Nguyễn Quốc Trụ
trước giờ thanh lọc,
trại Sikiew, Thái Lan,
khoảng năm 1990
[ngưòi cầm dù, là ký giả Hồ Ông]
TÁC GIẢ / TÁC PHẨM
Grass 1
|
Gunter
Grass
Ngày
mai là ngày hôm qua
Đó
là câu mở đầu một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đức,
"Gặp gỡ ở Westphalie". Sau cuộc Chiến Tranh Lớn 1939-45, những gì còn
lại đối với nước Đức của ông chỉ là những mảnh vụn, và một nền văn
chương đã
phát sinh từ đó: văn chương của những mảnh vụn, những điêu tàn.
Đề
tài của Grass: phản ứng của những nhà văn như ông trước
những mảnh vụn. Sau sự tận cùng, là ngôn từ: làm thế nào, sau Hitler,
những
ngòi bút Đức viết lại sự sống, "Vũ trụ luận"? Làm thế nào họ phá huỷ,
rồi tái tạo ngôn ngữ; làm thế nào họ sử dụng ngôn từ để tấn công, lột
trần,
chấp nhận, cưu mang, rồi tái tạo; làm thế nào con chim phượng hoàng thò
cái mỏ
của nó ra khỏi biển lửa?
Heinrich
Boll, nhà văn Đức cùng thời với ông, Nobel văn
chương, đã viết: Chúng ta chẳng có bất cứ một lý do gì để hổ thẹn về
một nhãn
hiệu như thế... Chúng ta nhìn sự vật như chúng là, với con mắt trần
tục, thường
không hoàn toàn khô, và cũng không hoàn toàn ướt, nhưng mà là ẩm, bởi
vì chúng
ta đừng quên, từ la-tinh diễn tả "ẩm", là humor (diễu cợt).
Nếu
Grass hay "chọc quê" những đồng bào của ông,
ngược lại, ông ít chú ý đến chuyện, ông là mục tiêu "tàn sát" của
giới phê bình. Gần như cuốn nào của ông cũng bị "làm thịt". Cuốn mới
nhất, "Tất cả câu chuyện" (Ein weites Feld), cũng chẳng tránh được
điều này. Đề tài của nó: chuyện thống nhất nước Đức. Đó là năm 1989,
bức tường
Bá Linh vừa sụp đổ. Hai nhân vật kỳ cục, Theo Wuttke, biệt danh Fonty,
nhân
viên cơ quan chuyên việc tư hữu hóa kinh tế Đông Đức, và còn là một
"tái
đầu
thai" của nhà văn Đức Theodor Fontaine (1819-1898), và cái bóng của ông
ta, Hoftaller, "đời đời" mật vụ Stasi. Cả hai, những khi ngừng tranh
luận, lại đưa mắt nhìn công cuộc tái thống nhất, trong lúc những người
chuyên
bán kỷ niệm rao to món hàng là những mảnh vụn của bức tường.
Bị
coi như một pamphlet chống lại
việc thống nhất, cuốn sách vừa ra lò đã bị chỉ trích nặng nề tại Đức,
vào năm
1995. Trong một số báo Spiegel, trên trang bìa là hình Marcel
Reich-Ranicki,
được mệnh danh là "giáo hoàng của giới phê bình". Hình chụp giáo
hoàng đang xé bỏ cuốn sách, và bằng một giọng "buồn phiền giả đò",
ngài phán: đây là một cuốn tiểu thuyết thất bại, chê trách Grass lại
một lần
nữa "quay lưng" với chuyện thống nhất đất nước. Chiến dịch của giới
báo chí và phê bình chẳng làm nản lòng ngượi đọc, ngay từ những tuần lễ
đầu,
hàng trăm ngàn ấn bản đã được bán ra. Nó đã nổi tiếng, tại Pháp, trước
khi được
dịch.
