Khoảng
1959-60, giáo sư Trần Bích Lan, tức thi sĩ Nguyên Sa, ở Pháp về, ông kể
: cuốn Phénoménologie et Matérialisme Dialectique-Hiện
Tượng Luận và Duy vật Biện chứng- của Trần Đức Thảo là cuốn kinh
điển, classique, được dùng ở Collège de France (1), hơn cả
Sartre !
Thời ấy, ảnh
hưởng văn học Pháp còn sâu đậm ở VN, các vị tốt nghiệp từ các trường
lớn bên Pháp, như Sư Phạm Normale, Bách khoa Polytechnique,
Cầu Cống Pont et Chaussée… cỡ Phạm Duy Khiêm,
Hoàng Xuân Hãn, Trần Đức Thảo…được xã hội văn hiến VN tôn vinh đặc biệt
như những ông Trạng tân học !
Đấy
là những trường lớn-Grandes Écoles, lựa chọn sinh viên xuất sắc,
thường là Tú Tài Ưu hạng, thi vào rất khó, học 3-4 năm, với 1-2 năm dự
bị, đậu từ Normale ra với bằng Thạc sĩ Agrégé, được dậy học cấp Trung
học. Từ Agrégé mang nghĩa Sư phạm, không phải học vị trên Tiến sĩ như
nghành Y, Luật… Trần đức Thảo cũng đã ghi danh ở Sorbonne, đậu Cao học
DES Triết (luận văn về Hegel), ra trường hạng đầu (2 người đồng bảng)
1943 với luận văn về Husserl. Sự lựa chọn triết học lúc đó chỉ là
do tính kiêu ngạo bồng bột của tuổi trẻ, muốn
được mọi người nể phục như chính ông nói. Thật ra, nếu Toán
học là vua của khoa học lý hoá thì Triết là vua của văn chương nhân
văn, không có khiếu thì khó mà đạt thành, nhất là từ phương Đông sang
học giới Tây phương.
Tuy
mâu thuẫn với J.P.Sartre, Sartre nối Hiện sinh với Mác, Trần Đức Thảo
nối Hiện tượng luận của Husserl với Duy vật Biện chứng, như thế cả hai
đều đi vào Mác xít. Hai người bút chiến với nhau : Sartre và Merleau
Ponty cho rằng Marx chỉ quan trọng trong lãnh vực xã hội chính trị,
hiện sinh, existentialisme, mới là triết lý nhân bản chính.
TĐ Thảo bắt bẻ Sartre : chính Mác- xít là triết lý nhân sinh, dẫn lối
xã hội và chính trị vì Marx có luận giải về tương quan Ý thức và
Vật chất (Conscience –Matière).
Sau
này, TĐThảo bỏ cả ông tổ Hiện tượng luận Husserl lẫn
ông tổ Duy lý Duy tâm Hégel, vì cả hai đều mang hình thức
lý tưởng duy tâm (idealistic) và yếu tố siêu hình. Cả Hussel lẫn
Heidegger đều đi tới hư vô-nihilisme-, hiện hữu đi tới chết (being
unto death), TĐThảo dùng duy vật biện chứng để tìm hiểu ngọn ngành
của Ý thức. Ông cho rằng phải chỉnh lý Hiện tượng học-vốn không chú
trọng tới Ý thức- bằng Marx qua xã hội và lao động của con người, nghĩa
là qua kinh nghiệm sống.
Năm
1973 TĐThảo ra một cuốn sách khác, khá có tiếng ở thời điểm ấy, Nghiên
Cứu về Tiếng Nói và Ý thức (Recherches sur l’Origine du Langage et
de la Conscience) tìm tòi tương quan sinh học và lý trí
(materialist biological and cognitive) cá thể. Ý thức là do sự
phát triển của tiếng nói, mà tiếng nói thành hình qua hoạt động của con
người trong những điều kiện vật chất. Trước đó, 1971 ông còn viết về
Hiện tượng học Tâm Trí và nội dung đích thực của nó (The
phenomenology of mind and its real content), về sau, ông còn bàn
rộng thêm về Hiện Tại Sống của Husserl qua bài viết về Le
Présent Vivant, thời gian tính, về chuyển động lịch sử, thay vì bản
chất thường hằng trong Hiện Tượng Luận Husserl.
