|
Vũ Trụ Của
Một Nhà Văn
Linda Lê: Dữ dằn, trật
trìa, loạng
quạng.
(Farouche et décalée).
Trong tuyển tập truyện ngắn mới xuất
bản, nữ thuyết gia biến
thành người kể chuyện. Một thứ chuyện về một thực tại đôi khi kỳ quái
và độc ác
và thật khó mà giữ được lành lặn, cả tâm hồn lẫn thể xác.
Pascale Frey
Tôi có cảm tưởng tôi cưu mang một xác
chết. Rõ ràng, đó là
Việt-nam mà tôi mang trong tôi, như một đứa trẻ chết.
Phỏng vấn nhân dịp phát hành Thư
Chết
Tôi đã quá lý tưởng hóa ông bố, và tôi
nghĩ rằng, tôi sợ
rằng, ông sẽ không đúng như là những kỷ niệm mà tôi còn giữ được về
ông. Lần
đầu tiên tôi trở về Việt Nam,
là sau khi ông mất. Rồi lần thứ nhì, cách đây ba năm, và tôi ngỡ ngàng
lại khám
phá ra đất nước này."
"Văn chương không phải được làm ra bởi
những kẻ thoát
nạn, trắng án; không được làm ra bởi những tên chức sắc, những kẻ được
đời đãi
ngộ. Nó ở trong trại những nạn nhân, những kẻ hi sinh, ở trong trại
những kẻ bị
kết án; và như tôi, cho dù biết chỉ là đập đầu vào tường, nghĩa là vô
phương,
nhưng họ vẫn cố tìm cứu rỗi."
"Rồi bạn sẽ thấy, chẳng có gì hết, ở
đó",
Dominique Bourgois, người biên tập và xuất bản sách của Linda Lê nói về
nơi ở
của bà.
Và Linda Lê, qua điện thoại: "Bạn có thể tới, nhưng tôi
không có gì ghê gớm [để mà cống hiến cho mục viết cả bạn] đâu.
Đồng hội, đồng
thuyền, với một nụ cười
đầy sức thuyết phục
trên môi: "Chúc may cho [mục] ‘Vũ trụ của một nhà văn” của bạn.". Và
trước mặt tôi là một căn phòng rạng ngời, tại một trong những con phố
nhỏ của
Paris tràn đầy quyến rũ, bên cạnh công trường Saint-Sulpice, những bức
họa trên
tường, những bàn ghế bầy biện, những cuốn sách, và luôn cả, một cái lò
vi ba!
Chót vót trên lầu năm của một tòa nhà, tắm đẫm ánh mặt trời, nơi chốn
này đúng
là một liêu trai [nơi ẩn trốn và còn là phòng văn] của người phụ nữ trẻ
đã từ
năm năm nay. Bây giờ, lần thứ hai trong đời viết của mình, Linda Lê cho
ra đời
một tuyển tập truyện ngắn. Những bản văn quái dị, theo tất cả những ý
nghĩa của
từ này, những câu chuyện kể đúng là những phôi thai cho những cuốn tiểu
thuyết,
nhưng nhà văn đã thích thú, khi tha hồ chuyển chúng thành những câu
chuyện cổ
(contes) nho nhỏ, một thứ chuyện thần tiên, nhưng mà thần tiên lại vắng
mặt ở
trong đó. Thí dụ như câu chuyện này: một cô ruồi mời tất cả bạn bè của
mình tới
căn phòng mà chủ nhân là một người rất niềm nở, và người này sau cùng
đã trở
thành mồi ngon cho lũ côn trùng xâu xé. Hay là cái lọ mực thần đọc
những ước
muốn giết người cho nhà văn là ông chủ của nó. Hay là cuộc gặp gỡ cuối
cùng
biến thành một cuộc thảm sát, giữa một tiểu thuyết gia và kẻ gây ra cơn
điên
loạn của mình.... "Thoạt đầu, chỉ là những chi tiết rất đỗi bình thường
của cuộc sống thường nhật, thế rồi chúng trở thành khủng khiếp, đối với
tôi. Tôi
đã viết những bản văn ngăn ngắn như thế cho ‘France Culture’, và điều
này làm
tôi hài lòng."
Linda Lê sinh tại
Việt Nam,
và sống ở đó đến năm 14 tuổi. Ở nhà, họ nói tiếng Việt, nhưng bà mẹ,
một người
nói tiếng Pháp, đã muốn mấy người con gái của mình theo học trường
Pháp.
