A belief
like a guillotine – as heavy
as light.
Franz Kafka: Reflections on Sin, Suffering, Hope, and the True Way
[Niềm tin thì cũng giống như cái
máy chém. Nặng như thế. Mà nhẹ, cũng
như thế].
Hai Lúa tin rằng nhà thơ VC Phạm Tiến
Duật phải đã từng đọc Kafka, nhất là câu trên, mới nẩy ra hứng sáng
tác, câu thơ thần sầu:
Đường ra trận mùa này đẹp lắm!
Cái máy chém đó. Niềm tin đó.
Nhẹ và đẹp, như câu thơ của họ Phạm.
Nặng, là cái chết của ba triệu người, ở cả hai miền, kể cả thường dân
và binh sĩ.
Bằng con số nạn nhân Lò Thiêu.
One reads in order to ask questions.
Kafka [ Alberto Manguel trích dẫn, trong A history of Reading]
Người ta đọc, để hỏi.
Yet any translation, however influencial, harbors its own dissolution.
Literature endures; translation, itself a branch of literature, decays.
Cynthia Ozick: The Impossibility of
Being Kafka, Sự Không Thể Là Kafka. In trong Quarrel & Quandary, tập tiểu
luận, nhà xb Vintage, 2001.
Dịch, cho dù ảnh hưởng tới cỡ nào, cũng chỉ là trò thả mồi bắt bóng,
nghĩa là, lấy cái tâm sự nát tan - hay như người ta nói, sự phản bội
kia - như là niềm cưu mang của chính nó:
Giật mình, mình lại thương mình xót xa!
Văn, như gừng, càng già càng cay.
Dịch, như củi, càng lâu càng mục.
Tam sinh vạn vật.
Cuốn Vụ Án của Kafka đứng số 3, trong
Bảng
Phong Thần Cuối Cùng trước khi dâng hiến tất cả cho lò thiêu.
Đây là kết quả cuộc bỏ phiếu của sáu ngàn độc giả Pháp, lựa chọn 50
cuốn sách của thế kỷ vừa qua, và được bình bởi Frédéric Beigbeder.
Tại sao số 3?
Có lẽ vì tam sinh vạn vật.
Frédéric Beigbeder thì cho rằng, có lẽ tại tĩnh từ “kafkaien” mà ra.
Nó nói lên, phận người, tức nỗi sợ… sắp hàng tại
một
cơ quan nhà nước, thí dụ như phòng xuất cảnh chẳng hạn, và khi tới lượt
thì chẳng có tên mình:
-Sao, ông nói sao? Tôi không phải số... 3 hả? Xin ông coi lại hồ sơ
giùm. Tôi số 3 mà, chắc chắn có sự nhầm lẫn ở đây, tôi chắc chắn có tên
trong danh sách chuyến bay… HO này mà!...
Đó là nỗi sợ con quái vật bàn giấy (angoisse bureaucratique), là cái
phận người tủi hổ “như một con chó”, “sự tủi hổ sống dai hơn tôi”, của
Joseph K, nhân vật chính trong Vụ Án.
Joseph K. là một nhân viên nhà băng, ít nói, độc thân, cả đời chưa từng
đòi hỏi ai bất cứ một điều gì, một bữa bị những nhân viên nhà nước ăn
mặc đồng phục bắt. Họ nói, anh sẽ bị đưa ra tòa xử, Nhưng anh có làm
chuyện gì đâu! Đâu cần làm, và thế là cả thành phố đều biết. Người ta
thả lỏng anh, nhưng lúc nào cũng có người trông chừng…
Liệu có thể coi, Vụ Án là một thứ tiểu thuyết luận đề, chính trị tố cáo
chủ nghĩa toàn trị? Có thể, nhưng hơn thế, đây là một thứ “chống lại
phận người”, theo nghĩa: vào đời nghĩa là vào với tra tấn và tử vong.
Vụ Án chẳng tha một ai trong số chúng ta.
Trong một tác phẩm mới đây, Pierre Dumayet viết, một cách ngồ ngộ, rằng
“Với Kafka, sự nhục nhã, tủi hồ chính là ‘phong cảnh quê ta’ [“chez
Kafka, l’humiliation est un paysage”].
Nhưng, ‘may mắn thay’ với Kafka, còn là những câu chuyện hài, và chính
cái hài này, “nó” cứu rỗi.
Ở Việt Nam, bạn có thể tìm thấy cái chất hài này, qua những câu chuyện
có tí hiện thực ma tuý - huyền ảo thì cũng rứa - thí dụ như của Hồ Anh
Thái, hoặc loại chuyện thiếu nhi dành cho người lớn, như truyện dài
“Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” của Nguyễn Ngọc Thuần, hoặc thứ phê bình
văn học của Trần Đăng Khoa chẳng hạn.
Nên nhớ, Kafka đã từng đọc bản thảo cho bạn bè nghe, và vừa đọc, vừa
cười ngặt ngẽo [en hurlant de rire, chữ của Frédéric Beigbeder).
Từ đó, chúng ta hiểu được, không phải Thượng Đế, mà là con người, bị
kết án phải... cười. Với Kafka, tất cả những câu chuyện buồn tủi nhục
nhã khốn khổ của ông (Vụ Án và luôn cả Toà Lâu Đài, và Hoá Thân) đều là
những câu chuyện tiếu lâm to tổ bố, grosses farces, vẫn chữ của
Frédéric Beigbeder. Theo ông này, Kafka đi trước đám Tiểu Thuyết Mới ở
Tây cả nửa thế kỷ, 12 chương của Vụ Án được viết bằng một thứ văn gẫy
đoạn, người ta có thể nói, của
Nathalie Sarraute.