Nhân
dịp nhà xuất bản Seuil tung ra bản dịch tiếng Pháp,
"Toute une histoire", tờ báo Đọc, Lire đã phỏng vấn Grass. Về chuyện
báo chí, giới phê bình tấn công cuốn sách, ông cho biết, họ đã có định
kiến về
ông, trước khi có cuốn sách. Nhưng ông không nghĩ họ "sa đọa" đến mức
trương ra tấm hình "xé sách" như trên. Tuy nhiên, thành công, và
những lợi khích lệ ông là từ phía độc giả và giới phê bình phía đông
nước Đức.
Nhưng
tại sao lại có sự hung bạo đến như thế?
Lý
do là, "người ta" thường viết dưới quan điểm
của những người thắng trận, còn ông chỉ muốn đụng vào đề tài cấm kị
(tabou).
Trong cuốn "Cái Trống" của ông, cũng tình trạng như vậy: tác giả đã
đập nát hình ảnh về một thời đại huy hoàng, thay vào đó, là cái nhìn
của một
đứa trẻ ba tuổi. Trong "Tất cả câu chuyện" là một chủ nghĩa tư bản
buông xuôi, ba vạ, một chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa cộng sản, chủ
nghĩa xã hội
đã bị bắt buộc phải chứng tỏ là nó (tư bản) văn minh hơn họ. Một chủ
nghĩa tư
bản sau khi đã thắng trận rồi, cảm thấy rằng đâu có cần phải tỏ ra văn
minh, và
lúc này có thể quay về với chủ nghĩa tự do man rợ.
Chuyện
đó cũng chẳng mới mẻ gì. Mới mẻ là chuyện, mọi người
tỏ ra muốn làm một điều gì đó, để thay đổi tình trạng này. Và đó là lý
do ông
viết "Tất cả câu chuyện".
Về
câu hỏi quan trọng, tại sao cuốn sách bị chụp mũ
"chống thống nhất", ông trả lời: chuyện thống nhất đất nước đúng ra
là đã có thể xẩy ra vào năm...1975 - ấy chết, xin lỗi - vào năm
1989.
Chính vì
vậy nên đây là một câu hỏi "đau thương, nhức nhối". Thống nhất đã khả
hữu mà chẳng cần đến một phát súng. Tất cả đã "ngon lành", rồi đùng
một cái, mọi chuyện rối tung lên, hỏng bét. Đến lúc đó, tôi đưa ra lời
giải
thích, rằng chẳng có chi là bình thường, chuyện Tây Đức tự coi mình
như là
một sức mạnh thực dân, chiếm cứ cả đất nước, rồi hè nhau nắm trọn mọi
chức vị
quan trọng, mọi trách nhiệm. Người ta còn đổ lên đầu một "phía dân",
gánh nặng cuộc chiến mà đáng lẽ cả dân tộc phải cùng chịu đựng.
Liệu
có thể có một "thống nhất" khác?
Theo
ông, điều này phải dựa trên một cơ bản vững chắc, đó là
chế độ liên bang. "Cơ cấu xã hội chúng tôi không như Pháp: Paris
ở một phía, phía kia là tỉnh lỵ. Chúng tôi không có thủ đô: ngay cả Berlin
cũng không "sáng ngời" như Paris,
Luân đôn, hay Varsovie. Chúng tôi có quá nhiều thủ đô, quá nhiều trung
tâm; đó
là tình trạng chia cắt của nước Đức sau cuộc chiến 30 năm. Đây cũng là
sức mạnh
của chúng tôi. Nhưng khi chúng tôi muốn bắt chước những nước láng
giềng, cũng
muốn một chủ nghĩa trung tâm (centralisme), câu chuyện đã không xuông
xẻ.
Bismack, rồi Hitler là những toan tính, cuối cùng là thảm họa. Tôi tin
rằng
những quốc gia láng giềng, vốn đã đau khổ vì nước Đức, họ sẽ được yên
tâm hơn,
nếu 80 triệu dân Đức cứ tiếp tục con đường liên bang của họ. Nhưng
chẳng ai
chịu nghe tôi cả!"