"Tôi đọc rất nhiều", Linda Lê nhớ lại, "chủ yếu là bằng tiếng
Pháp, thư viện là nơi nuôi dưỡng, cất giữ thực phẩm của tôi, và vào
khoảng từ
10 đến 15 tuổi, tôi đã ngốn hết nào là Victor Hugo, nào là Balzac." Tôi
chưa viết, nhưng biết là mình sẽ viết, một ngày nào đó." Hai năm, sau
khi
Sài Gòn sụp đổ, Linda Lê sống ở Pháp với bà mẹ và mấy chị em. Ông bố,
chọn ở
lại. Họ viết thư cho nhau thường xuyên, nhưng bà không bao giờ gặp cha,
và vết
thương này xâu xé từng trang giấy mà bà đã viết, trong nhiều cuốn sách
của
mình. "Khi xứ sở mở cửa, tôi không thể trở về. Tôi đã quá lý tưởng hóa
ông
bố, và tôi nghĩ rằng, tôi sợ rằng, ông sẽ không đúng như là những kỷ
niệm mà
tôi còn giữ được về ông. Lần đầu tiên tôi trở về Việt Nam,
là sau khi ông mất. Rồi lần thứ nhì, cách đây ba năm, và tôi ngỡ ngàng
lại khám
phá ra đất nước này." Mặc dù gốc gác như vậy, Linda Lê cảm thấy mình là
mình, ở Paris, "cho dù nếu
tôi
là một kẻ cô đơn, và tôi không thích cuộc sống về đêm. Nhưng tôi yêu
mến những
thành phố và những thư viện, những rạp xinê của chúng." Sáng sớm, bà ra
khỏi nhà, và đi tản bộ trên những con phố hoang vắng. Xế trưa, đi xem
xinê, một
trong những đam mê của bà, cùng với văn chương. Viết, buổi sáng, và
buổi chiều.
Khi mới tới, vào thập niên 70, bà sống 4 năm tại Havre, như là một
người hồi
hương (repatriée). Sau đó, lên Paris,
trong túi là một học bổng. "Nói gì thì nói, tôi phải rời Việt Nam.
Tôi vốn thích học ở Pháp." Bà lúc đó 18 tuổi, và chẳng quen biết ai,
nhưng
biết mình sẽ viết. Ba cuốn đầu tay đã biến mất trong thư mục của bà,
"bởi
vì chúng không còn mắc mớ gì tới tôi nữa (ils ne me correspondent
plus). Với
tôi, đây là một thứ tiền sử, không còn thuộc vào phần đời tôi." Tác
phẩm
đầu tiên mà bà thực sự chấp nhận, đó là "Les Évangiles du crime" (Tạm
dịch: Những phúc âm của tội ác),
gồm bốn tân truyện (tạm dịch từ
‘longue
nouvelle’), Juliard xuất bản, nhưng sau đó, là do Christian Bourgois.
"Sau khi cha tôi mất, cuộc sống trở
nên thật là khó
khăn đối với tôi. Tôi phải mất năm năm để sắp xếp lại mọi chuyện. Tôi
lâm vào
tình trạng tự hủy, có những lúc, những từ mà tôi viết ra, và những từ
mà tôi
đọc, chúng vuột khỏi tôi."
Linda Lê, mặc dù rất ư nhút nhát, e
lệ, nhưng cũng không kém
phần hóm hỉnh, diễu cợt, bà cứ thế dạo qua cuộc đời của mình, khi nói
về nhân
vật chính ở trong Những Kẻ Buôn Lậu ở Moonfleet, của [nhà đạo diễn Đức]
Fritz
Lang, một phim ruột (film-culte) của bà, và rồi kết luận ngắn gọn, như
một kiểu
đánh trống lảng, về quãng đời cứ thế chúi sâu mãi vào cõi tự hủy: "Kinh
nghiệm này cũng có lợi!"
Căn phòng này ư? Cũng đâu có quá khác
thường, phải không?
