Chekhov: Cửa
Vào Vĩnh Cửu
"Một trong
những nhà văn 'phá hoại, lật đổ' sâu thẳm
nhất từng có mặt trên cõi đời này": rất ít người, ngay cả trong số
những
độc giả ái mộ Chekhov, đồng ý với nhận định trên của Simon Karlinsky,
người
tuyển chọn, và bình luận một số thư từ của nhà văn Nga thường vẫn được
coi là
"hiền lành" này. (Anton Chekhov's Life and Thought: Selected Letters
and Commentary, Michael Henry Heim và Simon Karlinsky dịch từ tiếng
Nga, 494
trang, nhà xb Northwestern University Press, 1997).
Khác với tiểu
thuyết của Dostoevsky: cơn lũ ma quái, của cái
gọi là tâm lý con người, kịch và truyện của Chekhov là về những con
người bình
thường, với cuộc sống nhàm chán, vô vị của họ. Trong khi Tolstoy rao
giảng chủ
nghĩa vô chính phủ chống lại Nhà Thờ Nga, và Nhà Nước, Anton Chekhov
lặng lẽ
làm một ông thầy thuốc nhà quê, một ông chủ trại nho nhỏ, cho tới khi
tình
trạng sức khoẻ bắt buộc ông phải lui về sống những mùa đông ở Yalta.
Một cuộc
sống tránh né mọi vấn nạn nóng hổi của thời đại, cuối cùng cho thấy, sự
thiếu
vắng ý thức "dấn thân" như thế đó, đã làm cho những gì ông viết ra,
đầy chất phá hoại (subversive). Thái độ diễu cợt khi đả động tới "cái
đúng", "phải đạo", bây giờ mới cho thấy tính "tiên
tri" của nó. Ông "coi thường" rất nhiều những "tín lý"
của xã hội hiện đại, về tiến bộ, tự do, đạo đức cá nhân và (không như
Tolstoy),
ông đã không tìm cách thay thế những gì mà ông huỷ diệt, bằng những
"huyền
thoại" riêng của mình.
Xã hội thời
đó trông mong ở những nhà văn của nó, như những
người dẫn đường về ý thức hệ, đạo đức, trong cuộc chiến chống lại vương
quyền.
Trong khi những nhà phê bình cấp tiến đề cao những nhà văn "hạng nhì"
như Zlatovrasky và Gled Uspensky, với những nhân vật đối nghịch: thầy
tu, nhà
buôn, sĩ quan (những nhân vật phản diện xấu xa)/những người dân quê,
những con
người trẻ tuổi lý tưởng (những nhân vật với trái tim trong trắng),
Chekhov viết
thư cho vị chủ báo bắt đầu in tác phẩm của mình: Tôi chẳng cấp tiến,
chẳng bảo
thủ, chẳng tu sĩ, chẳng dửng dưng. Tôi chỉ muốn là một nghệ sĩ tự do,
và chẳng
cần chi nữa... Thái độ đạo đức giả, sự ngu si đần độn, hành động hiếp
đáp, cả
vú lấp miệng em, bạo chúa... ngự trị không chỉ ở trong những gia đình
con buôn,
những trạm cảnh sát. Tôi thấy chúng ở trong khoa học, văn chương, thế
hệ trẻ.
Đó là lý do tại sao tôi chẳng trông mong gì ở đó... Điều thánh thiện
nhất trong
mọi điều thánh thiện, riêng với tôi, đó là thân thể người ta, sức khoẻ,
sự
thông minh, tài năng, hứng khởi, tình yêu và... tự do - thoát ra khỏi
bạo lực
và những điều dối trá - không cần biết hai thứ sau mang hình dáng nào."
Sự ghê tởm
bạo lực và giọng ấm ớ đạo đức, Chekhov có rất
sớm, ngày càng lộ rõ. Ông có lần nhận xét (nhân nói về thái độ lý tưởng
của
Tolstoy đối với dân quê Nga): "Tôi nhà quê ở trong máu, và tôi chẳng hề
bị
xúc động bởi những đức hạnh của họ."
Ông sinh năm
1860, được một tuổi là bãi bỏ chế độ nông nô.
