J. M. Coetzee
The Marvels of Walter Benjamin
Những kỳ tích về Walter Benjamin.
"To great
writers, finished works weigh lighter than
those fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký
hơn, so với những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)
1.
Bây giờ, câu
chuyện về ông được nhiều người biết cho nên cũng
chẳng cần kể lại một cách chi tiết.
Nơi chốn: biên giới Pháp-Tây Ban Nha. Thời gian: 1940.
Benjamin chạy trốn một nước Pháp bị chiếm đóng, tới gặp bà vợ một anh
chàng
Fittko nào đó, mà ông gặp gỡ ở trong trại tù. Theo ông, Bà (Frau)
Fittko có thể
dẫn ông và những người cùng đi vượt dẫy núi Pyrenees tới xứ Tây Ban Nha
trung
lập. Dọc đường, thấy ông ì ạch với chiếc cà tạp nặng nề, bà dẫn đường
hỏi: cái
gì vậy, có cần thiết [mang theo nó] không? Trong đó là một bản thảo,
ông trả
lời. "Tôi không thể chịu rủi ro mất nó. Nó… PHẢI được gìn giữ. Nó còn
quan
trọng hơn cả tôi."
Hôm sau, họ vượt dẫy núi. Đi được mươi phút là Benjamin phải
ngưng để thở, do đau tim.
Tới biên giới, họ bị chặn lại. Giấy tờ không hợp lệ, cảnh
sát Tây Ban Nha phán, phải trở về Pháp. Nản quá, trong đêm đó, Benjamin
làm một
liều thuốc phiện thật nặng. Cảnh sát làm biên bản những món đồ của
người quá
cố. Không có bản thảo nào hết trong biên bản đó.
Trong cà tạp có gì, và nó biến đi đâu, chúng ta chỉ phỏng
đoán. Gershom Scholem, bạn của Benjamin, gợi ý: đó là bản sửa chữa lần
chót,
tác phẩm chưa hoàn tất, Passagen-Werk, được biết qua tiếng Anh bằng cái
tên
"Arcades Project" ("Thương Xá"). ("Với những nhà văn
lớn," Benjamin viết, "những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với
những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời."). Bằng một cố gắng anh hùng,
nhưng vô vọng – làm sao cho lửa Nazi đừng thiêu đốt bản thảo, làm sao
mang nó
tới một vùng đất an toàn, trước tiên là Tây Ban Nha, sau đó là Mỹ quốc
– chỉ
với một cố gắng như vậy đủ khẳng định, đây chính là một huyền tượng
trong giới
học giả của thời đại chúng ta.
Câu chuyện không đến nỗi quá bi đát, với đứa con tinh thần
của ông, bởi vì một bản sao của "Thương Xá" không đi theo chủ nhân, ở
lại Paris, và được bạn thân của Benjamin là Georges Bataille giấu giếm
tại Thư
viện Quốc gia. Sau chiến tranh, được xuất bản nguyên xi vào năm 1982,
nghĩa là
bằng một thứ tiếng Đức xen những mảng lớn tiếng Pháp ở trong.
Bây giờ chúng ta có dịch bản tiếng Anh tác phẩm chính
(magnum opus: đại tác phẩm) của Benjamin. Dịch giả là Howard Eiland và
Kevin
McLaughlin. Và bây giờ, sau cùng, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao
lại [có
người] quan tâm tới mức như thế, về mỗi một chuyện đi mua sắm, ở nước
Pháp thế
kỷ 19?
**
Benjamin
sinh năm1892, tại Berlin, trong một gia đình Do
Thái đã hội nhập. Cha ông là một người thành công trong nghề đấu giá
những nghệ
phẩm, và sau đó tách ra làm ngành đầu tư tài sản; dòng họ Benjamin
thịnh vượng,
về nhiều mặt. Sau một thời thơ ấu ốm yếu, được đùm bọc, vào lúc mười
hai tuổi,
Benjamin được gởi tới một trường nội trú có khuynh hướng tiến bộ ở miền
quê, và
rơi vào ảnh hưởng của một trong những vị giám đốc trường là Gustav
Wyneken.
Nhiều năm, sau khi đã rời ngôi trường, Benjamin vẫn hoạt động trong
phong trào
chống lại tính quyền thế, trở lại với thiên nhiên, của Wyneken; ông chỉ
đoạn
tuyệt với nó khi Wyneken ra mặt ủng hộ Đệ Nhất Thế Chiến.
Vào
năm 1912, Benjamin ghi tên học ngành ngữ văn tại Đại học
Freiburg. Nhận thấy không hợp khẩu vị với môi trường trí thức, ông lao
vào
phong trào vận động cải cách học vấn. Khi chiến tranh bùng nổ, ông trốn
tránh
quân vụ, lúc đầu giả vờ bệnh, sau dời tới nước Thụy Sĩ trung lập. Ông ở
đây tới
năm 1920, học triết và lo làm luận án tiến sĩ ở Đại học Berne. Bà vợ
phàn nàn,
họ không có một cuộc sống xã hội.
Bạn
của ông là Theodor Adorno nhận xét, Benjamin mệt vì
những đại học, như Kafka mệt vì những công ty bảo hiểm. Dù nghi ngại,
Benjamin
vẫn đi suốt qui trình lấy bằng tiến sĩ thực thụ cho phép ông làm giáo
sư, bằng
cách đệ trình luận án "Kịch nghệ Đức thời đại Baroque" với Đại học
Frankfurt vào năm 1925. Thật lạ lùng, luận án không được chấp nhận; nó
rớt đài
vì không chịu nằm gọn trong lãnh vực văn học, hoặc triết học, và
Benjamin thiếu
một vị thầy bảo trợ, bênh vực cho trường hợp của ông.
Những
chương trình, kế hoạch khoa bảng kể như hỏng, Benjamin
lao vào ngành dịch thuật, phát thanh, và làm ký giả tự do. Trong số
những việc
làm lấy tiền hoa hồng, có việc dịch "Đi Tìm Thời Gian Đã Mất" của
Proust; ba, trong bẩy cuốn, đã được hoàn tất.
**
Vào
năm 1924 Benjamin đến Capri, vào lúc đó, là trung tâm
nghỉ mát được giới trí thức Đức ưa thích. Ông gặp Asja Lacis, nữ giám
đốc kịch
viện ở Latvia, và là một người Cộng Sản. Cuộc gặp gỡ đúng là định mệnh,
"mỗi lần tôi đụng vô một mối tình lớn, là mỗi lần hoá thân", ông sửng
sốt về mình, khi ngoái lại. "Một tình yêu thứ thiệt biến tôi thành
người
đàn bà mà tôi yêu". Với người tình này, còn kéo thêm sự thay đổi về
đường
hướng chính trị. "Với những người tiến bộ, nếu tuân theo cảm quan đúng
đắn
của mình, con đường suy tưởng của họ sẽ dẫn tới Moscow chứ không phải
tới
Palestine", nàng nói một cách thật nghiêm nghị với chàng. Thế là mọi
dấu
vết của chủ nghĩa duy tâm trong tư tưởng của ông, chưa nói tới chuyện
láng
cháng với chủ nghĩa quốc gia Do Thái (Zionism), phải bị bỏ đi. Ông bạn
tâm phúc
Scholem đã di cư qua Palestine, mong Benjamin đi theo. Ông nại cớ này
cớ nọ, và
cứ thế chần chờ cho tới chót.
Vào
năm 1926, Benjamin tới Moscow vì có hẹn với nàng. Lacis
coi bộ không hoan hỉ đón tiếp (nàng lúc này có bồ khác). Ghi nhận về
chuyến đi
cho thấy Benjamin không được thoải mái cái đầu cho lắm, có cả nỗi băn
khoăn có
nên gia nhập Đảng Cộng Sản, và tự đặt mình vào đường lối của Đảng. Hai
năm sau
đó, chàng và nàng lại có dịp tái hợp, tuy ngắn ngủi, tại Berlin; họ
sống bên
nhau, tay trong tay cùng tham dự những cuộc họp của Liên minh những Nhà
văn
Cách mạng Vô sản. Cuộc tình làm cho vụ li dị với người vợ đầu nhanh
chóng thêm.
Benjamin
có ghi nhật ký chuyến đi Moscow, và sau đó sửa lại
và cho xuất bản. Ông không nói được tiếng Nga, nhưng thay vì nhờ mấy
thầy
thông, ông cố gắng nhìn thành phố qua bề ngoài của nó [nguyên văn: đọc
Moscow
từ phía bên ngoài, read Moscow from outside], và ông gọi đây là thuật
xem tướng
mặt, chắc là theo kiểu người Việt mình nói, "trông mặt mà bắt hình
dong,
con lợn có béo thì [bộ] lòng mới ngon!". Ông giải thích thêm về phương
pháp của mình: khoan trừu tượng, khoan phê phán… hãy trình bầy thành
phố
[Moscow], theo kiểu như thế này: tất cả tính sự kiện, thì đã là lý
thuyết (all
factuality is already theory; câu này của Goethe, theo Coetzee).
Những
khẳng định của Benjamin về kinh nghiệm "mang tính
lịch sử về thế giới", như ông nhìn thấy xẩy ra ở Liên bang Xô viết, bây
giờ có vẻ ngây thơ; tuy nhiên con mắt của ông thật là sắc bén. Rất
nhiều cư dân
mới của Moscow vẫn giữ nguyên bộ vó dân quê, sống cuộc sống làng mạc,
theo nhịp
sống quê mùa; sự phân biệt giai cấp có thể đã bị bãi bỏ, nhưng bên
trong Đảng,
một hệ thống đẳng cấp mới đang thành hình. Một cảnh tượng nơi chợ trời
cho thấy
tình trạng hạ thấp tông giáo: một thánh tượng được kèm bởi những bức
chân dung
của Lênin, "như một tù nhân giữa hai tay công an".