Trước
khi mất, ông để lại ba tiểu luận cho Herman, gs Triết Western Florida
University. Tiểu luận về Logic biện chứng đối lập
với logic hình thức cứng đọng. Husserl đã viết Vận động của
khoảnh khắc trong cái Hiện tại sống động, hiện tại sống động,
cá nhân tính, trong cả sinh học khoa học, xây dựng lịch sử qua nhân
tính sống thực chứ không phải lịch sử trừu tựơng. Ông triển khai
Husserl và phê phán lời nói của Aristote “khoa học chỉ đề cập
cái tổng quát, sự tồn tại chỉ đề cập tới cái riêng” là sai.
Sartre
đi thăm Nga 1950, ra về vỡ mộng nhưng chưa dứt hẳn mộng ! TĐThảo đi xe
lửa từ Nga, qua Tầu, về với VMCS 1951, tháp ngà cũng xụp đổ dần dần,
ông phải đóng vai Tôn Tẫn giả điên 40 năm mới thoát chết, mà cũng là
nhờ nhóm Sartre luôn thăm hỏi nên mạng sống của Thảo mới không thành cỏ
dại trong Địa ngục đỏ từ 1951-1991 ! Ông vội về VN với hoài bão kháng
chiến xây dựng Mác xít đúng nghĩa như ông đã học và hiểu. Nghe nói ông
từng phát biểu : Các anh chẳng hiểu Mác gì cả, để tôi dậy cho !
Nhưng rồi “Chúng nó đã không tin tôi…chúng lo sợ đầu óc tôi có
dịp bung ra phê phán cách mạng của chúng… ông mơ tưởng
: xây dựng ở nước ta một mô hình cách mạng hoàn chỉnh,
trong sáng và nhân đạo mà cả loài người chờ đợi…(tr 83-84)
NHỮNG PHÂN TÍCH
VĂN HOÁ XÃ HỘI GIÁ TRỊ
Con người triết
gia thuần thành TĐThảo đã có những kinh nghiệm sống và để lại những
nhận xét tinh tế, ông được Nguyễn Tuân dẫn ông vào thú ăn chơi một thời
vang bóng : ông dự buổi hát ả đào chui với Nguyễn Tuân trên vùng núi
rừng Tuyên Quang, ông giật mình : hát ả đào vừa trữ tình, vừa huyền bí thiêng
liêng như
của tôn giáo. Nghe mà rợn cả người, như lạc vào
cõi thiên thai…tâm tư u buồn…hát
opéra của Tây thì dùng sức buồng phổi dẩy làn hơi qua thanh quản để đưa
nốt nhạc vọt lên chót vót như thi tài với tiếng đàn…Ả đào thì ca nương
phải kiềm chế làn hơi, rồi từ từ vừa đẩy, vừa níu lại làn hơi qua họng,
dể uốn nắn âm thanh qua thanh quản, làm nó uyển chuyển, luyến láy,
nghẹn ngào, như than van, nức nở, để bày tỏ nỗi niềm, Nguyễn Tuân bàn
giải thêm : ca trù thẩm thấu tâm can vì nó chuyên chở âm điệu nuối
tiếc, tình hận, chí cả sinh bất phùng thời của những kẻ bất mãn, bất
đắc chí như anh đấy… …Chúng ta là bọn Giang châu Tư mã đang bị giông
bão thời cuộc đánh trôi dạt về cái bến Tầm Dương rừng rú này. Buồn lắm,
thảm lắm anh ơi ! (tr 91-95)
Ông kể chuyện hồi
VMCS mới tiếp thu Hà Nội 1954 : một cặp tình nhân đang ngồi ngắm trăng
bên Bờ Hồ Hoàn Kiếm bị Công An tới hỏi giấy giá thú ! với giọng nói đặc sệt
các địa phương xa xôi, không mang chính giọng và chính tả (từ cách viết
tới phát âm).
Ông
kể : súng SKZ của Trần Đại Nghĩa (trong nhóm sinh viên theo về VN
từ 1946) chỉ thấy trên ảnh chứ không thường thấy trên trận địa (tr.281).
