*








Giới Thiệu

Những cuốn sách được đưa lên bảng phong thần cuối cùng, trước khi quăng vào lửa.

Dernier inventaire avant liquidation

nhà xuất bản Grasset 2001 

Năm muơi cuốn sách của thế kỷ, do bạn chọn, nhưng Frédéric Beigbeder: làm công việc của Thánh Thán. 

Đứng đầu bảng là cuốn Kẻ Xa lạ của Albert Camus.

Le n° 1 de ce classement des 50 livres du siècle, choisis par le vote de 6 000 Francais, n'est pas moi mais je m'en fous, même pas vexé, je serai dans le «Premier Inventaire » du XXI siècle, non ? Non plus ? 

II faut souligner que notre grand vainqueur rassurera les paresseux : un roman très court (123 pages en gros caractères). Pas besoin de se fatiguer : on peut donc écrire un chef-d'oeuvre sans noircir des milliers de pages comme Proust. Chef-d'oeuvre que nous pouvons lire en une demi-heure... 

Cái ngôi vị số dzách, năm bơ oăn, của Bảng Phong Thần Cuối Cùng này, gồm 50 cuốn,  thuộc về Kẻ Xa Lạ của ông Tây thuộc địa Albert Camus, và là do 6000 độc giả Tây chọn. Tuy không được cái hân hạnh đó, nhưng tôi đếch cần. Cũng chắng vếc xê vếc xiếc gì hết trơn hết trọi. Biết đâu nhờ vậy, tôi sẽ có tên trong Bảng Phong Thần Đầu Tiên của thế kỷ 21. Tại sao không? 

Phải nhấn mạnh một điều là kẻ chiến thắng vĩ đại này rất được lòng phái... nữ - ấy chết xin lỗi - mấy tướng đại lãn, hay nói theo người miền bắc, lười chảy thây ra: đây là một cuốn tiểu thuyết rất ngắn, 123 trang, chữ bự tổ trảng... Đâu cần phải bôi đen hàng ngàn trang giấy mới đẻ ra được một đại tác phẩm, như Proust... 

[Kẻ Xa Lạ đã đuợc Jennifer Tran giới hiệu trên VHNT, qua bài viết Bữa nay mẹ tôi mất]

 Số 2: Đi tìm thời đã mất của Proust.

 Số 3: Vụ Án

 Cuốn Vụ Án của Kafka số 3, trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng trước khi dâng hiến tất cả cho lò thiêu. Đây là kết quả cuộc bỏ phiếu của sáu ngàn độc giả Pháp, lựa chọn 50 cuốn sách của thế kỷ vừa qua, và được bình bởi Frédéric Beigbeder.

 Tại sao số 3?

 Có lẽ vì tam sinh vạn vật.

 Frédéric Beigbeder thì cho rằng, có lẽ tại tĩnh từ “kafkaien” mà ra. Nó nói lên, phận người, tức nỗi sợ… sắp hàng tại  một cơ quan nhà nước, thí dụ như phòng xuất cảnh chẳng hạn, và khi tới lượt thì chẳng có tên mình:

 -Sao, ông nói sao? Tôi không phải số... 3 hả? Xin ông coi lại hồ sơ giùm. Tôi số 3 mà, chắc chắn có sự nhầm lẫn ở đây, tôi chắc chắn có tên trong danh sách chuyến bay… HO này mà!...

 Đó là nỗi sợ con quái vật bàn giấy (angoisse bureaucratique), là cái phận người tủi hổ “như một con chó”, “sự tủi hổ sống dai hơn tôi”, của Joseph K, nhân vật chính trong Vụ Án.

  Joseph K. là một nhân viên nhà băng, ít nói, độc thân, cả đời chưa từng đòi hỏi ai bất cứ một điều gì, một bữa bị những nhân viên nhà nước ăn mặc đồng phục bắt. Họ nói, anh sẽ bị đưa ra tòa xử, Nhưng anh có làm chuyện gì đâu! Đâu cần làm, và thế là cả thành phố đều biết. Người ta thả lỏng anh, nhưng lúc nào cũng có người trông chừng…

 Liệu có thể coi, Vụ Án là một thứ tiểu thuyết luận đề, chính trị tố cáo chủ nghĩa toàn trị? Có thể, nhưng hơn thế, đây là một thứ “chống lại phận người”, theo nghĩa: vào đời nghĩa là vào với tra tấn và tử vong. Vụ Án chẳng tha một ai trong số chúng ta.

 Trong một tác phẩm mới đây, Pierre Dumayet viết, một cách ngồ ngộ, rằng “Với Kafka, sự nhục nhã, tủi hồ chính là ‘phong cảnh quê ta’ [“chez Kafka, l’humiliation est un paysage”]. Nhưng, ‘may mắn thay’ với Kafka, còn là những câu chuyện hài, và chính cái hài này, “nó” cứu rỗi. [Ở Việt Nam, bạn có thể tìm thấy cái chất hài này, qua những câu chuyện có tí hiện thực ma tuý - huyền ảo thì cũng rứa - thí dụ như của Hồ Anh Thái, hoặc loại chuyện thiếu nhi dành cho người lớn, như truyện dài “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ” của Nguyễn Ngọc Thuần, hiện đang đăng từng kỳ trên Talawas, hoặc thứ phê bình văn học kiểu cà chớn của Trần Đăng Khoa chẳng hạn]: nên nhớ, Kafka đã từng đọc bản thảo cho bạn bè nghe, và vừa đọc, vừa cười ngặt ngẽo [en hurlant de rire, chữ của Frédéric Beigbeder). Từ đó, chúng ta hiểu được, không phải Thượng Đế, mà là con người, bị kết án phải cười. Với Kafka, tất cả những câu chuyện buồn tủi nhục nhã khốn khổ của ông (Vụ Án và luôn cả Toà Lâu Đài, và Hoá Thân) đều là những câu chuyện tiếu lâm to tổ bố, grosses farces, vẫn chữ của Frédéric Beigbeder. Theo ông này, Kafka đi trước đám Tiểu Thuyết Mới ở Tây cả nửa thế kỷ, 12 chương của Vụ Án được viết bằng một thứ văn gẫy đoạn, người ta có thể nói, của  Nathalie Sarraute.