Mặc
dù sự hiện diện của nàng, Asja Lacis, là cái nền thường
trực của những trang nhật ký lần thăm viếng ("Moscow Diary"), và tuy
chàng, như nhận ra, cuộc tình chăn gối của đôi bên không ổn, chúng ta
chẳng
biết gì về con người nàng. Là nhà văn, nhưng chàng không có tài làm cho
những
người khác sống dậy, qua những miêu tả của mình. Trái lại, trong những
bản viết
của riêng Lacis, chúng ta có một hình ảnh sống động hơn, về Benjamin:
đôi kính
như hai ngọn đèn pha, ôi đôi bàn tay của "ảnh" mới vụng về làm sao!
**
Trong
suốt quãng đời còn lại, Benjamin tự nhận hoặc một tay
Cộng Sản, hoặc một bạn đồng hành. Chúng ta tự hỏi, cuộc tình giữa ông
với chủ
nghĩa Cộng Sản say đắm, sâu xa tới mức nào?
Nhiều
năm sau khi gặp gỡ Lacis, Benjamin có lẽ vẫn lập đi
lập lại những ‘chân lý’ù Mác xít, mà chẳng cần đọc Marx, thí dụ như
"giai
cấp trưởng giả… bị kết án phải suy sụp do những mâu thuẫn nội tại, và
nó sẽ
tiêu luôn theo với đà phát triển của những mâu thuẫn này". "Trưởng
giả" là một từ nguyền rủa đối với ông, và nó có nghĩa là chạy theo vật
chất, thờ ơ, ích kỷ, giả hình, và trên tất cả, hoàn toàn tự mãn về mình
– và
ông tỏ ra rất thù nghịch, do bản năng. Tự coi mình là Cộng Sản là một
hành động
chọn bên, vừa về mặt đạo đức vừa về mặt lịch sử, nhằm chống lại giai
cấp trưởng
giả và luôn cả dòng dõi trưởng giả của chính ông. "Một điều không thể
khá
được, đó là quên không chạy trốn cha mẹ", ông viết như vậy trong
"Đường Một Chiều", một tuyển tập những mẩu nhật ký, những nghi thức
của cõi mơ, những châm ngôn, những tiểu luận bỏ túi (mini-essays), và
những
nhận xét chì chiết về nước Đức thời cộng hoà Weimar. Với cuốn sách đó,
ông tự
tuyên bố về mình, vào năm 1928: một trí thức tự do (freelance
intellectual). Do
chạy trốn cha mẹ không sớm sủa cho lắm, ông bị kết án phải chạy xa [cha
mẹ là]
Emil và Paula Benjamin trong suốt quãng đời còn lại: trong khi phản ứng
ngược
lại ý muốn của cha mẹ muốn hội nhập vào giai cấp trung lưu Đức, ông
giống nhiều
người Do thái nói tiếng Đức cùng thế hệ, kể luôn cả Kafka. Điều gây bối
rối, ở
nơi bè bạn của ông, về chủ nghĩa Marx của ông: hình như có một điều gì
gượng
gạo, một điều chi giống như là thù đáp (reactive).
Những
bài viết tả khuynh đầu tiên của Benjamin đọc thật nản.
Người ta đành phải nói, một "sự ngu xuẩn cố tình", khi đọc những dòng
ông "thổi" (rhapsody) Lênin; ("những lá thư của Lênin mới hoành
tráng ngọt ngào làm sao", nhưng bài này bị những biên tập viên bản dịch
của Harvard loại bỏ); hay là hùa theo lối nói khéo léo, nhưng ẩn tàng
mầm tai
tương, của Đảng: "Chủ nghĩa Cộng Sản không mang tính triệt để. Do đó,
nó
không có ý định giản dị xoá bỏ mọi liên hệ gia đình. Nó chỉ thử nghiệm
những
liên hệ này, để kiểm tra khả năng của chúng, trước chuyển đổi. Nó tự
hỏi chính
nó: Liệu gia đình có thể được tháo gỡ ra, nhờ vậy mà những thành phần
của nó có
thể được tái phối trí vào xã hội?"
Những
dòng trên đây, là từ bài điểm một vở kịch của Bertolt
Brecht. Ông gặp nhà soạn kịch người Đức này qua Lacis. "Kiểu suy tư
thô,
nguyên" – lột bỏ những nhận xét tinh tế trưởng giả – của Brecht, có một
dạo, đã quyến rũ Benjamin. "Đường Một Chiều" được đề tặng người tình:
"Con đường này mang tên em, vị kỹ sư đã phóng nó qua người anh."
[nguyên văn: "Con đường này mang tên Phố Asja Lacis, theo tên nàng, một
người mà giống như một vị kỹ sư, đã cắt nó xuyên qua tác giả"]. So sánh
đấy, mà là khen ngợi đấy. Kỹ sư là một người, nam hay nữ, của tương
lai; một
người - bực bội với ba cái trò lắm lời; được trang bị bằng tri thức
thực hành -
hành động, và quyết tâm hành động nhằm thay đổi toàn cảnh. (Stalin cũng
ái mộ
những kỹ sư. Theo quan điểm của ông, nhà văn phải trở thành những vị kỹ
sư của
tâm hồn, theo nghĩa, họ phải coi đây là chức năng của mình: tái phối
trí nhân
loại, từ phía bên trong mà ra).
Trong
số những bài viết được khá nhiều người biết tới, bài
"Tác giả như người sản xuất" ("The Author as Producer",
1934) cho thấy ảnh hưởng của Brecht thật rõ rệt. Trọng tâm của bài viết
là một
"vấn nạn" cũ rích của mỹ học Mác xít: Cái gì quan trọng, hình thức
hay nội dung? Benjamin đề nghị, rằng một tác phẩm văn học sẽ "chỉ đúng
về
lập trường chính trị nếu nó cũng đúng về lập trường văn học". "Tác
giả như người sản xuất" là một bài viết nhằm bảo vệ nhóm khuynh tả
thuộc
lực lượng tiên-phong hiện đại - với Benjamin, là nhóm Siêu thực - chống
lại
đường lối của Đảng đối với văn học, vốn chỉ nhắm những gì dễ cảm thông,
những
câu chuyện hiện thực nặng khuynh hướng tiến bộ. Để bênh vực cho trường
hợp của
mình, Benjamin, một lần nữa, đành phải kêu gọi tới sức quyến rũ của
[vai trò]
kỹ sư: nhà văn, như người kỹ sư, là một chuyên viên kỹ thuật và phải có
tiếng
nói của mình trong những vấn đề kỹ thuật.
Lập
luận ở mức thô thiển như thế thật không dễ dàng đối với
Benjamin. Liệu lòng trung với Đảng khiến cho ông chẳng hề băn khoăn,
vào lúc mà
sự bách hại nghệ sĩ của Stalin đang ở đỉnh cao? (Asja Lacins, chính
nàng, cũng
trở thành một trong những nạn nhân của Stalin, và phải trải qua nhiều
năm trong
trại lao động cải tạo). Một mẩu viết trong cùng năm đó, 1934, có thể
cho chúng
ta một chút manh mối. Ở đây, Benjamin chế nhạo đám trí thức "coi đó là
niềm hãnh diện, khi toàn thân thể hiện trong mọi vấn đề [mà Đảng vạch
ra]," từ chối không chịu hiểu, để thành công, họ phải trình bầy những
bộ
mặt khác nhau cho những khán thính giả khác nhau. Ông nói, họ giống như
một gã
đồ tể, không chịu cắt từng mảnh, cứ nài nỉ bán trọn con thịt. Chúng ta
phải
hiểu câu nói của ông ra sao? Phải chăng Benjamin ca ngợi một cách châm
biếm sự
liêm khiết trí thức đã lỗi thời? Hay đây là lời thú nhận bóng gió về
mình,
‘dzậy mà không phải dzậy", theo cách nói của người Việt miền nam (that
he,
Walter Benjamin, is not what he seems to be)? Hay ông đưa ra một quan
điểm thực
tế, nếu không muốn nói là chua chát, về cuộc sống của một nhà văn
chuyên viết
thuê làm mướn. Một lá thư gửi bạn tâm phúc, Scholem (mà không phải
Benjamin bao
giờ cũng tiết lộ toàn bộ sự thực), cho thấy, cách hiểu chót có lẽ đúng
hơn cả:
trong thư, Benjamin bảo vệ chủ nghĩa cộng sản của ông như là "một toan
tính hiển nhiên, có suy nghĩ, của một người đã hoàn toàn, hoặc hầu như
đã hoàn
toàn, bị tước đoạt bất cứ một phương tiện sản xuất, để mà đòi hỏi quyền
của
mình, về những phương tiện sản xuất." Nói một cách khác, ông theo Đảng
với
cùng một lý do như bất cứ một tay vô sản nào khác: bởi vì đây là lợi
lộc vật
chất của mình.
2.
Vào
lúc Nazi lên nắm quyền, nhiều người cộng sự với
Benjamin, đọc ra cái điềm báo trước của thời đại, đã theo nhau mà bôn
tẩu.
Benjamin vốn từ lâu cảm thấy không có đất cắm dùi ở Đức, lại hay lai
vãng Pháp
và Ibiza, bèn theo gót bạn bè. (Ông em trai, Georg, bất cẩn hơn, ở lại,
bị bắt
vì những hành vi chính trị, và tàn đời tại Mauthausen vào năm 1942).