Vụ Án còn là một thứ chuyện “Liêu
Trai” có tính tiên tri (un fantasme prophétique), như rất nhiều cuốn
sách khác ở trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng. Cuốn tiểu thuyết được in
và xuất bản vào năm 1925, nhưng Kafka đã viết nó mười năm trước, tức là
năm 1914, trước khi có cuộc cách mạng Nga, Cuộc Đệ Nhất Thế Chiến, chủ
nghĩa Quốc Xã Nazi, chủ nghĩa Stalin: thế giới được miêu tả ở trong
cuốn sách, chưa hiện hữu, chưa “đi vào hiện thực”. Vậy mà ông nhìn
thấy! Liệu có thể coi ông là Ông Thầy Bói Nostradamus của thế kỷ 20?
Không phải vậy: cái thế kỷ có tên là
Goulag đó chỉ là một đứa trẻ ngoan ngoãn tuân theo lời phán bảo của ông
thầy của nó, mà thôi.
Ở đây, là một giả thuyết, nghe đến rởn
tóc gáy lên được, và cũng hoàn toàn có tính Kafkaien: Liệu tất cả những
trò kinh tởm của thế kỷ: chiến tranh lạnh, những chuyện đấu tố, luôn cả
bố mẹ, hiện tượng con người có đuôi, con bọ VC, lò thiêu, trại tập
trung cải tạo,
Solzhenitsyn, Orwell…. tất cả là đều nảy sinh từ cái đầu của một anh
chàng làm cho một công ty bảo hiểm ở Prague?
Liệu, hàng triệu triệu con
người chết đó, là để chứng minh cho sự có lý, của một cái đầu chứa đầy
những ác mộng?
*
Tại sao số 3 ?
Có lẽ còn vì, đây là con số 'số mệnh' sinh ra tới hai Con Bọ. Con Bọ VC
và Con Bọ trong Hoá Thân của Kafka.
Bài viết tuyệt vời của Nabokov về Hoá Thân xoay quanh con số 3 khủng
khiếp này. (1)
(1) Résumons quelques-uns des thèmes
principaux du récit.
1. Le nombre trois joue
un rôle considérable dans l'histoire. L'histoire est divisée en trois
parties. La chambre de Gregor compte trois portes. Sa famille est
composée de trois membres. Trois domestiques apparaissent dans cours du
récit. Les trois locataires ont trois barbes. Les trois Samsa écrivent
trois lettres. [ Con số ba đóng một vai đáng kể trong câu chuyện. Câu
chuyện được chia làm phần. Gia đình có ba người. Ba người làm xuất hiện
theo tình tự của câu chuyện... Tôi thật cẩn thận khi không cố tình
cường điệu về ý nghĩa của những biểu tượng như thế, bởi vì một khi tách
ra khỏi truyện, là chúng bốc hơi, chẳng còn có ý nghĩa gì cả].
Còn Con Bọ VC, là do con số 3 gây nên:
Con số 3 làm nên hình chữ S.
Đây là điều mấy ông VC chửi Tây mũi lõ
thực dân cũ, cố tình chia để trị, nhưng sau ngày 30 Tháng Tư 1975, nước
nhà thống nhất rồi, thì mới thấy mấy ông mũi lõ có lý.
Tao chia chúng mày ra để chúng mày không giết lẫn nhau !
[Nabokov hỏi: Ba người trong gia đình, đứa nào cũng bóc lột... con bọ,
nhưng đứa
nào tàn nhẫn nhất: Ông bố, bà mẹ, hay đứa em gái? Tương tự, chúng ta tự
hỏi, và tự trả lời...]
Tao đâu có gây ra thảm họa Thuyền Nhân.
Tao đâu có biến Việt Nam của chúng mày thành một "Anus Mundi" vào năm
1975? (1)
(1) Anus Mundi có nghĩa là hậu môn của
thế giới. Theo Milosz, một người Đức đã viết ra định nghĩa này, để chỉ
xứ Ba Lan, vào thời điểm 1942.
Nhưng Anus Mundi lại làm cho người đọc liên tưởng tới từ Anno Mundi,
tiếng La Tinh, có nghĩa là "vào năm của thế giới" [in the year of the
world], tức khi thế giới bắt đầu.
Milosz định nghĩa Anus Mundi: The cloaca of the world. [Hậu môn của thế
giới]
Như chúng ta đã biết, chỉ có loài vật
thượng đẳng mới có cơ quan sinh
dục riêng, hậu môn, nơi để bài tiết, riêng. Với loài hạ đẳng, chỉ có
cloaca, tức hậu môn, dùng cho cả hai việc, làm cơ quan sinh dục và làm
nơi bài tiết.
Xứ sở Balan vào năm 1942, là anus mundi, là theo nghĩa đó.
Khi Gấu mượn từ này của Milosz, trong bài viết về Nếu Đi Hết Biển của
Trần Văn Thuỷ, là theo nghĩa của từ Anno Mundi, năm bắt đầu thế giới,
và còn theo nghĩa năm Thượng Đế từ bỏ chúng ta, của triết gia người Do
Thái, Emmanuel Levinas.
Và Gấu coi đó là năm 1975, đối với Việt Nam.