 Vụ Án còn là một thứ chuyện “Liêu Trai” có tính tiên tri (un fantasme prophétique), như rất nhiều cuốn sách khác ở trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng. Cuốn tiểu thuyết được in và xuất bản vào năm 1925, nhưng Kafka đã viết nó mười năm trước, tức là năm 1914, trước khi có cuộc cách mạng Nga, Cuộc Đệ Nhất Thế Chiến, chủ nghĩa Quốc Xã Nazi, chủ nghĩa Stalin: thế giới được miêu tả ở trong cuốn sách, chưa hiện hữu, chưa “đi vào hiện thực”. Vậy mà ông nhìn thấy! Liệu có thể coi ông là Ông Thầy Bói Nostradamus của thế kỷ 20? Không phải vậy: cái thế kỷ có tên là Goulag đó chỉ là một đứa trẻ ngoan ngoãn tuân theo lời phán bảo của ông thầy của nó, mà thôi.

 Ở đây, là một giả thuyết, nghe đến rởn tóc gáy lên được, và cũng hoàn toàn có tính Kafkaien: Liệu tất cả những trò kinh tởm của thế kỷ: chiến tranh lạnh, những chuyện đấu tố, luôn cả bố mẹ, hiện tượng con người có đuôi, lò thiêu, trại tập trung cải tạo, Solhzenitsyn, Orwell…. tất cả là đều nảy sinh từ cái đầu của một anh chàng làm cho một công ty bảo hiểm ở Prague? Liệu hàng triệu triệu con người chết đó, là để chứng minh cho sự có lý, của một cái đầu chứa đầy những ác mộng?

 Bông Hồng số 4.

 Yêu không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng.

 Saint-Exupéry.

  Le sens trop précis rapture la vague litérature.

 [Cái nghĩa quá rạch ròi làm hại cõi văn mơ mòng] (1)

  Nước Pháp phát minh ra tôi. Tôi đâu có hiện hữu. Caillois làm cho tôi được nhìn thấy. Than ôi, thiên hạ nhìn thấy ông ta rõ quá!

 [Borges viết về Roger Caillois, người giới thiệu ông với độc giả Pháp và sau đó, thế giới].

  Trong bảng phong thần cho những cuốn sách cuối cùng, trước khi cúng bà hoả [Dernier inventaire avant liquidation], tác giả Frédéric Beigbeder chỉ chọn được 50 cuốn. Đứng đầu bảng là cuốn Kẻ Xa Lạ của Camus. Ông Hoàng Nhỏ của Saint-Exupéry, số 4.

  “Làm ơn vẽ cho tôi một đại tác phẩm. Làm ơn chỉ cho tôi số 4 trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng” là cuốn nào?

  ‘Ông Hoàng Nhỏ của Saint-Exupéry [1900-1944] là câu chuyện thần tiên độc nhất của thế kỷ 20. Thế kỷ 17 người ta có chuyện cổ tích của Perrault; thế kỷ 19, của Andersen. Tới thế kỷ 20, người ta có Ông Hoàng Nhỏ, một cuốn sách được viết bởi một ông phi công người Pháp lưu vong tại Huê Kỳ từ năm 1941 tới 1943. Cuốn sách được in ấn tại đó, trước khi được xuất bản tại Pháp vào năm 1945, một năm sau khi tác giả mất. [Do kỹ thuật in ấn của ông Tây quá tệ, bản tiếng Tây do đó đã phải giữ y chang những bản vẽ trong bản in lần đầu bằng tiếng Mẽo]. Từ khi xuất hiện cuốn sách có hình này đã trở thành một hiện tượng trong ngành in ấn, mỗi năm phát hành chừng vài triệu cuốn trên toàn thế giới.”

 "Tại sao? Bởi vì, không cố tình [làm ra vẻ ngây thơ] Saint-Exupéry đã sáng tạo ra những nhân vật ngay lập tức trở thành huyền tượng [figures mythiques].”

  Người ta có thể cho cuốn sách một cái tên khác, là, ‘Đi tìm một đứa trẻ thất lạc’, Frédéric Beigbeder đề nghị. Bởi vì theo ông, “tác giả cuốn sách luôn nhắc tới ‘những người lớn’ nghiêm túc, biết suy nghĩ điều hơn lẽ thiệt, và bởi vì cuốn sách không thực sự nhắm tới những đứa trẻ mà là tới những người tin rằng họ không còn trẻ nữa. Đây là một ‘pamphlet’ [bài văn đả kích] chống lại tuổi lớn và những con người hữu lý [rationnel], được viết bằng một thứ thơ ca dịu dàng, một minh triết giản dị [une sagesse simple] (Harry Potter, hãy về nhà với mẹ của mi đi!), và với một sự ngây ngô giả vờ, giấu ở bên dưới sự ngốc nga ngốc nghếch đó, là một cái hóm hỉnh và một nỗi buồn thê lương.”

  Đi tìm một đứa trẻ đã mất. Khi đặt tên lại cho cuốn sách như trên, theo tôi [NQT], tác giả Bảng Phong Thần Cuối Cùng, bởi vì là người Pháp, nên đã “vơ vào”, nghĩa là muốn nhắc tới Proust, một ông Tây khác, tác giả Đi Tìm Thời Gian Đã Mất.

 Nhưng còn một lý do nữa, là chính cái chết của Saint-Exupéry đã khiến bật ra cái tên thứ nhì này. Tác giả Phong Thần Bảng cho thấy, như rất nhiều nhà văn khác, thí dụ như Lewis Carroll, Saint-Exupéry thuộc thứ tác giả không chịu già: vài tháng sau khi Ông Hoàng Nhỏ được xuất bản, tác giả của nó, lúc đó 44 tuổi, bèn lên máy bay, làm một phi vụ thám sát [mission de reconnaissance] bên trên vùng trời Địa Trung Hải, và biến mất như nhân vật của mình…

 Saint-Exupéry là một tác giả quá quen thuộc với những tác giả, luôn cả độc giả, và luôn cả học trò người Việt: ở Sài Gòn, trước 1975 có một trường học mang tên ông. [Tôi không hiểu bây giờ còn không.] Ở ngoài bắc không biết sao, chứ ở miền nam, không chỉ nhà văn, mà gần như tất cả lớp tuổi choai choai đều thuộc nằm lòng câu của Xanh Tếch: Yêu không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng. Cả hai cuốn Ông Hoàng Nhỏ và Cõi Người Ta của ông đều được Bùi Giáng dịch. Chúng ta có thể đoán mò, rằng những người như Xanh Tếch, Bùi Giáng đều có một  điểm chung, là, trong con người của họ, có một phần nào đó nhất định không chịu ... lớn, và như thế, rất thích làm bạn với Ông Hoàng Nhỏ.