Định
cư tại Paris, cố kiếm cơm bằng cách cộng tác với những
nhật báo Đức dưới những bút hiệu đọc lên nghe có tí dòng giống tối
thượng Aryan
(Detlef Holz, K. A. Stempflinger); lúc quá kẹt, sống bằng của bố thí.
Khi chiến
tranh bùng nổ, Benjamin thấy mình ở trong trại tù, như là một ngoại
nhân thù
nghịch. Được thả, nhờ Hội Văn Bút (PEN) Pháp can thiệp; ngay lập tức
ông kiếm mối
manh, tìm đường đào tẩu qua Mỹ, và sau cùng là chuyến đi định mệnh, kết
thúc
tại Port-Bou, biên giới Pháp-Tây Ban Nha.
Những
chiếu rọi sắc sảo của Benjamin, khi ông nhìn chủ nghĩa
phát xít, kẻ thù tước đoạt gia đình, sự nghiệp, và sau cùng đã giết
chết ông,
là từ những phương tiện mà nó sử dụng để chiêu dụ dân chúng Đức: tự
biến thành
tuồng hát. Những chiếu rọi thần tình này được diễn tả đầy đủ nhất ở
trong (dùng
cái tên được Harvard ưa thích) "Nghệ phẩm trong thời đại tái sản xuất
bằng
kỹ thuật" (The Work of Art in the Age of Its Technological
Reproducibility", 1936), nhưng chúng đã thấp thoáng ở trong bài điểm,
vào
năm 1930, cuốn ‘Chiến tranh và những Chiến sĩ’, do Ernst Junger biên
tập.
Quan
niệm thông thường cho rằng, những đại hội diễu hành ở
Nuremberg của Hitler, đã lấy khuôn mẫu từ những ca nhạc kịch của Wagner
ở
Bayreuth [một thành phố Đức]: réo rắt hùng hồn, âm thanh hớp hồn, vũ
điệu dành
cho đám đông, và đột biến bi thảm. Nhưng điều được coi là uyên nguyên,
ở
Benjamin, đó là ông cho rằng chính trị - như là kịch nghệ hoành tráng
hơn là
như tranh luận – không chỉ là những mặt nổi huy hoàng, giầu sang của
chủ nghĩa
phát xít: nó chính là chủ nghĩa phát xít, tự yếu tính.
Trong
những cuốn phim của Leni Riefenstahl cũng như trong
những phim thời sự, được trình diễn trong mọi rạp hát nội địa, quần
chúng Đức
được dâng hiến những hình ảnh của chính họ, như những nhà lãnh đạo kêu
gọi: hãy
là như vậy. Chủ nghĩa phát xít sử dụng quyền năng nghệ thuật của quá
khứ – điều
mà Benjamin gọi là nghệ thuật hào quang, cộng thêm quyền năng được nhân
lên
nhiều lần của phương tiện truyền thông đại chúng mới mẻ thời kỳ hậu-hào
quang,
trên tất cả là phim ảnh, để tạo ra những công dân phát xít mới của nó.
Với
những người dân Đức bình thường, căn cước độc nhất đem trình diễn, cái
căn cước
từ trên màn ảnh chiếu xuống họ, là căn cước phát xít trong bộ đồ phát
xít, và
những dáng đứng phát xít, hoặc chế ngự hoặc tuân phục.
Phân
tích của Benjamin về chủ nghĩa phát xít gây ra nhiều
câu hỏi. Phải chăng chính trị như là kịch cảnh (spectacle) thực sự là
trái tim
của chủ nghĩa phát xít, chứ không phải sự phẫn uất, hay những giấc mơ
về sự
phục thù lịch sử? Nếu Nuremberg là chính trị được thẩm mỹ hoá, tại sao
những
cuộc diễu hành ngày 1 tháng 5 và những vụ án phô trương của Stalin,
không được
coi là chính trị thẩm mỹ hóa? Nếu thiên tài của chủ nghĩa phát xít, là
xóa bỏ
lằn ranh giữa chính trị và phương tiện truyền thông, đâu là thành tố
phát xít
của chính trị-do truyền thông-điều động của những nền dân chủ Tây
phương? Lẽ
nào chẳng có những biến điệu khác nhau của chính trị thẩm mỹ?
**
Quan
niệm chìa khóa mà Benjamin sáng chế ra - mặc dù trong
nhật ký của ông lờ mờ cho thấy, sự thực đây là sáng kiến của nữ sĩ
Adrienne
Monnier, chủ nhà bán sách và chủ nhà xuất bản ở Paris - để miêu tả
chuyện gì
xẩy ra cho nghệ phẩm trong thời đại tái sản xuất bằng kỹ thuật (chủ yếu
là thời
đại chụp hình – Benjamin không nói gì nhiều về in ấn), đó là [hiện
tượng]
"mất hào quang" ("loss of aura"). Gần như tới giữa thế kỷ
19, ông nói, một hình thức tương liên người với người còn tồn tại, giữa
một
nghệ phẩm và người nhìn nó: người nhìn, ngắm, và nghệ phẩm, ngắm lại,
đại khái
như vậy. "Để cảm nhận hiện tượng hào quang có nghĩa là gán cho nó cái
khả
năng nhìn lại chúng ta." Do đó, có điều chi huyền diệu về hào quang,
gốc
gác cổ xưa còn sót lại, giờ nhạt nhòa đi, giữa nghệ thuật và nghi lễ
tôn giáo.
Lần
đầu tiên Benjamin nói tới hào quang, là ở trong bài viết
"Lịch sử nho nhỏ về chụp hình" (1931), trong đó ông cố gắng giải
thích tại sao (dưới mắt ông), những bức hình chân dung ở cái thời thoạt
kỳ thủy
của môn chụp hình – cổ bản của nhiếp ảnh, hãy nói như vậy - [lại] có
hào quang
trong khi những bức hình một thế hệ sau đó không còn. Trong "Nghệ
phẩm", ý niệm hào quang được nới rộng khá tùy tiện, từ những bức hình
cổ
xưa tới những tác phẩm nghệ thuật nói chung. Sự chấm dứt hào quang,
Benjamin
nói, sẽ được bồi đáp dư dả bằng những khả năng giải phóng của những kỹ
thuật
tái sản xuất mới. Phim ảnh sẽ thay thế nghệ thuật hào quang.
Ngay
cả những người bạn của Benjamin cũng thấy khó mà nắm
bắt được hào quang. Brecht - người được Benjamin nói nhiều về quan niệm
này
trong những lần Benjamin ghé thăm nhiều ngày ở nhà ông, tại Đan Mạch -
đã viết
như sau, trong nhật ký của ông: "[Benjamin] nói: ‘khi bạn cảm thấy cái
nhìn chăm chăm của một người nào đó, nóng bỏng trên bạn, ngay cả ở đằng
sau
lưng, sự mong mỏi rằng bất cứ cái chi bạn nhìn tới, đang nhìn [lại]
bạn, tạo
nên hào quang… tất cả rất huyền bí, mặc dù những thái độ phản-huyền bí,
đây là
cách tiếp cận lịch sử được thích nghi bởi các nhà duy vật! Ôi thật kinh
khiếp." Những bạn bè khác cũng chẳng thể nào mà hồ hởi hơn [khi nghe
Benjamin nói về hào quang].
Trong
suốt thập niên 1930, Benjamin loay hoay phát triển một
định nghĩa mang tính duy vật có thể chấp nhận được, về hào quang và mất
hào
quang. Phim ảnh là hậu hào quang, ông nói, bởi vì cái máy thu hình, vốn
chỉ là
một dụng cụ [cho nên] không thể nhìn. (Một lập luận đáng thắc mắc: các
diễn
viên chắc chắn đã đáp ứng với cái máy thu hình như thể nó đang nhìn
họ). Trong
bản văn viết lại sau đó, Benjamin đề nghị, rằng sự chấm dứt hào quang
có thể
xác định thời điểm được, trong lịch sử: đó là khi cư dân thành thị trở
nên đông
nghẹt – những người qua kẻ lại – đến nỗi chẳng còn ai thèm đáp lại cái
nhìn
chăm chăm của người khác nữa. Trong "Thương Xá", ông coi mất hào
quang là một phần trong sự phát triển rộng rãi hơn, mang tính lịch sử:
càng
ngày càng có nhiều người cho rằng, sự độc đáo, bao gồm cả sự độc đáo
mang tính
truyền thống của nghệ phẩm, đã trở nên thương phẩm, như bất cứ thương
phẩm nào
khác. Kỹ nghệ thời trangï chuyên việc sản xuất những nghệ phẩm độc nhất
– những
sáng tạo – kể từ nay sẽ được tái sản xuất theo kiểu đại trà, [và nó] đã
chỉ lối
cho sự phát triển này.
**
Benjamin
không đặc biệt quan tâm đến tiểu thuyết, như là một
thể loại; những câu chuyện ông viết, được in trong Tập 2 hiển nhiên cho
thấy,
ông không có tài của một nhà văn tự sự. Thay vì tự sự, những bản văn
mang tính
tự thuật của ông được xây lên từ những thời điểm đứt đoạn, căng thẳng.
Hai tiểu
luận về Kafka coi Kafka như là một nhà ngụ ngôn và ông thầy dậy minh
triết
(wisdom), hơn là một tiểu thuyết gia. Nhưng điều mà Benjamin trường kỳ
gớm
ghiếc nhất, là dành cho [thể loại] lịch sử tự sự (narrative history).
"Lịch sử tan rã thành hình ảnh, không phải thành tự sự", ông viết.
Lịch sử tự sự áp đặt tính nhân quả và động cơ từ phía bên ngoài; những
sự vật
cần có cơ hội tự nói về chúng.