Hậu môn của thế giới.
Năm Thế Giới.
Năm "Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người". [TCS].
Năm chân lý "nước Việt Nam là một", bị lường gạt.
Bị làm nhục.
Nếu đi hết biển
*
Gunter Grass tin rằng, cái xứ sở Đức
của ông, bởi vì cứ muốn thống nhất theo kiểu trung tâm, chỉ có một thủ
đô là... "Hà Nội", sông có thể cạn,
núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi, mà gây nên thảm
họa không chỉ cho nó, mà còn cả Âu Châu:
"Cơ cấu xã hội chúng tôi không như
Pháp: Paris
ở một phía, phía kia là tỉnh lỵ. Chúng tôi không có thủ đô: ngay cả Berlin
cũng không "sáng ngời" như Paris,
Luân đôn, hay Varsovie. Chúng tôi có quá nhiều thủ đô, quá nhiều trung
tâm; đó
là tình trạng chia cắt của nước Đức sau cuộc chiến 30 năm. Đây cũng là
sức mạnh
của chúng tôi. Nhưng khi chúng tôi muốn bắt chước những nước láng
giềng, cũng
muốn một chủ nghĩa trung tâm (centralisme), câu chuyện đã không xuông
xẻ.
Bismack, rồi Hitler là những toan tính, cuối cùng là thảm họa. Tôi tin
rằng
những quốc gia láng giềng, vốn đã đau khổ vì nước Đức, họ sẽ được yên
tâm hơn,
nếu 80 triệu dân Đức cứ tiếp tục con đường liên bang của họ. Nhưng
chẳng ai
chịu nghe tôi cả!"
Phởng vấn Grass 2
Dịch Kafka
A belief like a guillotine – as heavy
as light.
Franz Kafka: Reflections on Sin, Suffering, Hope, and the True Way
[Niềm tin thì cũng giống như cái máy chém. Nặng như thế. Mà
nhẹ, cũng như thế].
Hai Lúa tin rằng nhà thơ VC Phạm Tiến Duật phải đã từng đọc
Kafka, nhất là câu trên, mới nẩy ra hứng sáng tác, câu thơ thần sầu:
Đường ra trận mùa này đẹp lắm!
Cái máy chém đó, nhẹ và đẹp như là câu thơ của họ Phạm.
Nặng, là cái chết của ba triệu người, ở cả hai miền, kể cả thường dân
và binh sĩ.
Bằng con số nạn nhân Lò Thiêu.
One reads in order to ask questions.
Kafka [ Alberto Manguel trích dẫn, trong A history of Reading]
Người ta đọc, để hỏi.
Yet any translation, however influencial, harbors its own dissolution.
Literature endures; translation, itself a branch of literature, decays.
Cynthia Ozick: The Impossibility of
Being Kafka, Sự Không Thể Là Kafka. In trong Quarrel & Quandary, tập tiểu
luận, nhà xb Vintage, 2001.
Dịch, cho dù ảnh hưởng tới cỡ nào, cũng chỉ là trò thả mồi
bắt bóng, nghĩa là, lấy cái tâm sự nát tan - hay như người ta nói, sự
phản bội kia - như là niềm cưu mang của chính nó:
Giật mình, mình lại
thương mình xót xa!
Văn, như gừng,
càng già càng cay.
Dịch, như củi, càng lâu càng
mục.
*
Diễn đàn Talawas, www.talawas.org hiện
đăng bản dịch Nhật Ký
của Kafka, theo như được biết, dịch từ bản tiếng Nga, của Đoàn Tử
Huyến. Thử so
vài đoạn với bản tiếng Pháp của Marthe Robert [một trong những chuyên
viên về
Kafka], thấy có khác.
Kafka là một tác giả "không thể không"
(chữ của
Kafka) dịch, và rất khó dịch, cả về ngôn ngữ lẫn tư tưởng. Kundera,
trong Những
Di Chúc Bị Phản Bội, cho thấy, chỉ một câu văn của Kafka thôi, dịch qua
tiếng
Pháp, cũng có đến vài bản dịch, và đều khác nhau, và Kundera chẳng chịu
một bản
nào, phải tự mình ra tay dịch lại.
Một trong những lý do dịch "hỏng"
Kafka, theo
Kundera, là do người dịch muốn trau chuốt câu văn, muốn tránh trùng
lặp, cho
nên thêm thắt, hoặc thay thế một từ bằng những từ tương tự. Trong khi
K. luôn
luôn, và vĩnh viễn, là K. Frieda là Frieda, không người tình, người
bồ, cũng
không bạn đồng hành, người giúp việc gái, thiếu phụ, thiếu nữ, bạn gái
nhỏ....
Một trong những khó khăn nhất, theo
người viết, khi dịch
Kafka, là làm sao... hiểu ông. Và cách hiểu nào thì cũng chỉ "tạm
thời", bởi vì mỗi thời lại có một cách hiểu Kafka. Hiểu sao thì dịch
vậy,
mỗi dịch giả chọn cho mình một cách dịch.
Mới đây thôi, tờ Văn Học Pháp
(Magazine Littéraire), số
tháng Chạp 2002, đặc biệt về Kafka, đã cho rằng, cách đọc ông theo kiểu
hiện
sinh (existentielle), rằng, đây là một thiên tài nói lên (annonciateur
génial)
những điều ghê rợn của thế kỷ, cách đọc này đã qua rồi. Qua những tài
liệu mới
mẻ về tiểu sử Kafka của Reiner Stach, những nghiên cứu của Félix
Guattari...
cho thấy, nếu không hẳn là một người ‘vui nhộn’ (comique), chắc chắn
đây là một
con người sống động, xăng xái (dynamique), và.... mê gái (amoureux)!