 Trong lần về Việt Nam, nói chuyện bên “chén riệu” [ly rượu] với mấy anh em cũng dân viết lách, tại nhà một ông cũng “có một nỗi buồn thê lương”, nhân câu chuyện PXN còn nóng hổi, TTĐ gật gù, “Nhầm Ông Hoàng Nhỏ với Cõi Người Ta là một sơ suất nặng!”

 Chúng ta tự hỏi tại sao lại có sự lầm như thế.

 Không lẽ cứ buông một câu, tại dốt, tại không đọc!

 Với một tác giả xa lạ, có thể, nhưng với “Xanh-Tếch”, như cách gọi thân mật của người Việt dành cho ông, ở một xứ sở tuy “người Pháp đã ra đi, nhưng nước Pháp ở lại" [Malraux], chuyện không đơn giản.

 Vậy thì, tại sao?

 
 ******

 Mất tích giữa những vì sao

 Antoine de Saint-Exupéry thuộc thế hệ hào hùng của ngành hàng không, và trong cuốn tiểu thuyết Bay Đêm, ông đã tạo ra huyền thoại về nó. Làm vậy, ông trở thành một huyền thoại, và có thể đây chính là điều ông hằng mong muốn, rằng cuộc đời của mình sẽ được như thế. Cuốn tiểu sử của ông, do Marcel Migeo viết, muốn tách người thực việc thực ra khỏi điều kỳ dị, và tác giả đúng là người làm việc này. Ông bạn của Saint-Ex, khi cùng học bay tại Neudorf, gần Strasbourg, hai năm sau khi Thế Chiến I chấm dứt. Thời kỳ “giác đấu” đã qua, và đây là thời đại dân sự, với những chuyến bay, tuy không còn mang tính giác đấu, nhưng cũng chẳng kém nguy hiểm: những chuyến thư bay, như tên gọi của một cuốn sách của Xanh-Tếch chỉ rõ: Chuyến Thư Miền Nam. Thời kỳ này còn bay bằng la bàn, bản đồ, và bằng… mắt, chưa có la-dô, vận tốc tối đa là 100 dặm/giờ, và mỗi chuyến bay không quá ba giờ. Máy bay khởi động cứ như hai xe hơi đụng nhau. Mức độ thiệt hại, kể luôn mạng người, là “căng” lắm! Xanh Tếch, trượt École Navale, bèn nhẩy vô The Line, tiền thân của Air France, khi đó đang thực hiện những chuyến thư bay từ Toulouse tới Dakar, và tính mở rộng tới Nam Mỹ. Ông đụng một hiểm nguy khác nữa: phi cơ thường bị trục trặc phải hạ cánh nơi sa mạc, và phi công trở thành mồi cho những bộ lạc người Moor, bị tra tấn hành hạ, và sau đó, hoặc bị giết, hoặc trở thành con tin đòi tiền chuộc mạng. Chuyện xẩy ra thường xuyên đến nỗi phi công, thay vì kéo theo một ông thợ máy, bèn xin một thầy thông ngôn rành tiếng “mọi”! Sau một năm bay, Xanh Tếch bèn làm một ông trưởng đồn, ở giữa sa mạc, vừa lo việc đổ xăng cho phi cơ, vừa giúp phi công cái việc thông ngôn, chính vì vậy mà người Pháp thường so sánh ông với người hùng sa mạc Lawrence d’Arabia [T.E. Lawreence].

 Saint-Exupéry là “thứ” người gì? Huyền thoại thứ nhất về ông, ở trong cuốn tiểu sử nói trên, theo đó, ông là một trong những phi công lớn lao, và là một người mà bay là một thiên hướng. Huyền thoại này thì cũng dễ “giải hoặc”, và là do thiên hạ quá mê những cuốn như Bay Đêm hay Chuyến Thư Miền Nam mà ra. Theo ông bạn của ông, tức tác giả cuốn tiểu sử, Xanh Tếch là một phi công nhà nghề, tài năng, nhưng cũng rất ư đãng trí, không khoái chú tâm vào bất cứ chuyện gì. Ông còn là một người không có chút ý niệm nào về thời gian. Cẩu thả nữa. Có lần, ông rời phi cơ, không đóng cửa phòng lái, và để gió quất sụm chiếc máy bay. Những chuyến bay dài của ông, từ Paris đi Sài Gòn, hay từ Nữu Ước đi Patagonia, do đó, thường không được sửa soạn chu đáo, và trở thành thảm họa. Ngồi trong phòng lái mà trí ông bỏ đi lang thang, Trước hết, và có thể trên hết, ông là nhà văn, và ông coi cái nghề bay, như là một cách vượt ra cõi đời thường làm ông chán ngán, bực bội. Bay là một giải phóng tinh thần đối với ông.

 Dáng người cao và thon, [bạn học gọi ông bằng biệt hiệu “Kều Mặt Trăng”]. Dòng dõi quí phái, nhưng nghèo, bố mất sớm, nhưng không có gì liên quan tới huyền thoại tuổi thơ khó khăn vất vả. Họ hàng bà con giầu có không bỏ ông, ngoài ra còn bà mẹ mà trong nhiều năm, mà trong nhiều năm, ông tha hồ nã tiền, sống như một “ông hoàng nhỏ” [một số bạn coi ông là một tay “snob”, những ngày đầu học bay]. Nhờ ảnh hưởng của Henri Guillaumet, một phi công mà ông coi như là thần tượng, và nhờ “The Line”,  tính tình của ông thay đổi. Hết lòng với bạn bè, với tinh thần của nhóm, ông bắt đầu để tâm đến chuyện này chuyện nọ, và nhận ra ý thức về trách nhiệm, một sự bám trụ - a gravity – như thế là rất cần thiết cho trí tưởng tượng bộc phát.

