).
Ngay cả những gì ông viết ra cũng ngày càng cay đắng, cho đến một lúc,
ông hết
còn chịu đựng nổi. Điều này, Simone Weil cũng đã tiên đoán, trong bài
tiểu luận
đã dẫn ở trên:
“Một con người
mà cái đầu của người đó cảm thấy rằng [đang] bị vây khổn, thường tự an
ủi mình
bằng cách chùm chăn [nguyên văn: tự làm mình mù trước sự kiện]. Nhưng
nếu người
đó thù ghét sự giả trá, anh ta sẽ không làm như vậy; và trong trường
hợp này
anh ta phải chịu đau nhiều hơn nữa. Anh ta sẽ đập đầu vô tường cho tới
khi bất
tỉnh. Tỉnh dậy, anh ta khiếp sợ nhìn bức tường, cho tới một ngày, anh
ta lại tiếp
tục đập đầu vô tường; và lại bất tỉnh. Cứ thế mà làm, đừng trông mong,
hy vọng.
Và tới một ngày, anh ta sẽ thức dậy, ở bên kia bức tường. Có thể, anh
ta vẫn ở
trong phòng giam, may ra rộng hơn một chút. Nhằm nhò chi chuyện đó, anh
ta đã
tìm ra chiếc chìa khoá phòng giam; anh ta đã biết được điều bí ẩn; cái
điều bí ẩn
này sẽ phá vỡ mọi bức tường. Anh ta đã vượt lên trên cõi mà người đời
gọi là
thông minh, là trí tuệ, để bắt đầu cái cõi được gọi là minh triết
(wisdom).”
Điều mà
Milosz không thể “chạy làng”, không thể ngưng tìm kiếm, đó là phía bên
kia bức
tường. Và cái điều mà ông kiếm thấy vào năm 1953 có thể coi là khởi đầu
của
minh triết (2).
Chúng ta phải
coi cái đẹp như là trung gian giữa cái cần và cái tốt (mediation
between
necessity and the good), giữa trầm trọng và ân sủng (gravity and
grace). Milosz
cố triển khai tư tưởng này trong tác phẩm “Sự Nắm Bắt Quyền Lực”, tiếp
theo “Cầm
Tưởng”. Đây là một cuốn tiểu thuyết viết hối hả, với ý định cho tham dự
một cuộc
thi văn chương, nghĩa là vì tiền, và cuối cùng đã đoạt giải! Viết hối
hả, vậy
mà chiếm giải, nhưng thật khó mà coi đây là một tuyệt phẩm. Ngay chính
tác giả
cũng vờ nó đi, khi viết Lịch Sử Văn Học Ba Lan. Tuy nhiên, đây là câu
chuyện của
thế kỷ. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết tìm cách vượt biên giới
Nga, để sống
dưới chế độ Nazi, như Milosz đã từng làm như vậy. Ông mô tả những động
cơ của
nhân vật của mình:
Vào lúc đó,
anh từ chối thừa nhận lý do, với chính mình, rằng đây là ước muốn được
thanh
hóa, được chia sẻ những bất hạnh của một dân tộc bị lăng nhục. Anh ta
cũng ôm ấp
một hy vọng hoàn toàn phi lý, rằng từ cái mớ hỗn mang, một điều gì mới
mẻ sẽ
nhô lên, một ngày nào đó. Một điều gì chưa có vóc dáng rõ rệt nhưng
chắc là tốt
đẹp hơn. Nhưng bao trùm lên tất cả những động cơ này, là một ước muốn
lớn lao,
và riêng với anh, có vẻ vị kỷ: tái sắp xếp chính mình, làm sao có một
thời
gian, một không gian đâu đó ở bên ngoài cái cuộc đời chính thức
(official
life); ở đó, anh có thể bắt đầu lại mọi chuyện; ở đó, tha hồ mà suy tư
mà chẳng
bị cấm đoán gì hết (nguyên văn: nơi mà tư tưởng thì tự do bởi vì nó
hoàn toàn
không bị cấm đoán).
Như giấc đại
mộng phần thư chính thân xác của mình, của Nguyễn Tuân (3), ở đây là
cái đầu bị
cầm đánh lừa chính nó. Nó ôm ấp giấc đại mộng tiến hoá của thế kỷ 19,
và coi chủ
nghĩa phát xít có lẽ là giai đoạn cuối cùng, và cần thiết để “lịch sử
sang
trang”, nghĩa là chấm dứt chủ nghĩa tư bản. Nhưng, như Nguyễn Tuân với
thói ngông
của một nghệ sĩ, cái đầu tuy bị cầm nhưng vẫn cho ta là nhất: nó vẫn
thờ phụng
cái tôi tàn khốc đang trông chờ một cơ hội làm mới lại chính nó. Tuy
nhiên đằng
sau những ảo vọng, là bờ bên kia, tức niềm ân sủng: động cơ mơ hồ, tiềm
ẩn mong
được tẩy trần (purified), thông qua đau khổ, nhục nhã, và từ đó, cảm
nhận ra rằng
có một điều gì thiêng liêng, ở bên kia bờ ảo vọng. Nhân vật chính của
cuốn tiểu
thuyết, như Milosz, sẽ sống sót chế độ Nazi, sẽ cố gắng làm việc với
chính quyền
mới bị Liên xô thống trị, và sau cùng sẽ đào thoát qua Tây phương để
lại bắt đầu
cuộc đời của mình. Nhưng chúng ta không thể biết, liệu anh ta có tới
được cõi
minh triết hay không.