Một con
người nổi loạn, không chịu khuất phục, mặc dù (hay là tại vì, à cause
de) Thư
Gửi Cha (Lettre au Père).
Sau đây trích bài viết của:
1. J. M. Coetzee, nhà văn Nam Phi hai
lần giải thưởng
Booker, nhan đề "Dịch Kafka", trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, NYRB, sau in
trong Stranger Shores, tiểu luận văn học (nhà xb Viking, 2001).
2. Bài phỏng vấn Reiner Stach, người
viết tiểu sử Kafka,
trên tờ Văn Học Pháp. Từ năm 1987, Stach đã cho in một tiểu luận về cái
nhìn
(vision) của Kafka về tình yêu, và về những liên hệ yêu đương. Sau đó,
ông đã
làm việc trên những tài liệu để lại sau khi Kafka mất. Những tài liệu
này là từ
một trong những người yêu (fiancee) của ông, là Felice Bauer, mà người
con trai
ở Hoa Kỳ còn giữ được.
3. Bài viết "Dịch Kafka" trên số báo
Văn Học Pháp
đã dẫn, của Lionel Richard.
I
Vào năm 1921, nhà thơ
Tô Cách Lan Edwin Muir và vợ Willa dời
bỏ công ăn việc làm ở London và tới sống ở Lục Địa. Đồng đô la lúc này
mạnh; họ
hy vọng kiếm đủ sống, bằng cách điểm sách cho tờ báo định kỳ Mỹ, The
Freeman.
Sau chín tháng ở
Prague, vợ chồng Muirs dời tới Dresden, và
họ bắt đầu học tiếng Đức. Willa lo dậy học, trong khi Edwin ở nhà đọc
những nhà
văn mới nhất viết bằng tiếng Đức. Do đồng tiền mất giá tại Đức, họ dời
tới Áo,
rồi Ý, rồi trở lại Anh. Tại đây, họ sử dụng cái vốn tiếng Đức mới có
được, và
trở thành những dịch giả nhà nghề. Trong vòng 15 năm, cho tới khi chiến
tranh
bùng nổ, như lời mô tả của ông chồng, nhà họ giống như một "xưởng dịch
thuật". Cộng chung, họ dịch trên ba chục cuốn, quá nửa là do bà vợ.
"Ôi chao, cuộc đời của hai đứa chúng tôi hầu như phí phạm hết vào việc
chuyển tiếng Đức qua tiếng Anh," ông chồng hối tiếc, than thở, sau đó.
Một trong những may
mắn mở đầu quãng đời phung phí đó, là
cuốn Jud Suss, của Lion Feuchtwanger. Cuốn sách trở thành best-seller,
và những
nhà xuất bản London của họ hỏi, "Ông bà tính làm tiếp, với những tác
giả
nào?" Edwin vốn đã đọc cuốn Das Schloss, của Kafka, xuất bản sau khi
tác
giả đã mất, "Đây đúng là một cuốn tiểu thuyết rất ư là siêu hình, và
thần
bí... một thứ của hiếm, có thể là độc nhất vô nhị", ông chồng viết
trong
một lá thư. Bản dịch của họ được xuất bản năm 1930. Tuy chỉ bán được
500 cuốn,
nhưng Kafka vẫn được tiếp tục dịch: Vạn Lý Trường Thành (1933), tuyển
tập những
truyện ngăn ngắn, Vụ Án (1937), America (1938), và sau chiến tranh, Xứ
Trừng
Giới, In the Penal Colony (1948). Những bản dịch của họ, mặc dù đầy
lỗi, đã
thống trị thị trường tiếng Anh kể từ lúc đó.
Ông chồng, Edwin Muir
thấy rằng, nhiệm vụ của mình không
những "không thể không dịch" Kafka, mà còn phải hướng dẫn độc giả đọc
những bản văn mới mẻ và khó khăn đó. Những bản dịch của họ sau đó đều
có
"đính kèm" những "lời nói đầu", trong đó, Edwin "dẫn
giải" Kafka, gần như hoàn toàn dựa vào bạn bè của Kafka, trong đó có
Max
Brod. Những lời dẫn như thế tỏ ra rất có ảnh hưởng, qua đó, chúng đề
nghị Kafka
như là một "thiên tài tông giáo... ở trong một thời đại bi quan",
"một nhà văn của những ám dụ tông giáo, quá bận rộn với cái chiều không
thể đo được, của cõi đời và cõi thần" (the divine).
Như trên đã viết, mỗi
người chọn cho mình một cách hiểu, và
từ đó, không thể tránh được, là một cách dịch: quan điểm của ông bà
Muirs về
Kafka, như là nhà văn tông giáo đã ảnh hưởng tới những từ ngữ, câu kệ
mà họ sử
dụng trong khi dịch, làm sao ăn khớp với những lời dẫn. Và lẽ dĩ nhiên,
những
độc giả tiếng Anh đầu tiên đã không chút nghi ngờ chấp nhận cách giải
thích
Kafka của vợ chồng Muirs. Dính cứng vào những bản dịch – đặc biệt là
trong Tòa
Lâu Đài và Vụ Án - là cách giải thích của hai vợ chồng Muirs, cả hai,
dịch và
giải như thế đã là nguồn nghiên cứu của những nhà học giả về Kafka. Đặc
biệt, ở
Mỹ, bản dịch năm 1930, và lời bình 1930 được in đi in lại nhiều lần,
gần như
nắm độc quyền, ở Anh, đỡ tệ hơn, có bản dịch mới cuốn Vụ Án (1977), và
Tòa Lâu
Đài (1997).