Một hành lang đầy sách. Rất nhiều văn chương ngoại. Faulkner và
Nabokov, Jean
Rhys và Sylvia Plath, những tác giả Nga và Đức thế kỷ 19. Đã từ lâu,
Linda Lê
viết những bài tựa tuyệt vời cho cho những tác phẩm cổ điển mà Tủ Sách
Bỏ Túi
đang tái in lại. Trên tường là một số những tái phẩm (reproductions):
chân dung
của Leonor Fini, trông thật dễ sợ, những bức họa của Léon Spilliaert,
một họa
sĩ người flamand, thế giới tranh của ông xứng hợp lạ lùng với thế giới
sách của
bà. Phòng khách - còn là nhà bếp, nhưng chẳng bao giờ bà nấu nướng – có
một máy
truyền hình nhỏ, còn dùng làm máy video cho những cuốn phim mà bà say
mê,
thường là phim cổ điển. Tất cả như nói lên một điều, và bà thừa nhận,
với một
chút bối rối: "Tôi là một người quá ư ngăn nắp, giống như một thứ
bịnh."
Trong phòng ngủ, còn là phòng văn,
chẳng có một tờ giấy nào
vương vãi. Ngay khi viết xong một chương, bà cho chúng vào trong một
chiếc
phong bì. Phần con lại của bản thảo, được cất trước đó, trong tủ. Trong
một tủ
khác, là quần áo. những thứ thật cần thiết. Không máy điện toán
(computer),
nhưng, một máy đánh chữ. Ngay bên giường ngủ, là những cuốn sách, mà bà
ưa đọc
đi đọc lại: những cuốn của Stig Dagerman, Thomas Bernhard, Borges,
Pessoa, hay
của Ingeborg Bachman. Có một thời, trong cuộc đời của mình, Linda Lê cứ
ôm riết
những nhân vật què quặt, những kẻ mà tâm hồn có gì bị thương tật, mà bà
cảm
thấy thật gần gụi. "Bây giờ, tôi cảm thấy có chút hãnh diện là đã trật
khớp, xê xích được chính mình, ra khỏi cái thời của mình. Tôi rất yêu
bước
ngoặt giữa thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Tôi muốn được sống ở đó, nhưng tin
rằng, nếu
như thế, tôi lại cảm thấy trật khớp".
[Chuyển ngữ bài viết của Pascale Frey,
trên tờ Đọc (Lire) số
tháng Năm 2002. Số báo này có hai bài viết về tác giả Việt Nam, là
Nguyễn Huy
Thiệp và Linda Lê (NHT, là nhân tập truyện Vàng và Lửa, bản dịch tiếng
Pháp của
Kim Lefèvre, được nhà Rạng Đông xuất bản). Tập truyện mới nhất của
Linda Lê
nhan đề "Những trò chơi khác với lửa" (Autres jeux avec le feu), 193
trang, nhà xb Christian Bourgois, 15 ơ-rô].
Bonnes Nouvelles, Tin Mừng, [Good
News], nhưng cũng
còn có nghĩa những truyện ngắn hay. Đó là nhan đề bài viết chào mừng
Linda Lê,
trên tờ L'Express, số đề ngày 27 tháng Năm, 2002.
Và cùng với bà và một số nhà văn khác,
là sự trở về của thể
loại truyện ngắn - một thể loại khó chơi - tại nước Pháp.
Theo Michel Grisolia: Ở điện chư thần
dành cho những ông tổ
sư truyện ngắn, là Maupassant. Ở quán cà phê chuyên bán kèm những bài
tản văn,
là Philipe Delerm. Ở siêu thị dành riêng cho loại truyện cực ngắn có
tên là
"fictionnette", là Anna Gavalda. Hai tác giả vừa kể tên này đã chẻ
"thực thể", hay là cái sự thực hiển nhiên, ra thành những lá bánh
cuốn Tranh Trì mỏng dính, và từ đó, biến món đặc sản này – truyện ngắn
– thành
những món hàng bán chạy như tôm tươi (best-sellers).
Liệu đã đến lúc truyện ngắn lại được
đăng quang? Hay đây chỉ
là một chiến thuật quảng cáo mang tính thương mại tại Pháp.
"Đừng vội mừng", chủ nhân nhà xuất bản
Christian
Bourgois phản ứng. Nhà xb này vừa mới cho ra lò một mẻ truyện ngắn nóng
hổi vừa
thổi vừa ăn, của Linda Lê,
"Những trò chơi khác với lửa". "Người
Pháp không thích truyện ngắn, tại sao không dí vào tay họ, bắt họ phải
nhận
nó?", vị chủ nhà sách nói thêm, giọng hóm hỉnh.