 Danh tiếng, như là một nhà văn, cộng thêm thành tích xây dựng “cơ sở” cho hãng tại Nam Mỹ, ngần ấy thứ không thể cứu ông, bị đá văng ra khỏi “The Line”, khi nó sắp xếp, tổ chức lại công việc làm ăn, vấn đề nhân sự. Tuần trăng mật với bạn tình, tức phiêu lưu mạo hiểm, kể như xong. Ông bèn bước vào quãng đời mới tinh của mình, như là một tay nhà báo, nhà làm phim. Ông gọi đây là “thời kỳ xanh”. Người ta thấy “chàng” ngồi Quán Chùa - ấy chết xin lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy chết xin lỗi – quán Lipp, tại đường Tự Do, Sài Gòn - ấy chết xin lỗi - tại Paris; lơ đãng nhìn buổi sáng bắt đầu, tự hỏi không biết bữa nay cô bạn có giờ học ở Văn Khoa hay không, thỉnh thoảng loáy hoáy ghi sổ tay, tự nhủ  thầm, mình mới ba mươi tuổi, còn “xoan” chán!

  Những ghi chú nho nhỏ như thế, những mẩu viết tình cờ như thế, sau gom lại, biến thành “Những Ngày Ở Sài Gòn” - ấy chết xin lỗi - biến thành “Cõi Người Ta”, Terre Des Hommes, [hình như được dịch qua tiếng Anh với tựa đề Gió, Cát, và Những Vì Sao], một tác phẩm sáng chói, nhưng cũng đầy những nét làm dáng, đã đem đến cho tác giả giải thưởng của Viện Hàn Lâm, ấy là ở Tây Phương, còn ở Mẽo Phương, nó đem đến cho ông một tài sản (a fortune), nhưng ông đâu thèm quan tâm tới thứ đó! Thời gian này, ông lấy vợ, là một goá phụ, người Ác hen ti nà,  xăng xái, sống động, như một con chim, nhưng hoá ra là một người đàn bà đoảng đủ thứ, sau nhiều cú thượng cẳng chân hạ cẳng tay, theo kiểu yêu nhau lắm cắn nhau đau, họ thường xuyên xa nhau, [bài này dựa theo bài viết cùng tên của nhà phê bình V.S. Pritchett, trong The Complete Essays, nhà xb Chatto & Windus, London, 1991. NQT.] Như tác giả cuốn tiểu sử cho biết, nhà văn của chúng ta “cần” một loại hình đàn bà như vậy làm vợ, bởi vì một cuộc hôn nhân như thế thoả mãn điều gọi là nỗi âu lo, ngần ngại (inquiétude) của bất cứ một nhà văn!

 Khi xẩy ra Cuộc Thế Chiến Thứ Hai, Xanh Tếch xấp xỉ bốn chục. Can trường, ông xung làm phi công lái máy bay thám thính, trên những vùng trời đang có những cuộc tiến quân của Nazi. Sau khi Pháp thất thủ, ông tính qua Nữu Ước. Trên đường bôn tẩu, khốn khổ thay, ông dừng lại Vichy, gặp một tay cộng tác viên với kẻ địch nổi tiếng, Drieu La Rochelle, và bị liên lụy bởi rất nhiều điều vu khống mà rất nhiều người Pháp đã gặp phải trong thời kỳ nhiễu nhương như vậy. Ông vốn không hẩu với tướng De Gaulle, mà ông nghĩ rằng, đã kêu gọi nước Pháp “làm một cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt”, và ông bị buộc tội là một người theo Pétain [người cầm đầu nước Pháp theo Nazi lúc đó] Tác giả cuốn tiểu sử thuyết phục được người đọc, rằng làm gì có chuyện đó. Khi De Gaulle từ chối không giao cho ông bất cứ một nhiệm vụ nào trong thời gian có chiến dịch Bắc Phi, ông bèn theo lực luợng Hoa Kỳ vào Phi Châu, và sau khi chạy chọt, được thương tình giao cho trách nhiệm lái phi cơ thám thính chụp hình ảnh bên trên vùng trời nước Pháp bị chiếm đóng bởi Nazi. Tính không chú tâm vào bất cứ chuyện gì của ông thế tiếp tục, rất nhiều lần, ông quên không hạ thấp máy bay, trong một chuyến đi như thế, ông quên luôn cả chuyện trở về, và người ta cho rằng máy bay của ông bị bắn hạ ở giữa Nice và Corsia. Một nhân viên tình báo người Đức vốn rất mê Xanh Tếch cung cấp chứng cớ theo đó, máy bay của ông bị bắn hạ bên ngoài Corsia, nhưng M. Migeo [người viết tiểu sử ông] cho rằng, có hai người đàn bà nhìn thấy hai phi cơ bắn nhau trên vùng trời Nice, và họ là những chứng nhân tận mắt cái chết của ông. [Người viết bài này, cũng đã lâu, được đọc một bài báo, theo đó, người ta đã tìm thấy hài cốt của ông, nhờ thẻ bài, tại một bãi biển nào đó, nhưng đã sơ ý không ghi lại].

 Số 6:  Đốt Đuốc Chơi Đêm

 Voyage Au Bout De La Nuit           

 Đốt Đuốc Chơi Đêm, hay là Cuộc Chơi Tới Tận Cùng Của Đêm Đen, của Louis-Ferdinant Céline (1894-1961), là một đại tác phẩm mang tính cách mạng số một của thế kỷ chúng ta. Khi đem đến cho nhà xuất bản Denoel, tác giả tin chắc như bắp về tương lai huy hoàng của đứa con của ông: Nó sẽ đợp giải [văn chương số một của Pháp] Goncourt, và sẽ trở thành thức ăn cho cả một thế kỷ văn chương của chúng ta.

 Chỉ đúng có một nửa. Không ai dám cho nó giải thưởng văn chương số một của Pháp cả. Như thể họ tiên đoán được số phận, không phải của tác phẩm, mà là của tác giả: một nhà văn phát xít, thù hận Do Thái.

 Nhưng nhằm nhò gì ba chuyện đời tư, ba chuyện chính kiến. Cứ đốt đuốc chơi đêm cái đã.