"Một
ấu thời ở Berlin vào khoảng năm 1900", một
trong những tác phẩm tự thuật ấp ủ, tha thiết nhất, không được xuất bản
khi ông
còn sống, sẽ xuất hiện trong Tập 3 của "Tuyển Tập" ("Selected
Writings"). Bản văn mà chúng ta có được ở trong Tập 2, là "Ký sự
Berlin" ("Berlin Chronicle") sớm sủa hơn tác phẩm kể trên, và
cũng được viết dưới cái bóng của Proust. Mặc dù cái tên, bản văn này
xây dựng,
không phải theo biên niên, mà như một dàn dựng những mẩu đoạn, xen lẫn
những
suy tưởng về bản chất của tự thuật, và sau cùng, là về những thăng trầm
của hồi
ức, hơn là về những biến cố có thực trong thời thơ ấu của Benjamin.
Benjamin sử
dụng một ẩn dụ mang tính khảo cổ học để giải thích tại sao ông chống tự
thuật,
như là tự sự về cuộc đời. Ông nói, nhà tự thuật nên nghĩ về chính mình,
như một
tay khai quật, đào sâu, sâu mãi, ở một vài chỗ, trong cuộc tìm kiếm
những điêu
tàn chôn giấu, của quá khứ.
Ngoài
"Nhật Ký Moscow" và "Ký sự
Berlin", Tập 1 và 2 gồm một số những bản văn tự thuật ngắn ngủi hơn:
một
báo cáo khá văn vẻ về chuyện bị một người yêu cho leo cây; những ghi
nhận về
những lần thử chơi cần sa (hashish); những ghi chép về những giấc mơ;
những mẩu
đoạn nhật ký (Benjamin đã bị ám ảnh bởi chuyện tự tử vào năm 1931 và
1931); và
một nhật ký Paris, được ông để tâm hoàn tất cho xuất bản, trong đó bao
gồm
chuyến đi thăm một nhà thổ nam, nơi Proust thường xuyên lui tới. Trong
số những
phát giác gây nhiều ngạc nhiên, là sự ái mộ [của Benjamin] dành cho
Hemingway
("Tu tập về nghĩ đúng, qua cách viết đúng", "an education in right
thinking through correct writing"), và [sự kiện ông] không ưa Flaubert
(quá nặng tính kiến trúc học, too architectonic).
**
Cơ
sở triết học và ngôn ngữ của Benjamin được đề ra ngay từ
khi khởi nghiệp. Trong tiểu luận chìa khóa, "Về Ngôn ngữ tự thân và về
Ngôn ngữ của Con người" ("On Language as Such and on the Language of
Man", 1916), ông khẳng định, một từ không chỉ là một ký hiệu, một thế
thân
cho một điều chi khác, nhưng là tên của một Ý tưởng (the name of an
Idea).
Trong "Nhiệm vụ của Dịch giả" (The Task of the Translator",
1921), ông cố gắng đưa ra bộ khung cho ý nghĩ của mình, về Ý tưởng,
viện dẫn
trường hợp Mallarmé và một ngôn ngữ thơ tự do, thoát ra khỏi chức năng
truyền
thông của nó.
Làm
sao mà một quan niệm mang tính Biểu tượng về ngôn ngữ
lại có thể giao lưu hòa giải với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Benjamin
ở giai
đoạn sau đó, điều này thật không rõ ràng, nhưng Benjamin duy trì [quan
điểm],
rằng một cây cầu có thể xây dựng, "tuy nhiên, cây cầu này có thể căng
thẳng, và mang tính vấn nạn". Trong những tiểu luận văn học của thập
niên
1930, ông đã mơ hồ cho thấy một cây cầu như vậy, hình dáng của nó ra
làm sao.
Ông nói, trong Proust, trong Kafka, trong những nhà Siêu thực, từ ngữ
rút lui
khỏi sự tạo ý nghĩa trong cung cách trưởng giả và lấy lại quyền năng sơ
khởi
mang tính điệu bộ của nó (the word retreats from signification in the
"bourgeois" sense and resumes its elementary, gestural power). Do đó,
trong "Tòa Lâu Đài", hai phụ tá của Trắc địa viên K. diễn ra cái
trạng thái bào thai chưa sinh, bằng cách khoanh tròn chân tay bất cứ
lúc nào mà
họ có thể làm được, cuộn mình như trái banh. Điệu bộ là "hình thức tối
thượng theo đó sự thực có thể xuất hiện trước chúng ta trong một thời
đại bị
tước đoạt thần học (theological doctrine)."
Thời
Adam, từ ngữ và điệu bộ [dùng để] gọi tên [sự vật] là
như nhau. Rồi sau đó, ngôn ngữ đã trải qua một sa đọa dài, mà [tháp]
Babel chỉ
là một giai đoạn. Nhiệm vụ của thần học là khôi phục từ ngữ, với tất cả
quyền
năng bắt chước bản gốc của nó, từ những bản văn thiêng liêng mà nó còn
được gìn
giữ ở trong đó. Nhiệm vụ của phê bình thiết yếu cũng không khác, bởi vì
các
ngôn ngữ sa đọa, trong toàn thể những ý hướng của chúng, vẫn có thể chỉ
cho
chúng ta hướng về cái ngôn ngữ thuần khiết kia. Do đó, nghịch lý ở
trong
"Nhiệm vụ của người dịch thuật" là: dịch thuật còn cao hơn cả bản
chính, theo nghĩa, nó ra điệu bộ về phía cái ngôn ngữ tiền-Babel.
Bejamin
có viết một số bài về khoa chiêm tinh, chúng là
những đối trọng cần thiết so với những gì ông viết về triết lý ngôn
ngữ. Khoa
chiêm tinh mà chúng ta có ngày nay, ông nói, là một văn bản suy thoái
của một
nền tri thức cổ xưa, ở những thời đại mà khả năng bắt chước, còn mạnh
mẽ, cho
phép những tương ứng mô phỏng (imitative), có thực, giữa đời người và
chuyển
động của những vì sao. Ngày nay chỉ trẻ con là còn giữ được, và đáp ứng
được
với thế giới, bằng một quyền năng bắt chước có thể so sánh được [với
những thời
đại kể trên].
Trong
những tiểu luận tính từ 1933, Benjamin phác thảo một
lý thuyết về ngôn ngữ dựa trên sự mô phỏng (mimesis). Ngôn ngữ thời
Adam mang
tính tượng thanh, ông nói; những từ đồng nghĩa trong những ngôn ngữ
khác nhau,
tuy không đọc lên như nhau, hoặc trông không giống nhau (lý thuyết này
được sử dụng
cho cả ngôn ngữ nói cũng như viết), chúng có những tương tự "phi cảm
quan", những tương tự mà từ đó chúng có ý nghĩa, như những lý thuyết
"huyền bí", hay "thần học", về ngôn ngữ, luôn luôn nhìn
nhận. Những từ "bánh mì", "pain", "Brot",
"xleb", mặc dù bề ngoài khác hẳn nhau, nhưng chúng giống nhau, ở mức
độ sâu xa hơn, [bởi vì trong chúng đã] cưu mang Ý tưởng về bánh mì. (
Để có thể
thuyết phục chúng ta về một điều mơ hồ như vậy, Benjamin chắc là phải
vận dụng
hết quyền năng của mình). Ngôn ngữ, phát triển tối thuợng của khả năng
bắt
chước, mang trong chính nó một thư khố những tương tự phi cảm quan đó.
Việc đọc
có tiềm năng trở thành một thứ kinh nghiệm mơ mòng, mở cho chúng ta cõi
vô thức
chung của loài người: cõi ngôn ngữ, miền ý tưởng.
Tiếp
cận ngôn ngữ của Benjamin hoàn toàn trật bản lề so với
khoa học ngôn ngữ thế kỷ 20, nhưng nó ban cho ông một lối đi vương giả
vào thế
giới của huyền thoại và ngụ ngôn, đặc biệt là, (như ông cảm nhận được
điều
này), nó đưa ông tới gần "thế giới đầm lầy" ban sơ, hầu như trước khi
có con người, của Kafka. Một cách đọc miệt mài Kafka đã để dấu ấn không
phai mờ
trên những bản viết sau cùng, bi quan, của chính Benjamin.
3.
Câu
chuyện về "Thương Xá" đại khái như sau.
Vào
cuối thập niên 1920 Benjamin thai nghén một tác phẩm
được gợi hứng từ những hành lang, hai bên có cửa hàng buôn bán, trên có
mái che
hình cung của Paris. Nó đề cập tới kinh nghiệm đô thị; nó sẽ là một văn
bản về
Người Đẹp Ngủ Trong Rừng, một câu chuyện thần tiên mang tính biện
chứng, được
kể theo kiểu siêu thực, qua phương pháp dàn dựng bằng những đoạn văn
mảnh mún.
Giống như nụ hôn của vị hoàng tử, nó sẽ đánh thức quần chúng Âu châu,
đối diện
với sự thực về cuộc đời của họ dưới chủ nghĩa tư bản. Nó sẽ dài cỡ
chừng năm
chục trang; trong khi sửa soạn cho việc viết bản văn trên, Benjamin bắt
đầu lấy
những trích dẫn, từ những gì ông đọc, để dưới những đầu đề như là U
Uất, Thời
Trang, Bụi Bặm. Nhưng khi ông đính chúng lại với nhau thành một bản
văn, nó trở
nên quá khổ: từng phen đính là từng phen thêm ghi chú, trích dẫn. Ông
bàn những
khốn khó của mình với Adorno và Max Horkheimer, họ thuyết phục ông,
rằng ông
không thể viết về chủ nghĩa tư bản mà không nắm vững tư tưởng của Marx.