Nhưng còn một lý do
khác nữa, ngoài chuyện một mình một chợ
của những bản dịch của Muirs. Bản dịch 1930 của họ dựa trên bản văn
1926 của
Brod, và bản này bị "nhuận sắc" (edited) tơi tả, bởi Brod, khi ông cố
tình dành cho thế giới một bản văn theo ý của ông. Chưa hết, ông ta còn
sửa
luôn cả cách chấm câu. Lại thêm lỗi nhà in. Không phải lỗi của họ,
nhưng vợ
chồng Muirs, như vậy, đã dựa vào một nguyên bản "không thể chấp nhận
được".
II
Theo Muirs, thách đố
chính mà người dịch Kafka phải đương
đầu, là làm sao hòa hợp được (reconcile) trật tự từ của Kafka – lẽ dĩ
nhiên là
nằm trong luật lệ của văn phạm tiếng Đức – với tiếng Anh, vốn đọc lên
nghe có
vẻ tự nhiên, và giống như thành ngữ. Với Muirs, từ của Kafka thì "trần
trụi và không thể hiểu sai đi được (infallible)... chỉ trong trật tự đó
Kafka
mới có thể nói điều ông phải nói... Vấn đề chính của chúng ta là tạo ra
một thứ
văn xuôi tiếng Anh, tự nhiên với tiếng Anh như Kafka, theo cách riêng
của ông,
tự nhiên với tiếng Đức."
Không phải dễ, lúc
nào cũng viết ra một cách tự nhiên, nhưng
với Muirs, vấn đề là phải làm sao cho có sự tươi mát trong cách đặt
câu, cộng
thêm sự thay đổi từ. Do đó, xem ra thì có vẻ nghịch lý, bản văn dịch
của Muirs
lại sống động hơn so với nguyên bản của Kafka, bởi vì tiếng Đức mà ông
sử dụng
là theo kiểu kiềm chế (restrained), có thể nói, một thứ tiếng Đức trung
tính,
dửng dưng (neutral), và ông là người chẳng hề sợ hãi chuyện lập đi lập
lại từ.
[Đây chính là điều mà
Kundrea đã chỉ trích những dịch giả
bản tiếng Pháp như Vialatte. Bản dịch của ông này thoải mái (librement)
đến độ
nhà xuất bản Gallimard, vào năm 1976, khi tái bản Kafka trong tủ sách
Pléiade,
đã tính cho sửa lại những chỗ đã dịch sai, nhưng những ’hậu duệ’ của
Vialatte
phản đối, nhà biên tập là Claude David phải làm những phụ chú ở cuối
sách,
nhiều đến nỗi độc giả cứ phải lật lại những trang này để theo dõi, và
để hiểu
bản văn!].
Hơn nữa, mặc dù cách
làm chủ tiếng Đức một cách đầy kinh
ngạc, mà lại do tự học, của Muirs, mặc dù ông chồng đọc rất rộng những
nhà văn
Đức và Áo đương thời, nhưng cả hai đều không có được cái background
(nền tảng)
văn học Đức. Thành thử cách sử dụng điển cố (references) văn học của họ
khá bừa
bãi. Sau cùng, còn vấn đề môi trường, khu vực sống của người Đức và
người Áo,
mỗi vùng có một số từ ngữ đặc biệt, mà họ chỉ hiểu đại khái.
Một trong những điều
không may đối với hai vợ chồng Muirs,
khi dịch Kafka, là hệ thống hành chánh trong ngành tòa án và luật pháp.
Thí dụ
như trong trong Vụ Án, khi Joseph K. nói với những người tới bắt, anh
muốn gọi
điện thoại cho "Staatsanwalt Hasterer". Vợ chồng Muirs dịch là
"luật sư Hasterer". Những độc giả Anh Mỹ quen thuộc với hệ thống pháp
luật của họ, lại nghĩ rằng K. yêu cầu cho gặp luật sư của anh. Sự thực,
K. tính
bịp những kẻ tới bắt anh, bằng cách dọa kêu điện thoại tới văn phòng
khởi tố
(prosecutor’s office), để thưa họ ra tòa.
Trong Tòa Lâu Đài,
bản dịch của Muirs phạm phải hàng trăm
những lầm lỗi về chi tiết, nếu xét riêng từng cái, thì không quan
trọng, nhưng
một khi độc giả gặp quá nhiều sai lầm như vậy, sẽ hoang mang, khiến họ
phải tìm
về nguyên bản, để kiểm chứng. Vợ chồng Muirs nhận xét, "Đọc Kafka giống
như đọc một cuốn sách du lịch, được miêu tả thật chi ly về từng chi
tiết về
phong tục, cách ăn mặc, đồ dùng của một bộ lạc mới được phát hiện",
nhưng
khi đụng tới cuộc sống thường nhật mỗi ngày của vùng Trung tâm Âu Châu,
họ bị
lầm lạc. Thí dụ như "Strohsack" mà K. ngả lưng tại nhà trọ trong
làng, không phải bị dâu mà là một cái nệm nhồi dâu.