Ông nội, ông ngoại là nông nô. Ông già trút được lốt nhà quê khi chen
chân làm
chủ một cửa tiệm tại thành phố Taganrog
ở phía Nam
nước
Nga. Là con trai thứ ba trong sáu người, ông nhớ hoài nguồn gốc nông
dân, chế
độ gia trưởng tàn bạo của ông bố mà ông và hai người em trai là nạn
nhân, chưa
kể những giờ dài đằng đẵng quì trên đá lạnh, hát thánh ca tại nhà thờ,
dưới con
mắt khắc nghiệt của ông thầy dậy nhạc. Mười sáu tuổi, bị bỏ lại ở Taganrog,
tự lo thân, khi ông bố khánh tận phải đem gia đình về Moscow
tìm việc làm. Trong ba năm vừa học vừa lo kèm trẻ, ông làm được điều
Tolstoy
suốt đời mơ ước nhưng không sao thực hiện được: tái tạo ra chính mình,
một con
người như một toàn thể đạo đức, thoát ra khỏi những biến dạng, bởi chế
độ bạo
chúa vốn đè nặng đời đời kiếp kiếp lên người dân Nga.
Ông trở thành
đầu đàn trong gia đình, sự sống còn chỉ còn
trông vào số tiền ông gửi về. Cùng thời gian, ông lo tự trau giồi bằng
những
giờ tại thư viện thành phố. Thành quả của những năm tháng cô đơn đó,
chúng ta
có thể nhìn ra, trong thư viết cho người em, Nicolai: "để vượt lên khỏi
những ngọn roi khốc liệt thuở ấu thời, (em) phải làm sao tạo được sự
kính trọng
của những con người có nhân cách; phải tự kiềm chế trước hành động nông
nổi,
liều lĩnh, và lừa dối; không được ngừng đọc, nghiền ngẫm sâu xa, trau
giồi ý
nguyện của mình. Mỗi giờ là một hiếm hoi, quí báu." Vào năm ba mươi
tuổi,
ông đã chứng tỏ điều này, khi một nhà xuất bản coi ông là một nhà văn
"vô
nguyên tắc": "Tôi chưa từng nịnh bợ, nói dối, sỉ nhục bất cứ một
ai", "chưa từng viết ra một dòng mà tôi cảm thấy nhục nhã vì
nó."
Đời văn của
Chekhov bắt đầu, là để giúp đỡ gia đình, khi ông
được học bổng, và rời thành phố quê hương tới Moscow
làm sinh viên Đại học Y khoa. Trước tiên là những bài viết nho nhỏ, gửi
cho
những tuần báo. Thành công đến nỗi, sau khi tốt nghiệp y khoa, ông
"đành" phải chia thời giờ ra làm hai, "giữa y học... người vợ
hợp pháp, và văn chương... người tình (bà vợ bé), của tôi."
Truyện ngắn
của ông có một sắc thái riêng, đề tài đa dạng,
trải dài toàn cảnh nước Nga với những con người của nó. Chưa tới ba
mươi, ông
đã là một nhà văn lớn. Năm 1887, vở Ivanov cho ông danh hiệu: người
viết bi
kịch. Nhờ nó, ông mua được căn nhà cho gia đình, thuộc vùng ngoại vi Moscow.
Trở thành nhân vật trung tâm của giới văn nghệ thủ đô, và của phái đẹp;
một số
người tình (trước khi có vợ, vào năm bốn mươi) sau này trở thành bạn
thân. Bạn
trai cũng "mê" ông: Họa sĩ Konstantin Korovin mô tả bạn mình
"cực kỳ đẹp trai", với đôi mắt dịu dàng, và một nụ cuời "e thẹn
lạ chi đâu", "toàn vẻ bề ngoài gây một sự tin cậy đặc biệt".
Niềm tin cậy đặc biệt này, là do tình nhân loại "chân trần", luôn
luôn bám vào đất của ông. Chính nó đem đến cho ông "một cái mũi rất
nhọn" chuyên trị mùi ghê tởm, của "thói đời".