Riêng về Linda Lê, con số phát hành
tương đương với những
cuốn tiểu thuyết của bà: 4 ngàn ấn bản. Như vậy là được (raisonnable),
nó cho
phép Linda Lê cứ thế nhẩn nha, tà tà mà sống. Được dịch ra tiếng Đức,
tiếng Bồ
Đào Nha, tiếng vùng Pays-Bas, được ấn hành vào dạng bỏ túi, được mời
tới nơi
này, nơi nọ, tất cả các nơi, ngày mai là London, sau đó là Đài Loan,
nhà văn
hiếm này (cette écrivain rare) đã ký [hợp đồng] với Jacques Dutronc, để
cho ra
lò những bài hát truyền cảm, quyến luyến (des chansons attachantes), ký
với nhà
xb loại sách bỏ túi (Livre de poche/Biblio), những bài tựa nặng ký,
chưa kể
những bài viết cho một tờ báo thật là điệu nghệ ở New York, tờ Grand
Street
(Phố Lớn).
Mười bốn truyện ngắn của "Những trò
đùa khác với
lửa" xoay quanh một đề tài độc nhất: Viết và Chết (l’écriture
et la
mort).
Một nàng ruồi trở thành nàng thơ của một tay mê văn nghệ, một từ bật ra
khỏi
cuốn sách để đợp độc giả của nó, ngay ở cổ họng. Một đầu là sự tuyệt
vời, đầu
kia là sự ghê rợn. [Bạn có thể đảo ngược trật tự, giữa hai từ trên].
Những bản
văn gớm ghiếc, ớn xương sống, nhung cũng thật êm ái, dịu dàng, cho thấy
một
điều: tác giả của chúng muốn mở lòng mình ra với tha nhân. Mở lòng mình
theo
nghĩa: giải phóng. Một nghệ thuật lớn.
Vị chủ nhà xuất bản của bà nói thêm,
giọng đầy bảo đảm:
"Khi bạn xuất bản những truyện ngắn của một nhà văn, thì đây không
phải
là một vấn đề liên quan tới tiền bạc, tài chính, mà là sự tin cậy,
trung
thành."
Tiểu sử:
3 tháng Chín, 1963: Sinh tại Đà Lạt
(Việt Nam).
Cha là kỹ sư. Ông chỉ nói tiếng Việt, ngược hẳn với bà mẹ của Linda Lê.
1968: Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân
của Cộng Sản tại Miền
Nam Việt Nam.
Trên đường di tản, lần đầu tiên trong đời, Linda Lê nhìn thấy những xác
chết ở
bên đường.
1969. Gia đình định cư tại Sài Gòn.
1975: Quân đội Bắc Việt tiến vào Sài
Gòn
1977. Linda Lê, mẹ, và ba chị em của
bà, rời Việt Nam
định cư tại Havre. Ông bố không có ý định rời bỏ đất nước, đã ở lại.
1981: Học lớp dự bị (préparatoire) tại
trung học Henri-IV.
Thập niên 80: Xuất bản hai cuốn đầu
tay, "những tiểu
luận về tiếng nói" (des "essais de voix"), mà sau đó bà chối bỏ
(renier), một thứ "văn phong cứng nhắc như bị nịt, quá mang tính ứng
dụng", chúng không còn có trong thư mục những cuốn sách của bà.
1992: Cuốn sách mặc khải của bà, tiểu
thuyết "Những
phúc âm của tội ác", do nhà Juliard ấn hành.
1995. Ông bố, mà từ lâu, cả hai vẫn
thường xuyên liên lạc
qua thư từ, tính làm một chuyến du lịch Pháp. Nhưng chết trước đó ít
lâu. Linda
trở về Việt Nam
lo việc an táng.
1995-1997: Linda Lê
viết "Les Trois Parques" (Ba
vị nữ thần số mệnh), một thứ "huis clos" (hộp kín), gồm mấy chị
em,
(hai chị em ruột, một chị em họ), trong khi chờ đợi ông bố. Ông này
chết, ở
cuối cuốn tiểu thuyết. Liền sau đó, bà trải qua một cơn khủng hoảng
tưởng biến
bà trở thành điên và câm. "Tôi có cảm tưởng sống trong những cơn ác
mộng,
trong đó, con người kêu la mà chẳng có âm thanh nào thoát ra khỏi cổ
họng. Tôi
có cảm giác như bị ai bóp họng, nghẹt thở. Lần đầu tiên, tôi có cảm
tưởng rằng
những con chữ cũng chẳng có thể giúp đỡ gì cho tôi."
1998: Viết trở lại. Xuất bản "Tiếng
Nói", nhà xb
Christian Bourgois (từ năm 1993).
[ L'Express số đề ngày 17 tháng Năm
2002]
Jennifer Tran chuyển ngữ
|