Thế là,
ý tưởng về Người Đẹp Ngủ Trong Rừng mất tiêu luôn phong quang của nó.
Vào
năm 1934, Bejamin có một chương trình mới, đầy tham vọng
và tràn trề tính triết học: dùng ngay phương pháp dàn dựng trên, ông
vạch ra
con đường từ thượng tầng cấu trúc văn hóa của nước Pháp thế kỷ 19, trở
lại, tới
những thương phẩm và quyền năng của chúng, để trở nên những bái vật.
Khi những
ghi chú của ông trở thành cồng kềnh, ông phân chúng thành một hệ thống
hồ sơ tỉ
mỉ dựa trên ba mươi sáu cuốn (convolutes, từ tiếng Đức, Konvolut, có
nghĩa là
sheaf, dossier, hồ sơ), với những từ chìa khoá và những đối chiếu. Dưới
tựa đề
"Paris, Thủ đô của thế kỷ 19", ông viết một bản tóm lược tư liệu được
sắp xếp, rồi trình cho Adorno (lúc này đang ăn lương của Viện Nghiên
cứu Xã
hội, và theo một mức độ nào đó, có trách nhiệm với Viện, khi đó đã được
Adorno và
Horkheimer chuyển từ Frankfurt tái định cư ở New York).
Benjamin
nhận được những lời phê bình khắc nghiệt từ Adorno,
đến nỗi ông quyết định tạm thời để dự án qua một bên, và rút ra từ khối
lượng
tài liệu đó một cuốn sách về Baudelaire. Adorno được coi một phần của
cuốn
sách, và tỏ ra nghiêm ngặt: chỉ mới đưa ra sự kiện để chúng tự nói về
chúng,
chưa đủ lý thuyết. Benjamin nhuận sắc lại, sau đó, và được đón nhận
nồng nhiệt
hơn.
Baudelaire
là trung tâm của chương trình Thương Xá bởi vì,
dưới mắt Benjamin, Baudelaire qua tác phẩm "Ác Hoa" ("Les Fleurs
du Mal"), là người đầu tiên khám phá ra đô thị hiện đại: như một đề tài
của thi ca. (Benjamin hình như lúc đó chưa đọc Wordsworth, là người năm
mươi
năm trước đó, đã viết về cái cảm giác khi là một phần trong đám đông
trên đường
phố: ba bề bốn bên chịu trận trước những cái nhìn xiên xéo, và bị quáng
gà vì
những tấm biển quảng cáo).
Tuy
nhiên, Baudelaire đã diễn tả kinh nghiệm của mình về
thành phố, bằng ám dụ (allegory), một hình thức văn học lỗi thời, kể từ
thời kỳ
Baroque. Thí dụ như trong bài thơ "Thiên Nga", ông ám chỉ nhà thơ như
là một loài chim phong nhã, một con thiên nga, quờ quạng trên hè phố,
không làm
sao xoải cánh để bay vút lên.
Tại
sao Baudelaire chọn hình thức ám dụ? Benjamin sử dụng
"Tư Bản Luận" của Marx để giải thích câu hỏi của chính mình. Marx
nói, sự nâng giá cả thị trường thành thước đo giá trị duy nhất đã giản
lược
thương phẩm thành chẳng là chi hết, mà chỉ là ký hiệu – một ký hiệu của
cái nó
bán ra. Dưới sự ngự trị của thị trường, vật thể sẽ tương quan với giá
trị thực
thụ của chúng một cách độc đoán chẳng khác nào như thời Baroque, biểu
tượng sọ
người tương quan với [sự kiện] con người bị lệ thuộc vào thời gian, thí
dụ vậy.
Do đó, các biểu tượng bất ngờ quay ngược về một giai đoạn lịch sử dưới
dạng
thương phẩm, là những thứ trong chủ nghĩa tư bản không còn như dạng bề
ngoài
của chúng, và như Marx cảnh cáo, chúng chứa đầy những tế vi siêu hình
và những
chi li thần học." Benjamin lập luận, ám dụ chính là phong cách đúng đắn
cho một thời đại thương phẩm.
Trong
khi làm việc với cuốn sách chẳng bao giờ hoàn tất, về
Baudelaire, Benjamin tiếp tục những ghi chú về Thương Xá, thêm vô những
cuốn
(convolutes). Sau chiến tranh, người ta lôi ra, từ chỗ giấu giếm tại
Thư viện
Quốc gia, một xấp dầy chừng chín trăm trang, bao gồm những trích dẫn,
chủ yếu
từ những nhà văn thế kỷ 19, nhưng cũng từ những người đương thời với
Benjamin,
được chia thành từng nhóm, với những tiêu đề, xen những bình luận, cộng
những
chương trình, những đề cương này nọ. Được Rolf Tiedemann xuất bản năm
1982,
dưới nhan đề là "Passagen-Werk". Bản dịch của Harvard, "Thương
Xá’, dùng bản văn của Tiedemann, nhưng bỏ đi rất nhiều tài liệu làm nền
và
khung biên tập, của Benjamin. Tất cả những đoạn tiếng Pháp đều được
dịch qua
tiếng Anh, cộng thêm những ghi chú bổ ích, và tràn đầy hình ảnh minh
họa. Đây
là một cuốn sách rất bảnh, và trong cách xử lý những đối chiếu phức tạp
của
Benjamin cho thấy: đây là một thắng lợi của kỹ thuật in tinh xảo.
Lịch
sử của "Thương Xá" – một lịch sử của lần lữa,
và những khởi đầu hỏng cẳng, của những lang thang trong những mê lộ thư
khố,
tìm kiếm cho đến triệt để, tất cả những nét này đúng là đặc trưng của
một tính
khí sưu tập, xoay chuyển cơ sở lý thuyết hoài hoài, của sự phê bình quá
dễ dàng
gánh chịu, và thường cho rằng, Benjamin không hiểu chính đầu óc mình –
lịch sử
ấy có nghĩa, cuốn sách chúng ta hiện có, cơ bản phải là dở dang: dở
dang trong
thai nghén, và hiểu theo nghĩa thông thường, khó thể gọi [đây] làø một
cuốn
sách được sáng tác. Tiedemann so sánh nó như những vật liệu xây cất một
căn
nhà. Giả dụ như căn nhà được xây cất, thì chất keo gắn bó ắt sẽ là tư
tưỡng của
Benjamin. Phần lớn tư tưởng đó nằm dưới dạng những đoạn chêm vào của
Benjamin,
nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng biết cách làm cho tư tưởng kia
phù hợp,
hoặc quán xuyến khối vật liệu.
Trong
tình trạng như vậy, Tiedemann nói, tốt nhất là chỉ in
những từ của riêng Benjamin, gạt bỏ những trích dẫn. Nhưng ý định của
Bejanmin,
tuy không tưởng, là, tới một điểm nào đó, lời bình của ông sẽ được âm
thầm rút
ra, để cho tài liệu trích dẫn chịu đựng toàn thể sức nặng của cấu trúc.
Trong
một cuốn sách chỉ dẫn vào năm 1852, có đoạn: Những vòm
cung ở Paris là "những đại lộ nội…, những hành lang trên có vòm thuỷ
tinh,
mở ra trọn một khu cao ốc… chạy dài hai bên hành lang là những gian
hàng lịch
sự nhất, một vòm cung như thế là một thành phố, một thế giới thu nhỏ
lại."
Vòm thuỷ tinh mở ra bầu trời, và kiến trúc bằng thép của chúng chẳng
bao lâu
được những thành phố Tây phương khác rập theo. Thời hoàng kim của những
thương
xá kéo dài tới cuối thế kỷ, khi chúng bị những cửa hàng bách hoá lấn át.
Cuốn
"Thương Xá" không hề được viết ra theo ý
hướng: một lịch sử kinh tế (mặc dù một phần trong tham vọng của nó, là
hành
động sửa sai, đối với toàn thể môn lịch sử kinh tế). Một phác thảo sơ
khởi gợi
ra một hình ảnh rất giống như ở trong" Thời thơ ấu ở Berlin":
Người
ta biết, Hy lạp cổ có những nơi, con đường đưa xuống
thế giới ở bên dưới. Tương tự, cuộc sống [khi] thức giấc của chúng ta,
là một
vùng đất mà, ở vài điểm che giấu nào đó, đưa xuống thế giới ở bên dưới
– một
vùng đất đầy những nơi chốn kín đáo, từ đó những giấc mơ trỗi dậy. Suốt
ngày,
chẳng nghi ngờ chi, chúng ta đi ngang qua, nhưng vừa mới chợp mắt, là
chúng ta
hăm hở mò mẫm con đường trở lại, để mất mình trong những hành lang tối
đen. Ban
ngày, mê cung của những nơi chốn thị tứ giống như ý thức; những vòm
cung… lối
xuống phố không dấu hiệu, không bảng chỉ tên đường (unremarked). Tuy
nhiên, đêm
đến, dưới khối lượng âm u của những căn nhà, bóng đen dầy đặc của nó
nhô ra như
đe dọa, và khách bộ hành đêm rảo bước – trừ phi có gan rẽ vào một ngõ
hẹp.