 [Gấu tôi sẽ để riêng ra, và sẽ bàn sau, khi nào có dịp, về tính”phát xít”, bài Do Thái của Céline. Và chỉ bàn về cuộc chơi suốt đêm của Céline]

  Có vài cuốn sách thật khó giải thích, ấy là về chuyện, chẳng biết chúng từ xó xỉnh nào đột ngột xuất hiện. Nhưng khi đọc, độc giả thật tình muốn quì xuống mà cảm ơn số phận may mắn của mình, đã được đọc chúng, và tự hỏi, làm sao thế giới loài người này có thể sống được, nếu thiếu chúng?

 Cuốn Chơi Tận Đêm đếch để dư thừa một giọt nào, thuộc về một vài cuốn hiếm hoi như vậy. Nó “khuynh đảo” cuộc đời tất cả những độc giả của nó. Thứ ngôn ngữ thô  lậu [brute] thay đổi hoàn toàn cách ăn nói, cách viết lách, cách đọc điệc, cách sống xiếc, của bạn. “Chỉ [có] âm nhạc [mới đúng] là thông điệp trực tiếp đi vô cái đầu của bạn, ba cái còn lại là toàn đồ tán phét hết.”

 “Tôi viết để không ai đọc được” [J’ai écrit pour les rendre illisibles”], tác giả nói về “thông điệp văn chương” của mình. Nhân vật chính ở trong Chơi Tận Đêm, là một thứ fugitive, một kẻ trốn chạy, hậu duệ của Ulysse, ông tổ của Thế Hệ Beat, đi suốt cuộc chiến 14, xứ Congo, New York, Detroit, Paris, Toulouse, trở thành y sĩ ngoại ô Paris, rồi giám đốc một nhà thương điên. Có thể nói, Chơi Tận Đêm là cuốn tiểu thuyết đầu tiên, về toàn cầu hóa, nghĩa là trước đây 50 năm, Céline đã miêu tả cái trái đất của chúng ta cứ thế teo lại, cứ thế “một mầu đô la Mẽo”. Đâu đâu, cái nhân vật phản nhân vật của ông cũng chỉ gặp toàn là người chết, hoặc sắp sửa đi tầu suốt, Đâu đâu cũng vẫn chỉ là một xã hội chỉ mê giết và sắp thành khùng. Đây là một cuốn tiểu thuyết “phiêu lưu” (picaresque) đen tối ảm đạm nhất của Lịch Sử: bên cạnh nó, Đông Quixốt chỉ là một thứ phiêu lưu “tốt lành cho sức khoẻ”, une promenade de santé. Tôi viết để không đọc được: đây là một cuốn sách viết bằng mực đen, trên giấy đen, vậy mà vẫn đọc được!

 Để “tạm” giải thích, thái độ phát xít, bài Do Thái của Céline, trong một tác phẩm viết sau cuốn trên 5 năm, “Bagatelles pour un massacre”, Frédéric Beigleder cho rằng, Bardamu [nhân vật chính trong Chơi Tận Đêm] một kẻ vô chính phủ [anarchiste] tìm [chercher] một tên thủ phạm, và Céline, đẻ ra anh ta, vốn bài Do Thái, kiếm thấy [trouver] một con dê tế thần, là chính mình!

  Roger Nimier nói, thật vui, về Céline: “Ông Thiện và Ông Ác đánh nhau bể đầu, về thằng chả này.” [Le Diable et le Bon Dieu se disputent très fort à son sujet].

 Jennifer Tran

 Số 9: Anh Môn

 Hà Nội là cái quái gì!
 Tôi  còn Mai Thảo yêu vỡ Hà Nội khi về
 Thanh Tâm Tuyền

 Le Grand Maulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là “bản gốc”, cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby? “Bạn nào biết, làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm phiền tôi lắm lắm…”.

 Nhưng đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:

  "Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.

 [I like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not when it usepts or exceeds it].

 Fowles viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.

  Đúng là ao ước về một độc giả lý tưởng, người yêu lý tưởng: Hãy chiêm ngưỡng, nhưng nhớ đừng tra hỏi. Như thể họ sợ rằng, “sờ” vào đó, hoặc quá nữa, mở nó ra, là một việc làm báng bổ, phạm thánh! Một cuốn sách như thế, một nhan sắc như thế, là để thờ phụng chứ không phải để sàm sỡ!

  Tuy nhiên, Fowles nói, nếu độc giả Anh ngữ, muốn tìm hiểu, có thể đọc cuốn  “Anh Môn” của Robert Gibson, trong loại sách hướng dẫn đọc những bản văn tiếng Pháp, của nhà xb Grant and Cutler, London, 1986.

  Le Dur Désir De Durer: Ao ước cương cứng được trường tồn.

 Frédéric Beigbeder truy tìm nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”, “de” là từ tiếng Latinh “siderere”: ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước một ngôi sao đã mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ tôi với”, nhưng chẳng bao giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi không phải một cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.

 Như tác giả của nó, đã viết cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je cherche l’amour” [Tôi tìm tình yêu].

  Ở miền nam, Anh Môn có một vị trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch [Saint-Exupéry]. Ông bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn này lắm. Nhưng cái ngôi sao thất lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều, lại chính là…. Hà Nội! Người tình mà bạn tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như tôi hiểu được, qua lời kể của bà xã của anh, Chị Văn, qua một lần trò chuyện viễn liên, sau khi Gấu tôi được tin anh mất, và xin được số điện thoại của gia đình. Gia đình không còn ở con hẻm đường Trương Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6 nữa, mà rời về Phú Nhuận. Cô con gái lớn đã lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ.

  Chị cho biết, thời gian trước khi mất, anh Hiến [Joseph Huỳnh Văn] vui lắm, chứ không như những ngày đó đâu. Bạn nhiều lắm, nhất là mấy anh trẻ, rất mê thơ, và rất quí mến anh Hiến. Họ định ra một tạp chí Thơ, y như hồi các anh làm tờ Tập San Văn Chương, nghĩa là kéo nhau ra quán tối ngày. Anh Hiến mất cũng tại một quán cà phê. Chị bùi ngùi nói, anh có bịnh tim, đang ngồi nói chuyện gục xuống, giá mà mấy người bạn để anh nằm nghỉ thoải mái, và thoa bóp cho anh, thì chắc không sao. Họ cuống lên chở vội tới một tay bác sĩ, tay này sợ trách nhiệm, hối chở ngay tới bệnh viện, dọc đường anh mất… À, mà anh biết không, anh Hiến có một bài thơ về Hà Nội.