"Tôi có niềm
tin vào sự tiến bộ, ngay khi còn là một
đứa bé, nhưng chuyện đó chẳng giúp tôi, khi không tin vào nó, bởi vì sự
khác
biệt giữa thời kỳ thấm đòn, và hết còn bị đòn, thật là lớn lao." Ông
ngưỡng mộ thái độ lý tưởng của những người Nga cấp tiến, nhưng những
lời hô hào
của họ chỉ làm ông nhớ lại ấu thời: "Tôi quá ớn sự lạm dụng, bất kể nó
nhắm vào ai." Ông buộc tội tầng lớp trí thức, do không tưởng nên bỏ qua
những thành quả của zemstva - Những Thay Đổi Lớn, The Great Reforms,
hay là
những định chế mà chính quyền đưa ra vào thập niên 1860 - nhằm canh tân
xã hội
Nga. Về những tiến bộ trong ngành giải phẫu tại Nga trên hai thập niên
trước
đó, ông có lần đưa ra nhận xét, "nếu phải chọn lựa giữa không tưởng cấp
tiến, được miêu tả như trong tiểu thuyết của Nicolai Chernyshevsky,
What Is to
Be Done?, nổi tiếng vào thập niên 1980, và bệnh viện tồi tệ nhất
'zemstvó, tôi
chẳng do dự lấy một chút, khi ôm lấy bệnh viện."
Những nghiên
cứu, ghi nhận riêng của ông, về "việc
thiện", humanitarian work, thật đáng nể. Cuốn sách của ông về đảo tù Sakhalin
(The Island of Sakhalin, 1893, dựa trên số liệu từ những cuộc thanh tra
tình
trạng y tế ở đó) đã bầy ra cho cả nước Nga thấy sự khủng khiếp, ghê rợn
của hệ
thống nhà tù. Những cố gắng của ông trong việc cứu đói tại vùng ông vào
năm
1891-1892, được kèm theo bằng những chuyến đi mệt nhoài, thường lội bộ
suốt
vùng băng giá, như một ông thầy thuốc không được trả lương có nhiệm vụ
ngăn
chặn một trận dịch, bên cạnh một trận đói. Ông đã chữa trị hàng ngàn
dân quê
tại y viện địa phương, hoạch định, tham gia việc xây cất trường lớp,
thư viện,
đóng góp tiền bạc cho những công trình phúc lợi, trong đó có việc cứu
trợ một
tờ báo y học bị khánh tận; mua ngựa phân phát cho dân chúng, làm phương
tiện
chuyên chở lúa gạo. Chính thái độ lăn sả vào cuộc sống hàng ngày đã
khiến ông
trở nên khinh khi, những phương thuốc về một "ngày mai ca hát", hay
rõ hơn, một cuộc cứu đói toàn cầu: nhân một chuyến thăm Venice, ông đưa
ra nhận
xét, một trong những niềm vui của "Đến thăm Venice rồi hãy chết":
thành phố thiếu vắng hẳn, những bộ mặt làm ra vẻ quan trọng, của mấy
ông
Mác-xít. Khi đến thăm Hong Kong, ông nhận xét, so với người Nga, người
Anh vậy
mà đã nhiệt tình quan tâm tới những "người làm" (employees) của họ.
Ông viết, tôi chẳng hề tin, vào tầng lớp trí thức "en masse"; ông đặt
để niềm hy vọng của mình, ở nơi những cá nhân, bất kể trí thức hay nông
dân,
rải rác khắp nước Nga, chỉ có họ là đáng kể: chỉ với những hiểu biết,
những cố
gắng của họ mà xã hội từ từ biến đổi.
Đề tài trấn
ngự, cơ bản của nghệ thuật
"Chekhovian", là từ cuộc chiến đấu đầu đời, cộng với những thực hành,
do nghề thầy thuốc mang lại: cuộc chiến đấu của những ước vọng con
người, chống
lại những hoàn cảnh "bất thuận lợi". Những năm tháng ở Taganrog đã
dậy ông một điều: những cuộc chiến đấu quan trọng nhất, mang tính đạo
đức,
"được hay thua" không phải vào thời điểm căng thẳng, bi đát, mà thông
qua một quá trình những chọn lựa chẳng có gì đáng kể, rất cá nhân.