Hệ thống điện thoại
kỳ cục trong tòa lâu đài cũng làm cho họ
lúng túng. Với họ, "telephonieren" (gọi điện thoại) là tiếng chuông
điện thoại. Khi những viên chức trong Tòa Lâu Đài ngắt bộ phận làm
chuông reo,
thì Muirs dịch là họ bỏ điện thoại ra ngoài, và khi nối lại hệ thống
chuông, họ
dịch là treo điện thoại lên.
Nếu hệ thống luật
pháp của Cựu Đế quốc Áo xa lạ với Muirs,
những hành sử của những viên chức giả tưởng ở trong tòa lâu đài còn xa
lạ hơn.
Nếu không thêm từ, hoặc dùng chú thích, độc giả Anh Mỹ sẽ không thể
hiểu nổi
một số câu, đoạn. Đôi chỗ, vợ chồng Muirs còn đoán già đoán non, về
những dự
tính ở trong đầu tác giả, thay vì trỏ lại với từng câu, từng từ, trong
nguyên
bản. Đôi chỗ dịch giả không nhìn thấy những gì trước mắt họ, thí dụ
"Her
blank loveless gaze" (Cái nhìn đờ đẫn không yêu thương), Kafka viết,
được
dịch là "Her cold eyes" (Mắt lạnh lùng), bỏ mất tính hàm hồ của từ
"loveless". Trên một bình diện rộng lớn hơn, dịch giả đành hy sinh
tính trung thực của bản văn, đổi lấy viễn ảnh toàn tác phẩm, khổ một
nỗi, viễn
ảnh là của họ, không phải của Kafka. Họ, đoán già đoán non, qua Brod,
rằng Kiểm
tra viên K. là một kẻ hành hương dễ chịu. Thành thử khi K. nói còn bà
vợ và đứa
con ở nhà, bí quá, họ đành cắt bỏ người vợ và đứa nhỏ, cho hợp với cú
đoán!
Sau cùng, bản dịch
Anh ngữ của Muirs vào cái thời của nó,
cho dù "tự nhiên" tới cỡ nào, sau gần 70 niên, nó cũng quá đát. Tác
phẩm không cũ (gừng càng già càng cay) nhưng bản dịch đã trở nên lỗi
thời.
Kafka bắt đầu viết
Tòa Lâu Đài vào đầu năm 1922, tại một nhà
dưỡng bệnh ở vùng núi (bệnh lao của ông đã được phát hiện vào năm
1917). Chữa
trị chẳng đi tới đâu, ông trở lại Prague. Tháng Bẩy, từ bỏ nghề làm bảo
hiểm,
ông hồi hưu non. Tình trạng bệnh càng ngày càng xấu, ông bỏ ngang Tòa
Lâu Đài,
sau khi mất bẩy tháng với nó, không hoàn tất ngay cả bản sơ thảo.
Sau khi ông mất, vào
năm 1924, Max Brod biên tập, và cho
xuất bản ba đoạn (fragment) tiểu thuyết bỏ dở mà Kafka để lại.
****
Trong vòng 10 năm,
Reiner Stach đã bỏ hết thời giờ vào việc
viết tiểu sử Kafka, nhờ vào sự trợ giúp tài chính của nhà xuất bản
Fisher. Kết
quả là 600 trang sách, chỉ trong giai đoạn 1910-1915, nghĩa là 5 năm
trong cuộc
đời Kafka! Nhưng đây là 5 năm đầy thành quả, đó là thời kỳ Kafka viết
Le
Verdict, La Métamorphose, Le Disparu (tức cuốn Amerika), Le Procès. Còn
hai
cuốn tiểu sử nữa, về thời kỳ 1883-1910, và 1916-1924, sẽ tiếp tục ra
mắt độc
giả.
Một công việc khổng
lồ, và chưa từng có. Ông có được những
nguồn tin, những tài liệu mới mẻ. Trong bài phỏng vấn "Câu chuyện đầy
đủ
về một cuộc đời", trên số báo Văn Học Pháp, đặc biệt về Kafka, Reiner
Stach đã giải thích vai trò của Brod, bạn của Kafka, về chuyện tại sao
Brod cho
in ba cuốn tiểu thuyết chưa hoàn tất coi như là đã hoàn tất rồi, về
những lời
chỉ trích nặng nề Brod, của Kundera, trong Những Di Chúc Bị Phản Bội.
Theo tôi [Reiner
Stach], phải có một cái nhìn khách quan vai
trò của Brod, thay vì có thái độ ‘a priori’ (tiên nghiệm) mang tính
tranh luận.
Brod đã giữ lại bản thảo, ngược với yêu cầu đốt bỏ của Kafka. Nếu không
làm như
vậy, chúng ta không có Le Procès, và rất nhiều trang của Nhật Ký. Sau
đó, ông
còn giữ được chúng, không để cho Nazi tiêu hủy. Ngoài ra, ông lo xuất
bản
chúng, ngay cả khi Kafka còn sống. Sau khi Kafka mất, Brod gặp khó
khăn: làm
sao in một tác giả còn vô danh, những tác phẩm còn dang dở? Ai thèm
đọc? Chính
vì vậy, ông đã không cho độc giả biết, đây là những tác phẩm chưa hoàn
tất.
Nhưng sau đó, Brod cho rằng, cần phải có một ấn bản phê bình, tranh
luận, thay
vì một ấn bản chung quyết (definitive).
