Hãy Nói Về Miền Nam
Câu
chuyện về một
"Muỗng Nước Mắm" của Nguyễn Thị Thụy Vũ
Nhưng câu chuyện về
một Deep South
của Quentin không chấm dứt với chiến tranh. Đại tá Sutpen về nhà,
[Quentin]
nói, để thấy rằng vợ đã chết, con trai, một kẻ trốn chạy, những nô lệ
của ông
phân tán (họ bỏ chạy trước khi được giải phóng bởi quân đội Union), và
hầu hết
đất đai của ông bị trưng thu do nợ nần.
(Malcolm Cowley giới thiệu William Faulkner, trong The
Portable Faulkner, nhà xb The Viking Press New
York)
"Tại sao anh thù ghét
Miền Nam?",
Shreve McCannon hỏi, sau khi nghe xong câu chuyện – "Tôi không thù Miền
Nam",
Quentin trả lời liền lập tức. "Tôi không thù Miền Nam,"
anh lập lại, như thể nói với tác giả, và với chính mình. Tôi không thù
…. Tôi
không. Tôi không thù! Tôi không thù!
William Faulkner.
Absalom, Absalom! (1936)
Trong số những truyện
ngắn của Thụy Vũ, có một, ít được nhắc
tới, nhưng có lẽ đây là truyện ngắn hay nhất của bà, cho thấy cái mạch
ngầm của
‘dòng văn học miền nam’: thiên về tâm linh, và nó ‘nhập thế’ qua hình
ảnh của
một đạo gia hơn là của một nhà văn. Đây là điểm thật khác biệt giữa hai
dòng
văn chương, một mang "chiến đấu tính", và một tuân theo sức mạnh vô
hình, của điều được gọi là "thiên tài của nơi chốn", hay của Thần Đất
(genius loci, the spirit or guardian deity of the place).
Đó là câu chuyện về
một người đàn bà, hình như một ‘Chị Hai’
trong một gia đình miền nam. Chị Hai nhiều khi không hẳn là một ruột
thịt trong
gia đình, mà chỉ là một người làm công lâu đời, người viết không khỏi
liên
tưởng tới người vú da đen, trong Âm Thanh và Cuồng Nộ của William
Faulkner:
những con người gìn giữ lương tâm của cả một miền đất. Malcolm Cowley
viết về
những nhân vật của Faulkner: dù anh hùng, hay tiểu nhân, họ có một cảm
quan kỳ
cục: nhẫn nhục với số mệnh của mình (They… carry, whether heroes or
vilains, a
curious sense of submission to their fate).
Bà Chị Hai của Thụy
Vũ, suốt đời ăn chay niệm Phật, tới phút
hấp hối, bỗng muốn được hưởng mùi trần: hãy cho tôi nếm thử một muỗng
nước mắm!
Thế là có người thì giẫy nẩy, đây là Quỉ ám, cản trở không cho bước vào
cõi
Phật. Họ viện dẫn, ngay cả Đức Phật trước khi đắc đạo, trước nhìn ra ý
nghĩa
đau khổ của cõi đời sinh tử lão bịnh, và tìm ra được giải thoát ra khỏi
vòng
luân hồi, cũng đã từng bị Quỉ ám ảnh. Có người gật gù, phải thực hiện
ao ước
cuối cùng của một linh hồn trước khi lìa đời….
Tôi không nhớ Thụy Vũ
đã ‘quyết định" ra sao, về nhân
vật của mình, "chấp nhận luân hồi, anh bước vô", hay là…
Theo tôi, câu chuyện
muỗng nước mắm của Thụy Vũ nằm trong
dòng văn chương "tâm linh", như một "Con Thằn Lằn Chọn
Nghiệp" của Hồ Hữu Tường. Hay một Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, của Nhất Hạnh.
(1)
Ở hải ngoại, chúng ta
thấy không khí tâm linh này thấp
thoáng ở một số tác giả như Miêng, Phạm Hải Anh…
"Hãy nói về Miền Nam",
một người bạn học ở chung phòng tại Harvard nói với Quentin. Một tay
người Canada
tên là Shreve McCannon vốn tò mò về một vùng đất chẳng ai biết
(unknown) vượt
bên ngoài Ohio. "Nó ra
sao", anh ta hỏi. "Người ta làm gì ở đó? Tại sao người ta sống ở đó.
Tại sao người ta sống, vậy đó?"
Nỗi băn khoăn về một
miền đất quá bên kia dẫy Trường Sơn, có
thời được coi là Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân, nhưng bắt đầu
trở thành
"unknown", không phải với một người Canada, mà là với chính mình, đó
là một ám ảnh viết mở ra Khung Rêu, của Thụy Vũ:
"Từ hồi nhỏ, tôi phải
chịu đựng một ám ảnh thường
xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở Miền Nam. Nguyên
nhân
chính của sự suy sụp này thì ai cũng biết: chiến tranh… Khi khởi công
viết
quyển truyện này, tôi đặt trước cho mình một chủ định: ghi lại cái ám
ảnh từ
thuở nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho
xong".