Rất may, sau năm
1975, hai ông CS gộc, Trần Văn Giầu và Trần Bạch Đằng đã ra Hà Nội,
khẩn khoản khuyên ông vào miền Nam để sinh sống và làm việc trong những
điều kiện thông thoáng hơn, tiện nghi hơn. Vào Sài gòn 1987, ông kinh
ngạc, tuy chưa khóc như Dương Thu Hương, nhưng ông cũng thấy ngay sự
thật, miền Nam giải phóng miền Bắc chứ không phải ngược lại ! Ông thán
phục lời ca Trịnh Công Sơn, cám ơn lệnh buông súng của DVMinh vì :nó giải thoát hàng
vạn thanh niên miền Bắc ra khỏi rừng núi đầy bom đạn và muỗi mòng… tôi được vào sống
ở SG chịu ảnh hưởng của người Saigòn (tr.341).
Ở Sàigòn, ông được
giới trí thức miền Nam tấp nập tới thăm, ông hoàn thành một tập sách
nhỏ : Con
người và chủ nghĩa lý luận không có con người. chỉ trích lối lý
luận giáo điều xơ cứng, coi con người chỉ là dụng cụ…đưa tới bế tắc tư
tưởng (tr. 219). Ông quan sát xã hội đổi mới : Đi với đồng đôla
Mỹ mà không có tự do dân chủ thì chỉ có đường làm
đày tớ cho nó thôi…thế lực tư bản man rợ dật dây …mặt kinh tế thì buông
thả để tư bản nước ngoài tung hoành lũng đoạn.Vì tư bản nước ngoài sẽ
là nguồn lực chính giúp Đảng và chế độ sống còn. (tr.227)
Ông diễn dịch súc
tích :VĂN HOÁ CHIẾN TRANH tồn đọng làm con người trở thành hung bạo
hơn, gian xảo hơn, tàn nhẫn hơn trong suy nghĩ, hành động, nếp sống. Phong ba bão táp,
không bằng ngữ pháp VN (dùng hiệp
định để chuẩn bị mở rộng chiến tranh-tr.362).
NHỮNG
CÂU TRIẾT LÝ THÂM THUÝ
Qua
hơn 400 trang sách Trần
ĐứcThảo-Những lời Trăng Trối-của
Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông HK - 2014, người đọc
có thể rút tỉa ra những lời nói sâu sắc của triết gia Thảo :
Khai
gian (lý lịch) là làm triết gian triết dối rồi, còn gì là triết học nữa…
Nếu ai cũng thoả hiệp với dối trá và
tội ác, thì dân còn hy vọng vào vào đâu, vào ai ? tr.238
Những
tư tưởng đúng với lương tri, thầm nhuần thực tại đều có sức mạnh của sự
thật sẽ bung nở xoá đi gian trá và bạo lực- tr.239
Riêng
tư là một bản chất, một bản năng tự nhiên- tr.173 !
Giáo
dục CS như vậy là dạy cách mài con dao cho sắc chứ không dạy cách dùng
con dao -tr.178
Trí tuệ là cách thay ác bằng thiện,
mưu trí, mưu thần chước quỷ khác với trí tuệ.
Đưa
Triết học vào cuộc sống -tr.197
Tôi
cũng bị, như cuồng vọng làm lãnh tụ của ông Cụ, cuồng vọng đi tìm một
một mẫu mực cách mạng nhân bản trong sáng.
Sùng bái vì sợ hãi đã dẫn con người
tới ngu tín-obscurantisme,
và cuồng tín fanatisme, ..thành nô lệ cũa những tín điều hoang
tưởng-tr.198
Ba
cái sai sinh tử : Chọn chủ nghĩa xã hội Marx, chọn chiến tranh xoá bỏ
hiệp định hoà bình, để bành trướng xh chủ nghĩa và thống nhất đất nước,
chọn Mao và đảng CSTQ làm đồng minh đồng chí - tr.361
Ta đã trồng cây tư tưởng của Marx, và
cho tới nay thì cây đó vẫn cho toàn quả đắng- tr.69
Không
có một thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy
đen tối, đầy dối trá, độc ác, quỷ quyệt, đầy hận thù , tranh chấp, đầy
chia rẽ và tham nhũng của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân
thật, đoàn kết, thương yêu, tốt đẹp cho nhân loại …tung tích của thủ
phạm đưa tới sai lầm cơ bản của cách mạng là : sự thiếu vắng
của thực tế hiện tại trong lý luận- tr207.