Về tất cả những khía
cạnh đó, tôi [Reiner Stach] thấy không
có gì chê trách. Nhưng đáng trách, là, khi cho xuất bản, Brod đã can
thiệp trực
tiếp vào những trang bản thảo. Cũng được đi, khi ông bỏ tên một số
người lúc đó
còn sống, và có thể bị tổn thương. Nhưng không ngưng ở đó, ông bỏ đi
những đoạn
đề cập tới ông một cách "tiêu cực". Rồi, những gì không hợp với những
lời giải thích Kafka của trường phái Kafkology (chữ của Kundera), do
Brod sáng
tạo ra, coi Kafka như một ông thánh.
Ngay từ những năm
1930, Brod đã cố hướng giới phê bình về
một Kafka như trên. Ông nói đi nói lại nhiều lần, rằng Kafka là một nhà
văn mà
nguồn hứng khởi là do tông giáo mà ra. Ông còn cố chứng minh, ngay cả
trong đời
thường, trong cuộc sống riêng tư, Kafka cũng là một vị thánh!"
Kundera, trong bài
Cái Bóng Bị Hoạn Của Thánh Garta, trong
Những Di Chúc Bị Phản Bội, chỉ trích Brod, tuy thật gần gụi với Kafka,
mà không
làm sao hiểu nổi nghệ thuật của bạn mình. Với Kundera, thế giới Tòa Lâu
Đài là
một thế giới khép kín, nhưng hễ có dịp hở, là K. tìm đủ mọi cách để
"thở". Vì lỡ đã coi Kafka là một ông Thánh, nên Brod đã bỏ mọi cửa sổ
hé ra thế giới bên ngoài - thí dụ như những xen huê tình ở trong đó,
hoặc những
câu như: Tôi đi qua xóm điếm mà cứ nghĩ như đi qua nhà người tình yêu
dấu! ở
trong Nhật Ký.
Ngay cả Coetzee cũng
không tin Brod hiểu Kafka. Như trong
bài đã dẫn, ông viết: K. với Brod là một Faust mới (new Faust), không
còn ham
muốn tri thức, mà là sự cần thiết (need), về một đòi hỏi hết sức cơ bản
về cuộc
đời - một mái nhà bình an, một việc làm ổn định, một sự chấp nhận là
một người
của cộng đồng. Brod suy ra rằng những mục đích trên có một ý nghĩa tông
giáo.
Ân sủng nhỏ nhoi nhất mà K. tìm kiếm ở trong Tòa Lâu Đài, là một sự cho
phép
được ổn định nơi ăn chốn ở, hết còn là một kẻ ở bên ngoài (an
outsider). Người
đọc có thể tự hỏi, tại sao Brod lại nẩy ra ý tưởng [cắt nghĩa Kafka]
như trên,
trong khi ông biết cảm nhận của Kafka, về chính mình, như là một kẻ ở
bên ngoài
suốt đời, trong khi biết bao lần toan tính lấy vợ của Kafka đều thất
bại vì ông
không thể tưởng tượng một con người như ông mà là một người chồng,
người cha
trong gia đình. Người đọc còn tự hỏi, làm sao một cách đọc Kafka như
vậy, ở
trong một không khí của Đức, và Áo thời
hậu chiến, một khi mà kinh tế tù đọng, một khi chẳng nhà thờ, chẳng nhà
nước
nào có thể đưa ra một hướng dẫn về cuộc dời, mà chỉ là tuyệt vọng, và
nhân loại
đã đi trật đường rầy. Từ một cách đọc lạc quan như vậy, của Brod, đã
khiến ông
coi Kafka như là một nhà suy nghĩ bảo thủ, để phản ứng lại với những
thách đố
của cuộc đời đã kêu gọi phải trở về với "truyền thống", với những
chân lý cổ xưa. Chính vì muốn kéo Kafka ra khỏi cách đọc của Brod, nên
Mark
Harman mới dịch lại Kafka, cho những độc giả tiếng Anh, và đây là một
việc làm
rất có giá trị, theo Coetzee. [Toà Lâu Đài, dịch giả Mark Hartman (New
York:
Schocken, 1998)].
Theo Reiner Stach,
cần phải vĩnh viễn bỏ quan điểm coi Kafka
là một ông thánh, bởi vì nó hoàn toàn sai lầm. Quan trọng hơn nữa, ông
không
phải là một nhà văn tông giáo. Đây là một nhà văn hiện đại, đã sử dụng
những
phương pháp viết văn hiện đại. Ông quan tâm tới những vấn đề tông giáo,
chắc
chắn rồi, nhưng không phải theo kiểu mà Brod gán ghép cho ông. Ngay khi
còn
sống, Kafka cũng tỏ ra không hài lòng vì những gì mà Brod nói về ông,
nhưng để
phản bác, ông sử dụng khí giới là hài hước (ironie). Ông không muốn cắt
đứt
tình bạn với Brod, và ông cũng chẳng có nhiều bè bạn. Trong một lá thư
gửi
Felice Bauer, Kafka phàn nàn, ông chỉ còn mỗi một cách là chạy trốn,
sau những
lời ngợi ca mà Brod viết về ông. Hơn nữa, Brod nói về tác phẩm của ông
thì ít,
nhưng về cá nhân ông, thì nhiều.