Đức
quốc là như thế nào đối với ông? Một dân tộc, một quốc
gia, một văn hóa?
Vấn
đề này thật phức tạp. Dây liên lạc bền nhất, theo tôi,
là ngôn ngữ, tiếng Đức. Nhưng tiếng nói này không liên can tới một dân
tộc.
Người Áo cũng nói tiếng Đức. Tôi không sống như một nhà văn Đức, nhưng
như một
nhà văn của tiếng Đức. Nếu chỉ nói chuyện nhà văn, thế hệ của tôi không
làm chủ
những lựa chọn của mình: những đề tài của tôi đã có sẵn, đã được "chỉ
định": chế độ Nazi, những hậu quả của nó. Tôi phải viết những cuốn sách
như thế, dù muốn dù không: Cái Trống, Những Năm Chó (Les années de
chien).
Những đề tài này vẫn còn đó.
Phải
chấp nhận thực tế hiển nhiên là chúng tôi đã gây chiến,
phạm những tội ác và phải trả giá. Nói gì thì nói, đối với một nhà văn,
mất mát
luôn luôn là thu nhập, là cái có được (gain). Chính nó đem đến cho anh
ta ám
ảnh, sức mạnh viết, làm bật ra những gì mất mát, để tái tạo lại.
Tương
quan giữa tôi và nước Đức là như vậy. Nó là tổ quốc
làm tôi đau, đau nhiều lắm. Theo nghĩa đó, tôi hiểu câu nói của Adorno,
"Sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man". Đây không phải là
chuyện ngăn cấm làm thơ, mà chỉ là một cảnh cáo, một hăm dọa mang tính
tiên
tri, giống như câu đã được viết trên tường Babylon, một "Mane, thecel,
pharès" (1), để cho ai cũng phải nhìn thấy. Vẫn phải tiếp tục
viết,
nhưng
sau
Auschwitz, người ta không làm những bài thơ như trước nữa.
Tôi
còn nhớ, vào năm 1990, có một đường hướng văn nghệ chủ
trương hãy trở về với "không giờ" (heure zéro), hãy lên tiếng, đây là
cáo chung của văn chương dấn thân, hãy trở lại với thẩm mỹ học thuần
tuý. Khi
đó, tôi có đưa ra nhận xét, trong một buổi nói chuyện: kẻ nào muốn
thống nhất
nước Đức, kẻ đó phải ôm diết lấy Auschwitz.
Ông
là một người bi quan?
- Một
kẻ hồ nghi, chứ không phải bi quan. Đó là nguyên tắc của
Sisyphe. Hồi trẻ, tôi bị ảnh hưởng bởi Camus. Sisyphe chẳng còn chút
hy vọng,
anh ta biết hòn đá lại rớt xuống, nhưng anh ta không thể bi quan.
NQT
(1): Tiếng La tinh, có
nghĩa là
đếm, cân, chia. Đây là những chữ được ghi trên tường Babylone, tiên
đoán số
phận của Balthazar, vị vua cuối cùng của Babylone.
Nhà tiên tri Daniel đã giải
thích, [bản tiếng Pháp]: Tes jours sont comptés ; tu as été trouvé trop
léger
dans la balance ; ton royaume sera partagé.
Những
ngày của mi đã đếm được. Mi quá nhẹ trên bàn cân.
Vương quốc của mi sẽ bị chia sẻ.
Đúng
đêm đó, thành phố “được giải phóng” [bị chiếm đóng], nhà
vua Balthazar bị làm thịt, vuơng quốc Babylone bị cưa đôi, giữa dân
Perses và Mèdes.
Đây là Grass
cảnh cáo dân Đức,
đừng bao giờ quên số phận của
họ.
|