Từ trong lâu đài của Marx, khi bước
ra, họ đã trở thành ác quỷ.
Tìm
tự do hạnh phúc ở nơi không có con quỷ quyền lực và con quỷ chiến tranh
nó ám …phải biết rằng chỉ có con quỷ mới kiêu căng, mới vui khi làm
khổ, làm nhục con người... quỷ ấy là thứ đầu óc đầy ý đồ gian xảo, hung
bạo của quyền lực. Quỷ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ
cuồng tín của bạo lực và hận thù - Chính trị và chiến tranh cách
mạng là cơ hội thao túng của quỷ (tr.342-344).
TRỞ
LẠI THÁP NGÀ PARIS VỚI NHỮNG TOAN TÍNH TRIẾT HỌC LỚN !
Có lẽ thấy
ảnh hưởng của triết gia bắt đầu lan rộng, họ muốn ông đi cho khuất mắt,
một ông quản giáo, Sông Trường, từ hồi ngoài Bắc, nay vào Nam, 1987,
xếp đặt cho TĐThảo sang Pháp, ông cán bộ (từng làm việc cho Trường
Chinh) nói một câu, có lẽ thành thật : ông ở đây mãi với lũ gà,
chưa chán sao ?, anh sang Pháp đi, vì nếu anh ở lại Hà Nội
hay Sài gòn thì cũng phí phạm thời gian của anh thôi…anh đi sẽ như đại
bàng bay trở lại vùng trời cao, nó sẽ có thể làm được nhiều chuyện phi
thường, khác với lúc nó bị nhốt trong chuồng, cho dù cái chuồng ấy tốt
đẹp đến đâu nhưng vẫn phải sống với đàn gà... anh chưa chán cảnh phượng
hoàng phải sống chung với đàn gà à ? đây phải chăng là lời nói
rất thành thực của một quản giáo bắt đầu phản tỉnh, từng hiện diện
trong buổi TĐThảo, chủ hoà, đấu với Trường Chinh (2), chủ chiến thời
1955 ( tr.234-235)
Dù cây tùng không
chịu bật gốc, rút cục ông cũng trở lại Pháp năm 1991, chết bất đắc kỳ
tử 1993, trong 2 năm, ông vẫn chịu sự quản chế, nhưng đại bàng trở lại
vùng trời cao, đã diễn thuyết, đã suy tư, đã sám hối, cố tìm ra cách
xây dựng một lâu đài triết học, phá tan Tâm
Hégel với Vật Marx, nhằm mang lại hạnh phúc cho nhân loại hoà bình khai
phóng…
Đấy là đề tài
triết học biện chứng nặng nề, phức tạp, xin dành cho bài sau.
BÀI
SAU : Từ Tập Đại Thành Lý Đông A tới lâu đài điên đảo tưởng Trần Đức
Thảo.
Chú
Thích
1- Collège de France :
một trường hậu Đại học ở Paris dành cho trí thức chuyên gia ưu tú, do
Francois I thành lập 1529.
2- Khoảng 1964, sửa soạn
đánh miền Nam, TĐThảo được gặp HCM để trình bày về vấn đề Chiến –Hoà.
TĐThảo chủ hoà, HCM mặt cau có quay đi (tr.289), TBThư Trường Chinh
điềm tĩnh hơn, ông ta chủ chiến nhưng ngồi nghe TĐThảo trình bày
(1955-56 ? sau CCRĐất- tr 309) bất năng khuất : Nông thôn bao vây thành
thị, chiến tranh, cải cách ruộng đất…là phương pháp lưu manh hoá và
côn đồ hoá nông thôn (tr 310), Trường
Chinh, khác với Tào Tháo và còn giữ chút nền văn hoá sông Hồng, cám ơn
TĐThảo đã dịch tập Đề Cương Văn Hoá, khi ra về, thấy TĐThảo đi bộ, ông
còn xuống mời TĐThảo lên xe đưa tới tận nhà Hàng Chuối.