Hai
cuốn sách Benjamin dùng làm khuôn mẫu: "Một người
nhà quê ở Paris", của Louis Aragon, trong đó tác giả thân ái ca ngợi
hành
lang hý viện ("Passage de l’Opéra"), và "Spazieren in
Berlin" ("Lang thang ở Berlin"), của Franz Hessel, cuốn này tập
trung vào Kaisersgalerie [Kaisers là tên một thành phố ở Đức, nổi tiếng
vì có
một nhà thờ từ hồi đầu thời kỳ Gothic – thế kỷ 13-14 – và một phòng
trưng bầy
tranh], và quyền năng của nó: làm sống lại một thời vang bóng. Trong
cuốn sách
của mình, Benjamin mong làm sao nắm bắt được cái kinh nghiệm lang thang
ở Paris
giữa những gian hàng, một kinh nghiệm vẫn có thể hồi sinh được, vào
thời của
ông, khi "những vòm cung chấm phá điểm tô cảnh quang đô thị, như những
hang động còn giữ những bộ xương hóa đá của một loài quái thú đã tuyệt
chủng:
đó là khách tiêu thụ thời tiền-đế quốc của chủ nghĩa tư bản, [là] loài
khủng
long cuối cùng của Âu châu." Sự đổi mới lớn lao của Thương Xá chính là
dạng thức của tác phẩm. Nó dựa trên nguyên tắc dàn dựng [của điện ảnh],
đặt
những đoạn văn thuộc quá khứ và hiện tại cạnh kề nhau, với ước mong
rằng, chúng
sẽ nháng lửa và soi sáng cho nhau. Thí dụ như, nếu mục 2,1 của cuốn L,
chiếu về
việc mở ra một viện bảo tàng nghệ thuật ở cung điện Versailles vào năm
1837,
được đọc nối kết với mục 2,4 của cuốn A, vẽ lại sự phát triển thương xá
thành
những cửa hàng bách hóa, như thế là trong trí người đọc lý tưởng, sẽ
loé lên sự
tương tự, "viện bảo tàng so với cửa hàng bách hóa, thì cũng giống như
nghệ
phẩm so với thương phẩm."
Theo
Max Weber, mất tín ngưỡng và bỏ cõi thiên đàng là dấu
ấn của thế giới hiện đại. Benjamin nhìn theo một góc độ khác: chủ nghĩa
tư bản
đã ru ngủ người ta, và họ chỉ thức giấc khỏi cơn mê ly tập thể, khi nào
người
ta làm cho họ hiểu được, chuyện gì đã xẩy ra với họ. Câu tiêu đề của
cuốn N, là
từ Marx: "cải tạo ý thức CHỈ gói trọn vào điều … thức tỉnh thế giới,
khỏi
cơn mê tự thân." (The reform of consciousness consists solely in…. the
awakening of the world from its dream about itself").
Những
giấc mơ của thời kỳ tư bản đã nhập thể vào thương
phẩm. Toàn thể, chúng tạo hồn ma bóng quế, thay hình đổi dạng hoài hoài
tùy
theo sự trồi sụt của thời thượng, [những thương phẩm như thế đó] được
ban cho
đám đông, là lũ tín đồ mê ly đắm đuối, như hiện thân của những dục vọng
sâu
thẳm nhất ở trong họ. Hồn ma bóng quế luôn luôn giấu gốc gác của nó
(vốn là lao
động bị vong thân). Hồn ma bóng quế với Benjamin cũng giông giống như ý
hệ với
Marx – một mạng những gian dối công cộng được quyền năng của tư bản duy
trì,
nhưng nó càng giống hơn [nếu so sánh với] sự tạo mộng của Freud, [khi
nó] tác
động lên tập thể, xã hội.
**
"Tôi
không cần nói điều chi. Chỉ bầy ra thôi, " (I
need’nt say anything. Merely show," Benjamin nói; và ở một chỗ khác,
"Ýùtưởng so với vật thể, như tinh hà so với những vì sao." Nếu bức
khảm của những trích dẫn được thiết dựng đúng đắn, thì một dạng thức sẽ
xuất
hiện, một dạng thức [còn] hơn [cả] tổng số những thành phần, nhưng
không thể
hiện hữu độc lập với các thành phần đó. Đây là yếu tính của một hình
thức mới,
trong cách viết duy vật lịch sử mà Benjamin tin rằng ông đang hành xử.
Điều
làm Adorno ngán ngẩm về dự án vào năm 1935, đó là niềm
tin của Benjamin: rằng chỉ cần lắp ghép những vật thể (trong trường hợp
này,
những trích dẫn tách ra khỏi ngữ cảnh), là có thể tự nói về nó. Ông
viết,
"Benjamin ở ngã ba đường, giữa huyền thuật và chủ nghĩa thực chứng."
Vào năm 1948, Adorno đã có dịp may được đọc toàn bộ văn bản "Thương
Xá"ù, nhưng lại một lần nữa, tỏ ra nghi ngờ, rằng nó quá nhẹ về lý
thuyết.
Đối
với những phê phán kiểu trên, cách trả lời của Benjamin
là phát minh ra ý niệm về hình ảnh biện chứng – để làm điều đó, ông trở
lại với
khoa biểu tượng của thời kỳ Baroque – những ý tưởng đại diện bằng hình
ảnh – và
ám dụ theo kiểu Baudelaire – sự tương tác, the interaction, của ý tưởng
được
thay bằng sự tương tác của vật thể làm biểu tượng. Ám dụ, theo ông, có
thể đoạt
vai trò của tư tưởng trừu tượng.
Những
vật thể và hình tượng (figures) ở trong những thương
xá – những con bạc, những gái điếm, những tấm gương soi, những hình
tượng bằng
sáp, những con búp bê chạy bằng dây thiều – (đối với Benjamin) là những
biểu
tượng (emblems), và sự tương tác giữa chúng tạo nên nghĩa; nghĩa ám dụ
này
không cần du nhập lý thuyết. Theo cùng những dòng, những mẩu đoạn của
bản văn,
lấy ra khỏi quá khứ, đặt vào trong dẫn trường (charged field), của hiện
tại
mang tính lịch sử, chúng có thể ứng xử chẳng khác chi những thành phần
của một
hình ảnh Siêu thực, tức thời tương tác để phát ra năng lượng chính trị.
(Benjamin
viết, "Những biến cố quanh nhà sử học, và trong đó, ông tham dự, sẽ làm
nền cho sự trình bầy lịch sử của ông, như một văn bản viết bằng một thứ
mực vô
hình."). Như vậy, các mẩu đoạn tạo nên hình ảnh biện chứng, [trong khi]
vận động biện chứng bị ngưng đọng trong khoảnh khắc, mở phơi cho thẩm
sát, [đây
là] "phép biện chứng ở điểm đứng" ("dialectic at a
standstill"). Chỉ những hình ảnh biện chứng mới là những hình ảnh đích
thực.
Lý
thuyết là thế đó, khéo léo đấy, và là điều cuốn sách, bề
sâu mang tính phản lý thuyết của Benjamin, hướng vọng. Nhưng với những
độc giả
không bị lý thuyết kia thuyết phục, đối với độc giả mà những hình ảnh
hiện hữu
kia chẳng bao giờ trở thành sống động như trong giả thuyết, những độc
giả có lẽ
chẳng tiếp thu lối tự sự chủ chốt về giấc ngủ triền miên của chủ nghĩa
tư bản,
tiếp theo là bình minh của chủ nghĩa xã hội: đối với độc giả đó, cuốn
"Thương Xá" có gì để cống hiến?
Danh
sách ngắn ngủi trong những thứ cống hiến sẽ gồm: một
kho báu những thông tin kỳ lạ về Paris; vô vàn những trích dẫn gợi suy
tư, sự
thu hoạch của một trí tuệ sắc bén và đặc dị bủa lưới qua hàng ngàn cuốn
sách;
những nhận xét cô đọng, được mài giũa để ánh lên, sắc nước như châm
ngôn, và
hầu hết những chủ đề ưu ái của Benjamin (thí dụ: "mại dâm có thể đòi
được
coi là ‘lao động’, vào lúc mà lao động trở thành mại dâm."
(Prostitution
can lay claim to being ‘work’ the moment work becomes prostitution.");
và
những thoáng nhìn của Benjamin, khi ông đùa giỡn với một cách nhìn mới
về chính
mình: như là một nhà sưu tập những "từ chìa khóa trong một cuốn từ điển
bí
mật," người biên soạn cuốn "bách khoa huyền ảo". Bất thình lình,
Benjamin, độc giả nhập thất của một thành phố ám dụ, có vẻ gần gụi với
người
đồng thời của ông, là Jorge Luis Borges, nhà ngụ ngôn về một vũ trụ
được viết
lại.
Từ
một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi
nhớ một điêu tàn lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc"
("Cantos"), của Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm
tháng đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng
nên từ
những mẩu đoạn và những trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học
hiện đại
bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và
đều nằm
dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên là Marx, và một bên
là Gesell
và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư vào trong những ngành cổ học,
và cả
hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với thời đại của
chính họ.
Chẳng người nào biết, khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma
vì con
quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin, là một kết cục bi đát.
Với Pound,
ô nhục.
Số
phận của "Thi Khúc": chỉ được trích dẫn đưa vào
tuyển tập, cái còn lại cứ thế mà âm thầm bị bỏ rơi. Số phận của "Thương
Xá" chắc cũng tương tự. Người ta có thể tiên đoán, về những ấn bản dành
cho sinh viên, rút ra chủ yếu là từ Cuốn B ["Thời Trang"), H
("Kẻ Sưu Tập), I ("Nội Thất"), J ("Baudelaire"), K
("Thành Phố Mộng"), N ("Tri Thức Luận "), và Y ("Nhiếp
Ảnh"), trong đó, những trích dẫn sẽ bị cắt bỏ chỉ còn tối thiểu và hầu
hết
văn bản sót lại sẽ là do chính Benjamin viết.
Đó
chắc không phải hoàn toàn là một điều xấu.
4.