 Tôi hỏi: Anh Hiến có ra Hà Nội lần nào, chị nói chưa.

 Hỏi bài thơ, không có. Không có chứ không phải không còn. Và nói có, thì bài thơ cũng chỉ ở trong đầu anh Hiến…

  Chuyện như thế này:

 Vào những ngày anh Hiến như sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh cứ lẩm nhẩm ở trong đầu, một bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám bạn bè mới quen, anh đọc một, hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi xong chưa, anh nói chưa xong, chưa được…

 Rồi anh mất, và bài thơ đi luôn cùng với anh.

 Lạ một điều hỏi mấy anh từng nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là hay đó, chẳng ai nhớ, dù chỉ một từ, một hình ảnh….

  Nghe kể lại, tôi biết, anh nhớ tới thằng bạn Hà Nội đã đi xa, và những ngày đầu hai đứa quen nhau, khi làm tờ Tập San Văn Chương.

 Cũng là những ngày hai đứa luôn nói về Thơ,

 Và, lẽ tất nhiên, về Huế.

 Và Hà Nội.

 Frédéric Beigbeder viết: Có thứ tình kiểu cách, có thứ đam mê lãng mạn. có thứ tình thăng hoa kiểu Stendhal; Alain-Fournier sáng tạo ra cú sét đánh một chiều (coup de foudre unilatéral). Ngay một khi hai chiều, nó trở nên chán ngấy! Yêu thì đẹp, nhưng trường kỳ được yêu, là không thể chịu đựng nổi. Trong một cặp như vậy, một người đau khổ, và một người buồn bực. Tốt nhất, nên làm kẻ đau khổ, nghĩa là kẻ đi tìm tình yêu, chứ đừng làm một kẻ buồn bực.

 Và như tất cả những cuốn tiểu thuyết dành cho tuổi mới lớn: chúng đòi hỏi một điều thật là ác nghiệt, rằng, những kẻ đẻ ra chúng tôi, phải chết trẻ. Kẻ Xa Lạ của Camus, Ông Hoàng Nhỏ của Xanh-Tếch, Boris Vian, năm 39 tuổi, Raymond Radiguet, 20 tuổi… Alain-Fournier, trung uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng Saint-Rémy, ngày 22 tháng Chín năm 1914.

 Fowles đọc Anh Môn hồi còn trẻ, và sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của riêng mình, Magus, dưới bùa chú của Anh Môn [“ảnh hưởng rất nhiều bởi Anh Môn”: very much under its influence, như ông viết trong tiểu luận nói trên]. Hơn thế nữa, ông hành hương tới những thánh địa, của cả hai, cuốn sách và tác giả của nó. “Nói gắn gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng cảm thấy mình gần gụi với Fournier hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.”

 Cũng là thường tình, theo ông, bởi vì đây là một khía cạnh thuộc bùa chú của một cuốn sách mà bạn đọc vào lúc mới lớn, và bị nó hớp hồn. Sau này, cho dù bạn cay đắng khắc nghiệt hơn, trong cách đọc của mình, nhưng chẳng thể nào nặng lời với mối tình đầu tuyệt vời đó. Tôi nhắc lại, đây chỉ là một khía cạnh của bùa chú, bởi vì, trong rất nhiều trường hợp, khi đọc lại một cuốn sách mà hồi nhỏ bạn đã từng say mê, bạn ngạc nhiên về chính mình, một cuốn sách dở như vậy, mà cớ sao…

 Con gái thấy chó đái cũng cười: Vấn đề trên thực sự không liên quan tới văn chương mà tới tuổi đầu đời, khi con người [còn] ngạc nhiên vì sự tự nhiên của sự vật: thời đại hoàng kim của nhà văn đếch cần văn chương [écrivain sans littérature]. Nếu ao ước có nghĩa là ao ước một vì sao đã mất, điều mà Fournier chỉ ra, chính là một trong những phát giác cay đắng nhất của tuổi trẻ. Cái cô con gái nhìn chó đái cũng cười, vào một buổi tắm sông, cảm thấy, rồi nhìn thấy một dòng nước nong nóng, hồng hồng chảy từ trong mình xuống hai bên đùi, biết rằng mình đã ra khỏi tuổi thơ, và biết thêm một điều, về sự mất mát do thời gian trôi qua đi và không hề trở lại, rằng không thể tắm hai lần trong một dòng sông… Đó là cái tuổi mà chúng ta biết rằng chúng ta chẳng thể làm mọi điều mà chúng ta mơ mộng, rằng nước mắt là bản chất của mọi chuyện ở trên đời, “buồn hay vui đều cần tới nó” như cô viết trong truyện ngắn Những Dòng Sông [Thảo Trần]…. Nói gắn gọn: đột nhiên, chúng ta nhận ra rằng cái nghịch lý đen thui, khốn khổ khốn nạn nằm ở ngay trái tim của phận người: thoả mãn ao ước là cái chết của nó [… that the satisfaction of the desire is also the death of the desire].

 Em cứ hẹn nhưng em đừng đến… nhé!

 Như bài thơ mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.

 Như Hà Nội chẳng bao giờ tới được…

 Merde!

 
Số 22: Đường tới 1984.

 Hãy lấy trường hợp Orwell. 1984 không phải là một ngụ ngôn về chế độ toàn trị Stalin, Hitler, và Mao Trạch Đông như Ruhle khẳng định. Luận chiến của câu chuyện ngụ ngôn không nhất-tuyến (unilinear). Phê phán của Orwell cùng lúc là về nhà nước cảnh sát và xã hội tiêu thụ tư bản; với sự ngu si về những giá trị và những quy ước của nó. "Newspeak", ngôn ngữ cơn ác mộng của Orwell vừa là một thứ tiếng lóng về chủ nghĩa duy vật biện chứng, vừa là một thậm xưng về quảng cáo thương mại, và mass-media. Sức mạnh bi đát của 1984 là do sự từ chối nhìn sự vật đen ra đen, trắng ra trắng, của Orwell. Cái xã hội mang tính sở hữu của riêng chúng ta đã làm ông hoảng sợ. Ông thấy ở trong đó có những mầm mống của sự phi nhân có thể so sánh với những chuyện thường thấy trong chủ nghĩa Stalin. Orwell từ Catalonia trở về, với một thứ niềm tin u ám, khắc kỷ, vào chủ nghĩa xã hội người thương người; Đông hay Tây, chẳng bên nào chấp nhận nó, nếu có chăng là trong một phạm vi thật là giới hạn. Coi 1984 là một "cương lĩnh" (pamphlet), trong chiến tranh lạnh trí thức, là đọc lộn, và bỏ qua nó. Câu chuyện ngụ ngôn thực về xã hội Xô-viết, là ở trong tác phẩm Trại Loài Vật của ông.