Chúng ta có
thể nhận ra dáng dấp của "người hùng Chekhovian", qua lời khuyên của
ông, gửi tới nhà xuất bản, và cũng là bạn, Aleksei Suvorin, khi ông này
viết
một bi hài kịch truyền thống: Bạn không thể kết thúc với những người
theo chủ
nghĩa hư vô. Với họ, chỉ có bão tố, hung bạo. Điều vở kịch của bạn cần,
là một
kết cục êm ả, trữ tình, cảm động... Nếu nữ nhân vật của bạn, sau cùng
nhận ra,
những con người quanh cô, đều làm xàm, vô dụng, xấu xa... điều này
chẳng lẽ
không "khủng khiếp", hơn cả chủ nghĩa hư vô, hay sao? Điều kỳ lạ, ở
cái bình thường; thảm kịch, của điều "chẳng có gì bi thảm", đó là đề
tài kịch Chekhov, cùng với nó là cuộc cách mạng kịch nghệ Nga, vào thập
niên
cuối đời ông. Vở kịch lớn đầu tay, Ivanov, vẫn còn giữ những yếu tố bi
kịch
truyền thống, đã được đón nhận khá nồng nhiệt; vở kế, The Seagull
(trong đó,
ông đưa ra kỹ thuật của mình, bỏ đi những "mưu đồ" kịch mang tính ước
lệ), đã là một thất bại thê thảm, ngay đêm đầu được trình diễn, vào
tháng Mười,
1896; nhưng lần trình diễn thứ nhì, tại Moscow vào năm 1898, đã được
nồng nhiệt
đón nhận, cũng như những vở kế tiếp: Uncle Vanya, Three Sisters, và vào
tháng
Giêng 1904, The Cherry Orchard. Sự kiện "chẳng có gì xẩy ra", ở trong
kịch Chekhov, đã trở thành "dấu ấn" của ông, nhưng giới phê bình lại
coi đây là khả năng tạo nên không khí, trạng thái kịch, chúng thường
được cắt
nghĩa như những gợi nhớ u buồn về một nước Nga tranh tối tranh sáng,
khi những
bậc trưởng thượng, đại diện cho giai cấp đang hấp hối, "nhìn ngắm những
cuộc
đời thừa thãi của họ."
Richard
Gilman, trong "Kịch Chekhov: Cửa vào Vĩnh
cửu" (Yale University Press, 261 trang, 1997), đả phá những nhận định
"bản kẽm" như thế. Ảnh hưởng Francis Ferguson, khi coi The Cherry
Orchard là "thơ-kịch của nỗi khổ đau, do tang thương dâu bể", Gilamn
tiếp cận kịch Chekhov: "một điều giả dụ như là không-bi đát";
"miêu tả, không phải một hành động, nhưng một điều kiện"; nỗi thống
khổ ở đây là do cảm nghĩ của chúng ta - những con người sinh tử lão
bịnh - về
thế gian; chúng ta: mồi ngon của thời gian, và của đổi dời. Khả năng
của
Chekhov - khi "bi đát hóa" nỗi "không-bi đát", thảm kịch
của điều vô ích, của chuyện thường ngày - thật mãnh liệt, ở Three
Sisters,
trong đó, bước đi thời gian sói mòn dần mọi hy vọng về tương lai vẹn
toàn, qua
chuyến về thành phố, nơi đồng nhất với quá khứ lý tưởng của họ. "Nó đâu
mất rồi? Đâu? Đâu? Chúng ta sẽ chẳng bao giờ trở về được Moscow,
chẳng bao giờ... giờ này, tôi thấy rõ điều đó."