Tuy nhiên, một
nhân vật ở trong cuốn tiểu thuyết đã hoàn tất được cuộc hành trình này:
giáo sư
Gil. Những suy tưởng hậu chiến của ông mở ra và chấm dứt cuốn truyện.
Gil đã mất
người vợ và đứa con trai độc nhất của họ trong chiến tranh. Ông bị tống
ra khỏi
chức vụ của mình ở đại học bởi những người cộng sản và sống sót bằng sự
bố thí
của họ, qua công tác dịch thuật. Đám trẻ Ba Lan coi ông như một thứ tàn
dư trưởng
giả. Thế là ông được yên thân để làm công tác dịch thuật. Ông cảm thấy
như bị
cơn dịch ở Athens cuốn băng đi, như nó đã từng cuốn băng cư dân và hứa
hẹn của
một miền đất. Không phải sức mạnh ở nơi Gil đã cứu thoát cư dân; cứu
thoát gia
đình của riêng ông, lại càng không phải. Nhưng ông thử “bằng cách sử
dụng tất cả
sức mạnh của tưởng tượng” để tái tạo (recreate) “những dáng dấp, điệu
bộ của
người đàn bà, đau thương của một miền đất, nét mặt người đàn ông khi
nhìn đứa
con bị chết, vóc dáng những ngón tay, độc nhất, không thể bắt chước
được, trong
khi ôm vò rượu vang.” Nếu ông có thể làm được này, như vậy là [con
người sẽ vượt]
được thời gian (nguyên văn: thời gian sẽ bị vượt): “Hàng hàng con người
riêng lẻ,
sẽ cùng hiện diện, và như vậy sự đồng hiện diện sẽ lớn lao biết là
chừng nào:
những con người đã từng sống, và chưa có được một cơ may chia sẻ cho
nhau, cùng
một lời than thở”. Giáo sư Gil như vậy là đã tới được cõi minh triết
cao nhất của
ông.
Chú thích:
(1)
Coates: Irony and Choice, (Trớ trêu và
Chọn Lựa), trang 140. Cách nhìn rõ rệt nhất phòng triển lãm những cái
đầu bị
giam cầm của Milosz, là của Madeline Levine, trong “Báo động đối với
Tây
phương: Văn xuôi của Milosz trong thập niên 1950. Giữa Bồn Chồn và Hy
Vọng
(Between Anxiety and Hope), trang 112-133. Như Levine chỉ ra, người ta
có thể
nhận diện được những khuôn mặt quen thuộc của sân khấu văn chương Ba
Lan thời kỳ
đó, qua phòng tranh của Milosz.
(2)
Sau khi xuất bản Cầm Tưởng, Milosz nhận
được thư khen ngợi của một tu sĩ (an
American Trappist monk), Thomas Merton, cũng vừa nổi tiếng qua tác phẩm
tự thuật
về mình. Cả hai bắt đầu trao đổi thư từ, và chỉ chấm dứt khi tu sĩ mất.
Ngay
trong những lá thư đầu tiên, Milosz đã thúc giục Merton hãy tìm đọc
Weil, và
ông đã trích dẫn Camus; nhà văn người Pháp này, tác giả của những cuốn
như “Con
Người Nổi Loạn”, đã coi Weil là một tâm linh thuần khiết nhất (the
purest
spirit) của thế kỷ 20. Qua trao đổi, Milosz đã kết án chính cuốn sách
Cầm Tưởng
của mình, khi cho rằng đã tỏ ra tức giận đối với những trí thức chọn
lựa thái độ
để cho cái đầu bị cầm tù, trong giả trá và lầm lẫn; và ông đã không
chuyển tình
yêu thương mà ông vẫn dành cho họ. [Ghi chú 1 và 2,
là của Leonard Nathan và Arthur Quinn, tác giả
cuốn “Tác Phẩm của Nhà Thơ” đã nói tới trong bài viết].
(3)
“Cái giờ nghiêm trọng của đời mày đang
điểm. Bây giờ hoặc là không có bao giờ nữa. Mày phải cương quyết. Không
có thứ
nhân đạo nào cấm mày không được tàn nhẫn ngay với mày. Mày hãy diệt hết
những
con người cũ ở trong mày đi – những con người mà mày mệnh danh là cố
nhân, theo
một cái cố tật ưa du dương với kỷ niệm. Đào thải, chưa đủ. Phải tàn
sát. Giết,
giết hết. Thò đứa nào ở dĩ vãng hiện về đòi hỏi bất cứ một tí gì của
mày bây giờ,
là mày phải giết ngay. Mày phải tự hoại nội tâm của mày đi đã. Mà hãy
lấy mày
ra làm lửa mà đốt cháy hết những phong cảnh cũ của tâm tưởng mày”…
Chàng chạy
ra đường. Ngoài đường, cuộc Cách Mệnh đang bước dài trên khắp ngả phố.
Trên các
cửa sổ mở, gió đời lùa cờ máu bay theo một chiều… Nguyễn thấy mệt mỏi
trong
lòng và trên thân chàng thì xót nhức vô cùng. Thì ra, lúc ở nhà ra đi,
chàng vừa
chịu xong một cái nhục hình. Lý trí đã lột hết lượt da trên mình
Nguyễn… Cái luồng
gió ban nãy thổi cờ máu, thổi mãi vào thịt non Nguyễn đang se dần lại.
Nguyễn
thèm đến một con rắn mỗi năm thoát xác một lần…
Trích “Lột
Xác”, của Nguyễn Tuân, in trong tuyển tập Nguyễn Tuân, tập I, nhà xuất
bản Văn
Học, Hà Nội, ấn bản năm 2000.
Nguyễn Quốc
Trụ
|