 G. Steiner

 Nhà văn và chủ nghĩa Cộng Sản

 ********

 Tờ Guardian, nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhật của Orwell, đã đưa ra 12 câu đố về ông, thí dụ như:

 In Animal Farm, Orwell's satire on Stalinist Russia, who does the pig Snowball represent?

 In Nineteen Eighty-Four, what is the name of Goldstein's book?

What did Orwell consider 'the great enemy of clear language'?

Which of these is NOT one of the 'four bad habits' Orwell listed in his essay Politics and the English Language?

.......

 Khi bạn chẳng trả lời, You scored 0 out of a possible 12, 

Tờ báo đã khuyên bạn bằng câu sau đây:

"Man is not a kind of walking stomach; he has also got a hand, an eye, and a brain." We suggest you use more of the latter...

Con người không chỉ là một cái bụng bự biết đi, mà còn là cái tay, cái mắt, bộ óc.... Chúng tôi đề nghị bạn nên dùng thường xuyên  tới bộ óc...

--------------------------------------------------------------------------------

 Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của George Orwell, 1984, thường được đọc như là sách chống cộng, và viễn ảnh đen tối ở trong đó: có tính tiên tri. Nhân kỷ niệm lần thứ 100 năm sinh của ông, Thomas Pynchon trên tờ Guardian đưa ra những cái nhìn khác, và một kết luận lạc quan về cuốn sách trên.

Một cách nào đó, 1984 là nạn nhân của thành công trước đó, của Trại Loài Vật, như thể người đọc cứ thế tiếp tục đọc nó, như là đọc cuốn trước đó, và như vậy, đây là số phận buồn thảm của cách mạng Nga. Vào cái giây phút mà bộ ria của Big Brother xuất hiện, nhiều người đọc đều có chung một liên tưởng, đây là của Stalin. Mặc dù bộ mặt của Big Brother chắc chắn là của Stalin, cũng như Emmanuel Goldstein, Trotsky, nhưng cả hai không hoàn toàn giống như Napoleon và Snowball trong Trại Loài Vật. Cuộc chiến Triều Tiên (1950- 53) làm nổi bật phương pháp “tẩy não”, dựa trên cách dạy chó của I P Pavlov, tương tự như phương pháp tẩy não trong 1984, thành thử chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người đọc coi đây là cuốn sách tố cáo sự độc ác của chế độ Stalin.

 Nhưng thật ra, đây không phải là ý định của Orwell. Quan điểm chính trị của tác giả cũng không phải là tả, mà là “tả tả” (the left of left). Ông đã từng tới Tây Ban Nha chiến đấu vào năm 1937, chống lại Franco và đám phát xít được Nazi hỗ trợ. Chính tại đây, ông hiểu ra sự khác biệt giữa chống phát xít thiệt, và dởm. “Cuộc chiến Tây Ban Nha và những biến cố thời kỳ 1937-37”, ông viết 10 năm sau đó, “đã làm cho tôi nhận ra chỗ đứng của mình. Mỗi dòng chữ,  của một tác phẩm nghiêm túc, mà tôi viết ra từ 1936, trực tiếp hay gián tiếp, là để chống lại chủ nghĩa toàn trị, vì một chủ nghĩa xã hội dân chủ, như tôi hiểu nó.” 

Ông nghĩ về ông, như là một thành viên của cái gọi là “tả phái li khai, chống đối” (dissident left). Ít hoặc nhiều, ông cảm thấy có một sự tương tự, giữa Đảng Lao Động của Anh và Đảng Cộng Sản dưới thời Stalin, cả hai, theo ông, đều tự coi là họ những lực lượng ủng hộ giới công nhân chống lại chủ nghĩa tư bản

 --------------------------------------------------------------------------------

 1984: Tại sao?

 Chào Các Bạn, tớ đang ở trong nhà các bạn đây. Tớ đang theo dõi từng động tác của các bạn… Và tớ nhìn thấy gì? Thấy số 22 của Bảng Phong Thần Cuối Cùng, là 1984, cuốn tiểu thuyết sau cùng của nhà văn Anh, George Orwell (1903-1950)

 Bây giờ, chúng ta đang ở năm 2001 [năm xb Bảng Phong Thần Cuối Cùng của Frédéric Beigbeder]. Tức là 17 năm đã qua, từ 1984.

 Nhưng tại sao lại 1984?

 Tác giả của nó đã đảo ngược con số của năm xuất bản cuốn sách: 1948. Liệu Orwell có lầm không, như tác giả của những cuốn sách, thí dụ như New York 1997, Cosmos 1999, hay là 2001 Odyssée de l’espace, đã lầm, khi mà sự tình đã không xẩy ra như họ tiên tri “dởm”? Nếu Orwell không lầm, thì cái thế giới toàn trị mà ông tiên đoán đó, hiện đang xẩy ra tại… Việt Nam, thí dụ vậy, nơi mà mọi công dân của họ đều đuợc theo dõi bởi một màn hình Télécran?  Một xã hội mà quá khứ luôn luôn, hằng hằng, được viết lại, ngôn ngữ được sửa đổi để có được ngôn ngữ mới [novlangue], nơi những cái sọ được rửa ráy sạch sẽ [tẩy não], cuộc sống tình dục được căn sẵn [réglementé], nơi người ta bóp nghẹt, nghiền nát những công dân của nó dưới những danh từ thật là ngon ngọt, thí dụ như là tình yêu, hoà bình, và khoan dung lẫn nhau [tolérance], cư xử sao cho đúng văn hóa!

 Nơi mà mọi thứ đều được “tổ chức” (organisé), nhằm ngăn ngừa công dân suy nghĩ.