Như Gilman
chỉ ra, rất nhiều nhân vật của Chekhov mong ước
trở nên một người nào khác, ở một nơi chốn nào khác, "kịch" bắt họ
trở về nơi chốn, con người, là họ hiện giờ. Nhưng ở đây không có vấn đề
"số mệnh, căn phần". Diễn tiến đơn tuyến, ước lệ đưa đến nút mở chót,
được thay thế bằng điều mà Gilman gọi là "trường bi kịch" (dramatic
field): chuỗi phản ứng đưa đến cảm nhận về sự mất mát. Chúng ta chỉ
nhìn thấy
những nhân vật, một khi, bị giam cứng vào vùng ao tù đóng váng, họ
chẳng còn
chi để mà vui đùa, giải trí, ngoại trừ những câu nói dấm dẳn, những mẩu
chuyện
nhát gừng, đong đưa giữa hoài nhớ, và nhận thức, được đánh dấu bằng
những trống
vắng, bằng đột biến, từ khôi hài qua nghiêm trọng. Như Karlinsky chỉ
ra, một
trong những tư tưởng "chìa khóa" của Chekhov, là trong bản tự thuật
tóm tắt (resumé), theo đó, tác giả khẳng định, nghề y của ông đã có một
ảnh
hưởng quan trọng đến sáng tác văn học. Ông nhấn mạnh, nhà văn phải
trung thành
với thực tại thực nghiệm, về thế giới, hành vi cư xử của con người; và
đưa ra
những nhân vật, với những cái nhìn "khách quan tuyệt hảo". Khi một
truyện ngắn của ông bị coi là không có một thái độ rõ ràng về chủ nghĩa
bi
quan, ông trả lời: công việc của nhà văn không phải là giải quyết những
vấn đề
như là Thượng Đế, bi quan... nhưng ghi nhận, ai, trong điều kiện nào,
đã nói,
hay đã nghĩ thế này thế nọ, về Thượng Đế, về bi quan.
Trên tờ TLS,
July 18, 97, John Stokes, khi điểm cuốn Anton
Chekhov: A Life (Donald Rayfield, nhà xb HaperCollins, 674 trang,
1997), đã cho
rằng chủ nghĩa nhân bản Chekhovian, vốn nhập thân vào những nhân vật
thầy
thuốc, mãnh liệt, vì nó kính trọng "tiếng hát nhân ngư" từ cõi tư
riêng (the siren-songs of privacy), từ nỗi bầm rập, té lên té xuống,
của con
người. Những đức hạnh của con người, "chân thật nhất, hướng thượng
nhất,
nhưng cũng khó khăn nhất", có cội rễ ở từ "Sod", tên con
mongoose, hay mangu, của Chekhov. Ông nói, những đặc tính của con vật,
là
"can đảm, tò mò, và rất mến con người". Con vật Sod tội nghiệp có cơ
hội là bỏ chạy, cuối cùng chấm dứt cuộc đời, tại Sở Thú Moscow. Chủ của
nó cũng
chia sẻ với con vật thân yêu của ông, "đặc tính" chạy trốn đó, nhất
là khi có đàn bà dính vô! Rayfield cho biết Chekhov sợ sex như sợ bệnh
nghiền;
nếu ông đầu hàng, nó sẽ tiêu huỷ tự do và tài năng sáng tạo của ông.
Thù Zola,
khi miêu tả những cuộc tình "nhà nghề, thô bỉ", ông đã viết về một
gái điếm Nhật, "nghề riêng ăn đứt", đến nỗi "bạn cảm thấy không
phải đang tình tự, mà là tham dự một lớp cao học, về nghệ thuật cưỡi
ngựa." Tuy đẹp trai, nhưng qua cuốn tiểu sử của Rayfield, chúng ta thấy
đây là một con người với những cuộc tình "bỏ đi". Thê thảm nhất là
cuộc tình với "Lika" Mizinova, một người đẹp nghệ sĩ. Trong nhiều năm
họ chia sẻ hoan lạc, hiến dâng, và sự lạnh lùng, dửng dưng.
"Tin tưởng
vào Chúa, một chuyện quá dễ dàng. Đám
"mật vụ" nhà thờ người Tây Ban Nha (inquisitors), tin vào Chúa.
Không, bạn phải tin vào con người! Niềm tin này, chỉ có thể khả hữu, ở
một số
rất ít những con người hiểu và cảm thấy Christ.", một truyện ngắn Giáng
Sinh của Chekhov đã kết thúc như vậy, nhưng đã bị kiểm duyệt đục bỏ.
NQT