Lionel Richard, trong
bài viết Dịch Kafka (Traduire Kafka),
trên số báo Văn Học Pháp đã dẫn, có nhắc tới bài tựa của Jean-Jacques
Briu, khi
dịch lại cuốn Hóa Thân vào năm 1988 (nhà xb LeFranc-Dire, loại song
ngữ). Dịch
giả cho rằng, thật cần thiết phải dịch lại cuốn này, và chỉ ra những
"yếu
kém" (faiblesses) của bản dịch đầu, của Viallate, do nhà Gallimard xuất
bản vào năm 1938. So với nguyên bản tiếng Đức, có chừng 800 từ bị bỏ đi
(không
dịch), và chừng 700 từ, dịch giả thêm vô. Chừng trên 60 lỗi về hình
thức động
từ (formes verbales). Những thay đổi (transformations) không thể tưởng
tượng
được, thí dụ như "những trái táo đỏ" nổi tiếng mà người cha dội
(bombardé)
vào con bọ Gregor, đã biến thành "những viên đạn", những cục tròn
nhỏ", và luôn cả, những viên bi ("projectiles", "petites
boules", "billes"). Dịch giả đưa ra câu hỏi: "Dịch như thế,
làm sao mà câu chuyện (récit) của Kafka không bị ảnh hưởng (affecté)?
Và ông tự
trả lời: "Một khi bản dịch quá tệ (quá không hoàn hảo très imparfait),
bổ
sung nó (amender) là một bổn phận kép, có thể nói, một món nợ kép (une
double
dette): với tác giả và với người đọc.
Ngày nay, độc giả Pháp có 5 bản dịch
cuốn Vụ Án, nhưng cho
tới năm 1976, chỉ có mỗi bản dịch của Viallate, và tai hại thay, nó
cũng tệ như
bản dịch Hóa Thân của ông, mặc dù ông là một nhà văn có tài, nhưng như
vậy chưa
đủ để bảo đảm sự chính xác của bản dịch.
Kafka khó dịch, ngay cả ở tựa đề tác
phẩm, thí dụ như cuốn
Amerika. Viallate đã giữ nguyên cái tít này của Brod, lần xb đầu, năm
1927.
Claude David, biên tập cho nhà Gallimard, trong tủ sách Pléiade, đã đổi
là Kẻ
Bị Bỏ Quên (L'Oublié), và giải thích, tiếng Đức trong nguyên bản muốn
nói:
"Kẻ mà dấu vết không còn" (Celui dont la trace s'est perdue). Ông nói
thêm, "Có thể dịch là L'Épave (Thân tàn ma dại, vô thừa nhận, trôi sông
lạc chợ..), nhưng từ này như những ý nghĩa của nó, thiên về tình cảm,
sợ không
đúng với ý định của Kafka. Ông cho rằng, đã đến lúc phải trả cho tác
phẩm cái
tít đúng của nó, nhưng thế nào là đúng, đó là từ L'Oublié của ông ta.
Nhưng cái
tít này, dịch giả Bernard Lortholary lại không bằng lòng, và trong lần
dịch cho
nhà xb Garnier-Flammrion năm 1988, ông đổi từ Amerika qua Le Disparu,
nhưng lại
nói thêm: Không thể bỏ qua cái từ Amerika mà người đọc đã quá quen
thuộc, và
tới lần xb năm 2000, tựa đề cuốn sách là: Le Disparu (Amerika), nhà xb
Pochothèque.
Theo như nguyên tác
tiếng Đức, từ "verschollen"
trong tựa đề có nghĩa như Lortholary giải thích, một từ ở dạng quá khứ
phân từ
và có nghĩa giống như những từ dùng trong quân sự, như "portés
disparus", hoặc khái quát hơn: một người mà người ta không có tin tức,
mất
dấu vết, và kể như là đã chết. Từ "verschollen" còn được dùng song
song với những từ như "gefallen" nghĩa là "ngã xuống ở mặt
trận", hoặc "chết trong khi chiến đấu". Nếu chuyển sang tiếng
Pháp, từ "Disparu" xem ra hợp hơn cả, hoặc "cẩn trọng" hơn,
"Porté disparu" (Kể như mất tích).
Chỉ nội cái tít không
thôi mà đã khổ/khó như vậy. Chỉ một
câu văn thôi, mà không dịch giả nào chịu bản dịch/dịch giả nào.
Chỉ nội một truyện Hóa Thân, mà mỗi
người hiểu một cách.
Alberto Manguel, tác giả cuốn A History of Reading kể lại, vẫn một
trang sách,
có người đọc chán ngấy, có người cười. Con gái ông, 13 tuổi, đọc Hóa
Thân thấy
tức cười. Gustav Janouch, bạn Kafka, thấy ngụ ngôn tông giáo, đạo đức.
Bertolt
Brecht coi đây là một tác phẩm của "nhà văn Bolshevist độc nhất, thực
nhất". Nhà phê bình Mác xít G. Lukacs, một sản phẩm của đám trưởng gả
thoái hoá. Borges, như là một kể lại (retelling) nghịch lý Zenon.
Marthe Robert
lại coi đây là một thí dụ về ngôn ngữ Đức, ở mức sáng sủa nhất của nó.
Theo ông
(Manguel), sự kiện này là do những câu chuyện của Kafka, được nuôi
dưỡng bằng
kinh nghiệm đọc của ông, dâng hiến và lấy đi cùng một lúc, ảo tưởng
hiểu biết
(illusion of understanding). Như thể chúng đào xới bản văn của Kafka,
nhằm thỏa
mãn người đọc.
Jennifer Tran