Khung Rêu, tác phẩm
được giải nhì văn học toàn quốc (1970)
làm độc giả say mê Faulkner nhận ra trang trại nho nhỏ có tên là
Sutpen’s
Hundred, lọt thỏm trong Thiên Đàng Giả Tưởng: Xứ Yoknapatawpha (The
Yoknapatawpha Country) của ông. Khung Rêu, qua tóm tắt của Vương Trùng
Dương,
trong bài viết Nguyễn Thị Thụy Vũ Giữa Dòng Đời Nghiệt Ngã: "Bối cảnh
câu
chuyện xoay quanh gia đình ông Phủ, điền chủ, quan lại, giai đoạn về
hưu. Nhìn
bên ngoài gia đình giầu sang nhưng bên trong từ ông Phủ đến con cái
chẳng ra
gì, con trai có đứa thì chơi bời trụy lạc, đứa thì dốt nát, con gái có
đứa lăng
loàn, đứa thì thất tình hóa điên, đứa thì ái nam ái nữ. Ông Phủ lắm vợ
nhưng
đầu óc đầy nhục dục, hãm hiếp người làm trong nhà tuổi bằng con cái…
tạo ra
thảm kịch, băng hoại của gia đình đến thời suy sụp"
Như trên cho thấy,
Thụy Vũ đổ cho chiến tranh gây nên sự suy
sụp. Nhưng Faulkner nhìn xa hơn, ông cho rằng sự suy tàn của Miền Nam,
là do
chính những con người của nó. Như Malcolm Cowley chỉ ra: Miền Nam Sâu
Thẳm được
cai trị bởi những điền chủ, một số là quí tộc như bộ lạc Sartoris,
trong khi
một số khác, là dân ở đâu mới tới, như Colonel Sutpen. Cả hai đều cùng
chung
một mục đích: xây dựng một trật tự xã hội lâu dài, trên một vùng đất họ
cướp
được từ những người thổ dân da đỏ. Đầu óc thẳng băng, sống theo một qui
luật
nhất định (fixe code), nhưng "sâu thẳm" ở trong họ, là một ám ảnh tội
lỗi, ở trong cách sống của họ, ở trong mơ ước tạo lập thiên đường hạ
giới của
họ (but there was also an inherent guilt in their "design", their way
of life); và chính chế độ nô lệ mà họ bắt dân da đen phải chịu đựng, đã
gieo
vào mảnh đất một lời nguyền, và từ đó, là Cuộc Nội Chiến. Như trong thư
của
Faulkner viết cho Cowley, đám con cháu của Sutpen đã coi ông như là một
thứ rác
ruởi, đồ trôi sông lạc chợ (trash, originless), nhưng lại cảm thấy được
an ủi,
bởi sự kiện: rằng một người như Sutpen, giấc mơ của họ mới cao làm sao,
nhưng
chỉ đủ sức mạnh, và sự dẻo dai, để thất bại một cách thật là cao cả
(the fact
that a man like Sutpen ‘could only have dreamed so high but have had
the force
and strength to have failed so grandly.) Do đó, không phải do tính
tình, mà
chính là do số mệnh, mà Sutpen trở thành một nhân vật mang tính biểu
tượng của
Miền Nam.
Faulkner thường được
coi như là một "ông già nhà
quê", với độc giả người Mỹ. Và không phải nước Mỹ, mà là thế giới, đặc
biệt là nước Pháp, đã "khám phá" ra ông. Nếu trí nhớ không phản lại
người viết, khi ông được Nobel văn chương, tờ NY Times, trong một bài
báo đã
"cảnh cáo" độc giả nước ngoài: đừng nghĩ rằng ở Mỹ, nơi nào cũng có
những thảm kịch loạn luân, thù hận da đen, như trong tiểu thuyết của
Faulkner
mô tả.
Cuộc Nội Chiến, kết
quả của nó, là một nước Mỹ hùng cường
ngày nay. Liệu một khi người Mỹ nhẩy vào Miền Nam Việt Nam, họ có mơ
tưởng một
lập lại lịch sử của chính họ, tại một vùng đất "unknown" nơi đầm lầy
nhiệt đới Việt Nam? Và họ đã thất bại một cách thật là cao cả?
Trên đây chỉ là một
"giả tưởng", của người viết
bài này, nhưng trên thực tế, với tác giả Thụy Vũ, nó là một hy vọng
thực sự,
nếu chúng ta để ý đến hoàn cảnh gia đình của bà, mà như tác giả Vương
Trùng
Dương, qua bài viết đã dẫn ở trên: "Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là
Nguyễn
Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long. Nhà văn sống giữa lằn ranh
Quốc-Cộng trong gia đình. Vì sống giữa lằn ranh đó, Nguyễn Thị Thụy Vũ
đã gánh
chịu bao điều ngộ nhận về khuynh hướng chính trị… thân phụ là nhà thơ
Mặc Khải,
tác giả Phấn Nội Hương Đồng. Mặc Khải nằm vùng, hoạt động cho Cộng
Sản…".