Phạm
vi những đề tài quan tâm được trình bầy trong
"Tuyển Tập" thì rộng. Ngoài những bản văn được bàn tới ở trong bài
điểm sách này, còn có tuyển thêm những bài viết thuở mới khởi nghiệp,
rõ nét
duy tâm, về giáo dục; nhiều tiểu luận phê bình văn học, gồm cả hai tiểu
luận
dài về Goethe, một dẫn giải về cuốn tiểu thuyết "Tương khí tương cầu"
("The Elective Affinities"), một tổng quan bậc thầy về sự nghiệp của
Goethe; những tuỳ bút, đề tài đa dạng, về triết học (luận lý, siêu
hình, mỹ
học, triết học về ngôn ngữ, triết học về lịch sử); những tiểu luận về
sư phạm,
về sách trẻ em, về đồ chơi, một bài rất lôi cuốn về thú chơi sách của
bản thân
tác giả; và đủ thứ bài viết về du lịch, và những chuyến lãng du vào cõi
giả
tưởng. Tiểu luận về "Tương khí tương cầu" sừng sững như một phong
cách chơi kỳ dị: Một trường ca trữ tình độc tấu, bằng một văn phong cao
sang,
tế nhị tuyệt vời, ngợi ca tình yêu và cái đẹp, huyền thoại và số mệnh,
giọng
bổng chót vót nhờ mối thanh khí ngầm mà Benjamin nhìn ra giữa lớp lang
của cuốn
tiểu thuyết kể trên, và cuộc tình tay tư đắm đuối, bi hài mà vợ chồng
ông bị
mắc míu.
Tập
thứ ba và là tập chót của "Tuyển Tập" phải tới
mùa xuân năm 2002 mới được xuất bản. Sẽ bao gồm những bản tóm tắt của
Benjamin,
về "Thương Xá", vào những năm 1935, 1938, và 1939; "Nghệ
Phẩm", qua hai bản văn; "Người kể chuyện"; "Một thời thơ ấu
ở Berlin"; "Những luận đề về Quan niệm Lịch sử" ("Theses on
the Concept of History"), và một số thư chìa khóa trao đổi giữa Adorno
và
Scholem, trong có cả lá thư quan trọng vào năm 1938, về Kafka.
Dịch
thuật ở Tập 1 và 2, là do nhiều người, và tuyệt hảo.
Nếu phải kể một người kiệt xuất thì đó là Rodney Livingstone, do hiệu
quả kín
đáo – thay đổi văn phong và giọng điệu - để ghi dấu con đường phát
triển của
Benjamin như một nhà văn. Những chú thích cũng gần đạt tiêu chuẩn cao
đó, nhưng
không bằng. Thông tin về những nhân vật mà Benjamin nhắc tới, đôi khi
bị lỗi
thời (như với Robert Walser) hay không đúng: niên đại về Karl Korsch -
là người
mà Benjamin dựa vào rất nhiều, trong việc tìm hiểu Marx (Korsch bị khai
trừ
khỏi Đảng Cộng sản Đức vì những quan điểm lệch lạc) - được ghi là
1892-1939,
trong khi đúng ra phải là 1886-1961. Có một số lầm lẫn về từ Hy lạp và
La tinh.
Một
vài lối hành xử của nhóm biên tập và dịch thuật cũng gây
thắc mắc. Benjamin có thói quen viết những đoạn dài nhiều trang: lẽ ra
dịch giả
phải tự tiện ngắt chúng ra. Đôi khi, hai bản thảo của cùng một văn bản
được đưa
cả vào sách mà không nêu rõ lý do. Những bản dịch hiện hữu từ những văn
bản Đức
mà Benjamin trích dẫn, được nhóm biên tập sử dụng, rõ ràng không đạt
tiêu
chuẩn.
**
Walter
Bejamin là ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một
sử gia? Hay "chỉ là" một nhà văn?
Câu
trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah Arendt: ông ta là
một "trong số những người không thể xếp loại… là những người có tác
phẩm
không hợp với trật tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới
nào."
Cách
tiếp cận độc đáo của ông – tới với một đề tài không
theo lối thẳng băng, mà đi xiên từ một góc độ, bước từng bậc, từ một
tổng kết
qui mô đã hoàn hảo, tới bậc kế tiếp – khiến người ta nhận ra ngay, vì
chẳng ai
bắt chước nổi, với trí tuệ sắc bén, với kiến thức nhẹ mang, và với một
văn
phong chính xác và súc tích tuyệt vời, đã có lần ông đành không dám
nghĩ về
mình, là giáo sư tiến sĩ. Làm sao tới được sự thực về thời đại của
chúng ta, đó
là cốt lõi dự án của ông, và nó được nhấn mạnh bởi một tư tưởng, mà
Bejamin
nhận thấy, đã được diễn tả bởi Goethe: làm bật ra những sự kiện, theo
kiểu này:
những sự kiện sẽ là lý thuyết của chính chúng.
Cuốn
sách "Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó
như thế nào – điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project
– đề
nghị một đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác
rưởi làm
chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đóù; lịch sử từ
đáy
thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận
đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những
người thua, thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang
đầy tính
tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong
quãng
đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.
Jennifer
Tran chuyển ngữ bài viết của Coetzee, "The
Marvels of Walter Benjamin", trên tờ "Điểm sách New York", số đề
ngày 11.1.2001).
Ghi chú thêm về Walter Benjamin, trường phái Frankfurt, và
J.M. Coetzee.
Walter
Benjamin, văn nhân, nhà mỹ học, hiện nay được coi là
nhà phê bình văn học Đức quan trọng nhất của nửa đầu thế kỷ 20.
Xuất thân từ
một gia đình Do thái giầu có, Benjamin học
triết tại Berlin, Freiburg im Breisgau, Munich, và Bern. Định cư tại
Berlin vào
năm 1920 và sau đó làm phê bình văn học và dịch giả. Nửa muốn theo đuổi
một
chân khoa bảng, nửa không, sau cùng giấc mộng nửa vời này cũng thành
không, khi
Đại học Frankfurt không công nhận luận án tiến sĩ của ông, Nguồn gốc Bi
Kịch
Đức (1928): sáng chói, nhưng không đúng qui ước. Khi Quốc Xã lên nắm
quyền
(1933), ông qua Pháp, định cư tại Paris. Tiếp tục viết tiểu luận và
điểm sách
cho các tạp chí, nhưng khi Pháp rơi vào tay Nazi vào năm 1940, ông chạy
xuống
miền nam với hy vọng tới được Hoa Kỳ qua ngả Tây Ban Nha. Được viên
cảnh sát
trưởng thành phố Port-Bou gần biên giới Pháp-Tây Ban Nha cho biết ông
sẽ bị
giải giao cho Gestapo, Benjamin tự hủy mình.
Tính
chất siêu hình trong tư tưởng hồi trẻ làm ông nghiêng
về Marxist trong thập niên 1930, và là một trong những thành viên của
trường
phái Frankfurt, gồm một nhóm nghiên cứu liên kết với Viện Nghiên Cứu Xã
Hội ở
Frankfurt am Main, Đức quốc. Viện này được thành lập năm 1923, bởi Carl
Grunberg, và là viện nghiên cứu đầu tiên theo đường hướng Marxist được
kết hợp
với một đại học lớn ở Đức, Đại học Frankfurt. Max Horkheimer nắm quyền
giám đốc
viện vào năm 1930, và qui tụ quanh ông rất nhiều lý thuyết gia tài
năng, bao
gồm T.W. Adorno, Erich Fromm, Herbert Marcuse, và Walter Benjamin.
Những
thành viên của nhóm này cố gắng phát triển một lý
thuyết về xã hội dựa trên chủ nghĩa Marx và triết học Hegel, nhưng còn
sử dụng
cả những nhận thức về phân tâm học, xã hội học, triết học hiện sinh, và
nhiều
môn học khác nữa. Họ sử dụng những quan niệm Marxist cơ bản để nghiên
cứu những
liên hệ ở bên trong những hệ thống kinh tế tư bản. Cách tiếp cận này
sau được
biết dưới cái tên "lý thuyết phê bình" (critical theory) nhắm vào
những tổ hợp lớn, những cơ sở độc quyền thao túng thị trường, vai trò
của kỹ
thuật học, kỹ nghệ hóa văn hóa (industrialization of culture), và sự
thoái hoá
của cá nhân con người bên trong xã hội tư bản. Chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa
toàn trị cũng là những đề tài nghiên cứu nổi bật của họ. Rất nhiều bài
viết
được đăng trên tờ báo của viện (Journal for Social Research, 1932-41).
Hầu hết
những học giả của viện đã bắt buộc phải rời bỏ Đức quốc, và tị nạn ở Mỹ
sau khi
Hitler lên cầm quyền (1933), và viện sau đó được kết hợp với Đại học
Columbia
cho tới năm 1949, khi nó lại trở về nguyên quán là Frankfurt. Vào thập
niên
1960, hầu hết trong số họ đều tỏ ra ‘quá chán’ cái gọi là "chủ nghĩa
Marx
chính thống", tuy vẫn giữ một thái độ phê bình cứng rắn đối với chủ
nghĩa
tư bản. Phê bình của Marcuse về điều mà ông gọi là sự gia tăng kiểm
soát mọi
sắc thái trong cuộc sống xã hội của chủ nghĩa tư bản đã gây một ảnh
hưởng lớn
lao ở giới trẻ (ông này có thời được coi là một trong ba đại sư, tên
bắt đầu
bằng chữ M: Marx, Mao và Marcuse). Tuy nhiên khuôn mặt nổi bật nhất của
lò
Frankfurt những thập niên hậu chiến, là Jurgen Habermas. Ông đã cố gắng
mở rộng
lý thuyết phê bình vào những phát triển trong triết học phân tích, cơ
cấu luận
và cổ văn.