 Nhưng không phải riêng gì cái xứ sở Việt Nam khốn khổ như vậy, mà nơi nơi đều như vậy, nhiều hoặc ít. Cuốn sách của Orwell được đọc bằng sự kinh hoàng, và ngấu nghiến! Trước ông, tương lai của thế giới, của vũ trụ, của loài người thì thật là trơn tru, nhẵn nhụi, nào là người hoả tinh, nào là đĩa bay… Sau Orwell, tương lai không còn như vậy nữa: một thế giới hỗn mang, ghê rợn, tối thui, như trong những phim Brazil, Blade Runner… Orwell đã sáng tạo ra cái mỹ học đó: tương lai như là một nhà tù goulag khổng lồ, mà nhân vật chính của nó, Winston Smith, đừng bao giờ mong thoát ra khỏi.

 Số 13: Hữu Thể và Hư Vô

 Tout existant nait sans raison, se prolonge par faiblesse

 et meurt par rencontre.

 Sartre: La Nausée

 Mọi hiện hữu đều vô lý, kéo dài do yếu đuối, chết do tình cờ.

 [Cái sống nào mà chẳng cứ thế lòi ra chẳng cần lý do,

 cứ thế lòng thòng do chết nhát, và chết đứ đừ, do ngẫu nhiên.]

 Sartre: Buồn Nôn. 

Liệu có thể coi Hữu Thể và Hư Vô: một cuốn tự thuật, về cuộc tình của Sartre và Simone de Beauvoir: một là Hữu, một là Vô?

 Tout anti-communiste est un chien!

 Mọi tên Chống Cộng là một con chó,

 [và khiến người ta chỉ muốn sủa!]

 Sartre

   “Làm sao bạn có thể tin một gã trí thức,

 mắt nọ ‘đ..’ mắt kia?”

 [Comment voulez-vous croire un intellectuel

 qui a un oeil qui regarde à gauche et l’autre qui regarde à droite?:

 Làm sao bạn muốn tin một trí thức gia, một mắt nhìn trái, một mắt nhìn phải?

 Đây là diễu Sartre mắt lé (lác), nhưng còn chửi ông mê Cộng Sản.]

 
Sartre est un homme d' une totale bonne volonté, et d' une confusion fantastique. 
Koestler

 Sartre là một người với một thiện ý trăm phần trăm, và với một cái lầm quái đản.

  Con số xui xẻo rơi trúng vào Sartre, và cuốn sách triết của ông, thường “bị” coi  là thuổng Hữu thể và Thời Gian của Heidegger. Cũng không oan lắm đâu, nhưng ngoài Heidegger, còn có [còn thuổng] Husserl, Kierkegaard, Jaspers, hay nói theo Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bản Phong Thần Cuối Cùng: đây là một triết luận với một lối viết rất ư là nhọc nhằn, trong đó, Sartre xây dụng chủ nghĩa hiện sinh, “gợi hứng” [thuổng] từ Husserl, Heidegger, Kierkegaard và Jaspers. Và điều mà Sartre làm đối với Heidegger ở trong cuốn sách triết học của ông, giống y chang điều mà tôi [Biegbeder] làm với ông ta [Sartre], ở đây, ở trong cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng: một thứ reader’s digest tản mạn, lan man, mô phỏng, bông phèng, để giải trí, cho đỡ buồn…

 Nhưng tại làm sao sáu ngàn độc giả Pháp không chọn những cuốn “dễ đọc” hơn của ông, thí dụ như Buồn Nôn, Những Chữ… mà lại chọn Hữu Thể và Hư Vô, cái tiểu đề của nó, nghe còn khó hiểu hơn nữa: Luận về bản thể học hiện tượng luận [Essai d’une ontologie phénoménologique]! Beigbeder tự hỏi, trong số những mấy ngàn độc giả chọn nó, có mấy ai đã từng đọc?

 Điều đau hơn cả bị hoạn, đối với Sartre, là, bởi vì ông nổi đình nổi đám với Hữu Thể và Hư Vô, trở thành giáo chủ của giáo phái Hiện Sinh, khiến người ta “quên”, ông là một… nhà văn!  Tác giả của một cuốn tiểu thuyết mà chắc chắn sẽ còn sống mãi, sống dai hơn Hữu Thể và Hư Vô, và sau này, chắc chắn, người ta còn khám phá ra rất nhiều điều tuyệt vời ở trong cuốn này: Buồn Nôn.

 Đây cũng là một trong những cuốn sách đầu đời của Gấu tôi.

 Còn nhớ, một lần ngồi Quán Chùa, chỉ có hai “anh em” là thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, và Gấu tôi, câu chuyện lòng dòng không biết sao dẫn tới Sartre. Ông bảo tôi, Sartre viết cuốn đó, bị nhà xb vứt vào thùng rác, vì coi đây chỉ là một cuốn tiểu thuyết bình dân, lại còn thuổng của Dostoievsky…  Đây chỉ là viết theo trí nhớ cuộc nói chuyện không biết từ đời tám hoánh nào, thời cực thịnh của Quán Chùa, nhưng có một chi tiết thật tuyệt vời mà ông kể lại cho thằng em. Ông bảo: Sartre khi viết cuốn đó, lúc nào cũng cảm thấy cua bò trên lưng!

 Tôi nói:

 -Em mê cuốn này lắm!

 Ông trợn mắt:

 -Cậu hiểu “nó” hả?

 Tôi thu hết can đảm, nói “xưng xưng”:

 -Em nghĩ là em hiểu!

 Ông nói:

 -Vậy là cậu hơn tôi rồi!

 Ông nói một cách thật lòng. Tôi tin như vậy.

 Và bao nhiêu năm sau này, mãi đến bây giờ, tôi vẫn tin như vậy.

 Như thể cùng với niềm tin của ông anh, về chuyện đọc, và hiểu được cuốn Buồn Nôn, ông còn tin tôi, có thể đọc tiếp được nhiều cuốn Buồn Nôn khác nữa. Còn tiếp tục viết nữa. Và biết đâu, trong những tác phẩm chưa có đó, sẽ có một cuốn, cũng có tên là:

 Buồn Nôn.

  Nhưng, như Beigbeder viết, trích dẫn một tay “diễu cợt gia”: “Làm sao bạn có thể tin một gã trí thức, mắt nọ ‘đ..’ mắt kia?” [Comment voulez-vous croire un intellectuel qui a un oeil qui regarde à gauche et l’autre qui regarde à droite?”

  Nghe cứ như chửi… Gấu tui!

  NQT