Nếu Thụy Vũ cho rằng chiến tranh là duyên do của suy sụp, nhưng bởi vì
"sống giữa lằn ranh", bà cũng còn tin tưởng, chiến tranh dưới dạng
giải phóng, là khởi đầu một hưng thịnh của nó.
Jennifer Tran
Chú thích:
(1) Người viết xin
tóm tắt sơ qua, cái nghiệp của một con
thằn lằn. Tác giả của nó, Hồ Hữu Tường, theo người viết, cũng là một
thứ đạo
gia, xuống núi hành hiệp, qua những vai trò: hiệp sĩ, khi chấp nhận
triết lý
hành động của một Đệ Tứ, nhà văn, khi viết Phi Lạc, thiền sư, trong
Trầm Tư Của
Một Tên Tội Tử Hình, và sau cùng, một người dân Miền Nam, như tất cả
mọi người,
sau 1975.
Câu chuyện Con Thằn
Lằn mở ra tại một ngôi chùa hẻo lánh,
tại một miền đất xa xôi. Bữa đó, có hai người khách lãng du tình cờ ghé
qua.
Đúng vào ngày cuối cùng, trước khi quyết định lên giàn hỏa tự thiêu của
vị sư
trụ trì. Nhân câu chuyện lúc cùng khách, vị sư cho biết, ông đã tụng đủ
mấy
ngàn lần một bộ kinh, và theo như truyền thuyết, sau khi tụng xong lần
cuối
cùng vào tối nay, ông sẽ lên giàn hỏa, tự thiêu, và sẽ thành… Phật. Hai
ông
khách, khi về phòng riêng, nói chuyện với nhau, cho rằng nhà sư đã hiểu
lầm ý
nghĩa của bộ kinh, hơn nữa còn hiểu sai Phật Giáo, vốn cấm con người tự
huỷ
mình. Không ngờ khi họ nói chuyện, con thằn lằn trong chùa đã nghe
được. Đây là
một con thằn lằn đã tu nhiều đời, hiểu được tiếng người. Và nó cũng đã
tin
tưởng như nhà sư, và cũng tính theo ông lên giàn hoả, sau khi nghe ông
tụng
xong lần cuối bộ kinh. Thế là con thằn lằn cố tìm cách cứu mình, và cứu
vị sư.
Bằng cách uống dầu đèn, nó làm cho vị sư không làm sao tụng xong lần
thứ… chót
của bộ kinh, để lên giàn hoả tự thiêu. Vị sư sau cùng khám phá ra, và
tiện tay
cầm vồ tụng kinh, ông đập chết con thằn lằn, rồi tụng tiếp, và tự
thiêu. Hồn cả
hai lên gặp Phật. Phật quở vị sư, tu mà còn đủ sân si, lại còn thêm tội
sát
sinh, bắt trở lại làm người, tu tiếp. Còn con thằn lằn, Phật giải
thích, tuy đã
ngộ ra được một phần chân lý, nhưng phương tiện "nuốt dầu" như thế là
còn có tính "bạo động", ép buộc, và "ngẫu nhiên". Phật cho
phép con thằn lằn được tự chọn nghiệp, trước khi đầu thai, và phải
"độ" cho được, tất cả con số chúng sinh đầu thai thành người, từ tro
than của "nhục thân" một con thằn lằn, tức là kiếp trước của nó. Như
người viết còn nhớ, truyện lần đầu chấm dứt ở đây, nhưng sau đó (trên
tờ Văn ở
Sài Gòn, sau 1954, trước 1975), tác giả viết thêm, cho con thằn lằn đầu
thai,
làm một nhà văn hóa.
Liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, là một tiếp
nối Con Thằn
Lằn Chọn Nghiệp? Đây là câu chuyện một vị sư trẻ xuống núi hành hiệp,
mang theo
một cây gươm, và một cái kiếng chiếu yêu. Nhờ kiếng chiếu yêu, chàng
dũng sĩ
trong chiếc áo thầy tu đã dùng cây kiếm trừ khử được rất nhiều yêu quái
đội lốt
người… nhưng dần dần, anh ít sử dụng tới kính chiếu yêu, và do đó, cũng
ít phải
có dịp rút kiếm ra khỏi vỏ, như thể thiên hạ đã hết cả yêu quái… Rồi
tới một
ngày kia, nhớ thầy, nhớ chùa, anh trở lại. Cửa chùa ngày anh còn,
thường luôn
luôn mở rộng, sao nay khép lại, trước anh? Buồn rầu, anh ngồi bên con
suối xưa,
thấy bóng mình trên dòng nước: một con người mệt mỏi, chán chường… Anh
tự dưng
có ý định soi một lần bóng mình, trên kiếng chiếu yêu… và rụng rời
thấy, một
con quỉ trên mặt suối giận dữ nhe nanh…
Không hiểu Hồ Hữu
Tường đã từng đọc Nhất Hạnh, và tự hỏi như
trên: liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài là một tiếp nối Con Thằn
Lằn, và vị
dũng sĩ thiền sư đã thất bại, như chính ông đã từng thất bại… ?
Và Nhất Hạnh, đã có
lần nào đọc (lại) Cửa Tùng?
JT