Với
Walter Benjamin, những tác phẩm xuất bản sau khi ông đã
mất ngày một làm tăng thế giá của ông, ở cuối thế kỷ 20. Những tiểu
luận văn
chương chứa đựng những suy tưởng triết học được viết bằng một văn phong
cô
đọng, nặng chất thơ. Phê bình xã hội và nghiên cứu ngôn ngữ tẩm đẫm nỗi
quan
hoài lịch sử, và niềm bi ai.
Tính
uyên nguyên, độc lập trong tư tưởng của ông thật là
hiển nhiên trong tiểu luận về Goethe (Goethe’s Elective Affinities,
1924-25),
và những tiểu luận được in trong "Illuminations", 1961.
(Tài
liệu trích từ Bách khoa tự điển Britannica
Encyclopedia).
Nhà
xuất bản Belknap Press/Harvard University Press vừa mới
cho ra lò những tác phẩm sau đây của ông:
Selected
Writings, Volume I: 1913-1926; 520 trang, bìa cứng,
giá $37.50.
Selected
Writings, Volume II:1927-1934; 870 trang, bìa cứng,
giá $37.50.
The
Arcades Project; 1,073 trang, bìa cứng, giá $37.50.
**
Trên
tờ Người Kinh Tế số ra ngày 19 tháng Hai 2000, dưới đề
mục "Những anh hùng của cuộc chiến. Chẳng bao giờ quên", là bài điểm
cuốn "Một Người Mỹ Trầm Lặng: Cuộc chiến bí mật của Varian Fry", tác
giả Andy Marino (nhà xb St Martin’s Press).
Theo
bài viết, vào tháng Tám 1940, một ký giả Mỹ, trẻ, xuất
thân Harvard, đã tới cảng Marseilles "để cứu vớt những gì còn lại của
văn
hóa Âu Châu trước khi quá trễ". Ông muốn nói, những con người, chứ
không
phải những nghệ phẩm. Trong số những người nhờ ông mà toàn mạng có
những khuôn
mặt nổi cộm, có số lúc đó ở trong trại cấm Pháp, có số đang ẩn trốn.
Rồi tin
tức được loan truyền, nhiều người không có tên trong danh sách của Fry
cũng xúm
nhau tới gõ cửa nhà Fry. Ông và những người cộng sự có cảm tưởng, họ là
những
"y sĩ trong cơn địa chấn", thứ tình cảm bất lực trước hoàn cảnh, vốn
được chia sẻ bởi hầu hết những con người làm công việc thiện nguyện.
Danh
sách những người được Fry giúp đỡ trở thành một thứ
"Who’s Who" của văn hóa thế kỷ 20, trong đó có Hannah Arendt, Marc
Chagall, ba tay đầu sỏ của trường phái siêu thực Max Ernst, André
Breton và
André Masson. Đó là những người may mắn. Một trong số họ, nhà văn người
Đức,
Lion Feuchtwanger, khi tới được New York, đã "dại đột" kể lại cuộc
trốn chạy may mắn của mình cho báo chí hay. Bởi vậy, một cặp đã bị bắt
tại
Madrid: họ ngừng lại để thăm viếng Prado.
Cảnh
sát chính quyền Vichy thân Quốc Xã lẽ dĩ nhiên muốn tóm
Fry, nhưng ông còn bị toà đại sứ, lãnh sự Mỹ ghẻ lạnh; ngoại trừ tay
lãnh sự ở
Marseilles, số còn lại đều tỏ ra thù nghịch và bài Do Thái. Ngược lại
Fry được
giới "dưới hầm" ở cảng Marseilles và nhất là Mafia gốc đảo Corse, tận
tình giúp đỡ.
Chưa
đầy một năm Fry bị bắt giữ, và tống xuất. Điểm tống
xuất là làng Banguls, nơi nhiều người tị nạn đã vượt biên giới.
Thật
khó mà sống lại một cách bình thường, sau cơn địa chấn
ghê gớm như vậy. Vợ chồng, hôn nhân tan vỡ, làm việc gì cũng thấy chán.
Ít
người chịu ơn còn nhớ tới Fry, ngoại trừ André Malraux, khi giữ chức Bộ
Trưởng
Văn Hoá, đã trao cho Fry huân chương danh dự (La Grande Croix de la
Legion
d’Honneur) vào năm 1967. Bốn tháng sau đó, Fry mất. Vào năm 1996, người
ta
trồng một cây để tưởng nhớ ông tại đại lộ The Avenue of the Righteous
Gentilles, ở Jerusalem.
Không
may mắn, có trường hợp của Walter Benjamin. Và cùng
với ông, là bản thảo một tác phẩm mà ông mong nó thoát khỏi Gestapo,
còn hơn cả
mạng sống của mình. (I cannot risk losing it. It… ‘must’ be saved. It
is more
important than I am).
**
Hannah
Arendt đã viết về Walter Benjamin, trong bài giới
thiệu tác phẩm "Illuminations" của ông (trích đoạn):
Fama,
nữ thần được (người đời) say đắm nhất, có nhiều bộ
mặt, và danh vọng (fame) tới với họ bằng đủ kiểu - từ tiếng tăm
một-tuần cho
tới vượt-thời-gian! Danh vọng "muộn" (posthume) - sau khi đã xuống lỗ
- ít được người đời ham chuộng, tuy đây là thứ vững vàng nhất. Thứ hàng
(nhà
văn) có lời nhất, thì đã chết, và do đó, không phải là đồ "lạc xoong"
(for sale).
Trong
vài món hiếm muộn, phi-thương, phi-lợi (uncommercial
and unprofitable), có Walter Benjamin. Không nổi tiếng, tuy có được
người đời
biết đến, như là một "cộng tác viên" cho vài tạp chí, trang văn nghệ
nhật báo trong thời gian chừng 10 năm trước khi Hitler nắm quyền, và
cuộc tống
xuất "tự nguyện" của riêng ông.
Cái
chết "tự nguyện" sau đó, vào những ngày sắp
sửa đứt phim, thời kỳ 1940, đối với nhiều người cùng gốc gác và thế hệ
ông, đã
đánh dấu một thời điểm đen tối nhất của cuộc chiến - mất nước Pháp, Anh
quốc bị
hăm dọa, và hiệp ước Hitler-Stalin (lúc đó) còn nguyên vẹn, và hậu quả
đáng sợ
nhất, từ nó: sự hợp tác chặt chẽ giữa hai lực lượng công an quyền lực
nhất tại
Âu-châu.
Giả
dụ đường đời bằng phẳng: chuyện đời sẽ khác hẳn, nếu
những kẻ chiến thắng trong cái chết, là những kẻ thành công trong cuộc
đời (How
different everything would have been "if they had been victorious in
life
who have won victory in death"). Danh vọng muộn, một điều chi rất ư kỳ
cục, cho nên không thể trách cứ, rằng không có mắt xanh (người đời mù
hết), hay
là chuyện chiếu trên chiếu dưới, xôi thịt, tham nhũng... trong "đám"
nhà văn, "ô nhiễm" trong "môi trường văn chương".
Bất
tri tam bách: không thể coi, đây là phần thưởng cay đắng
cho một kẻ đi trước thời của mình, như thể lịch sử là một chạy đua,
người chạy
nhanh nhất đã mất hút trước khi người đời kịp nhìn...
Ngược
lại: Trước khi có danh vọng muộn, đã có tri âm, dù ít
oi, giữa những kẻ ngang hàng. Khi Kafka mất vào năm 1924, sách của ông
bán
chừng vài trăm cuốn, nhưng với bạn văn và một ít độc giả, qua mớ tản
mạn này
(chưa có một cuốn tiểu thuyết nào của Kafka được xuất bản): không nghi
ngờ chi,
đây là một trong những bậc thầy của văn xuôi hiện đại. Walter Benjamin
cũng
được vinh dự này. Bertolt Brecht, khi được tin ông mất, đã tuyên bố:
đây là tổn
thất thực, thứ nhất, mà Lò Thiêu đã gây ra cho văn chương Đức.
George
Steiner, khi được hỏi, ảnh hưởng quan trọng nhất tới
cõi viết của ông, là gì, là ai, đã trả lời: Trường phái Frankfurt. Phải
chi mà
Benjamin không vội vã ra đi, chắc chắn người viết cuốn "Sau Babel"
(tác phẩm của George Steiner) phải là ông ta. Và nó sẽ tuyệt vời tới cỡ
nào!
John
Maxwell Coetzee sinh tại Cape Town (Nam Phi) ngày
19.2.1940. Học tại Đại học Cape Town và sau đó tại Đại học Texas, lấy
bằng Ph.D
(1969), và trở lại Nam Phi năm 1972, dậy Anh ngữ tại Đại học Cape Town.
Tiểu
thuyết gia, nhà phê bình, dịch giả; những cuốn tiểu thuyết của ông là
về hậu
quả của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay
của ông,
thực ra là hai truyện vừa, "Dusklands" (1974), ông đối chiếu sự hiện
diện của người Mỹ tại Việt Nam với những người Hòa Lan đầu tiên định cư
tại Nam
Phi. Trong lịch sử 31 năm của giải thưởng văn học The Booker, ông là
người đầu
tiên hai lần đoạt giải, lần thứ nhất vào năm 1983 với cuốn "Đời và Thời
của (Life and Times of) Michael K.", và năm 1999, với cuốn "Disgrace"
(Ô Nhục).
Nguyễn
Quốc Trụ