Chúng
nó làm phát xít
Chúng
nó làm cộng sản
Chúng
ta làm tù nhân
Trước một đứa trẻ chết đói,
cuốn "Buồn Nôn"
chẳng là gì cả.
Phụ
trang văn học báo Thế Giới, số tháng Tư 2001, đặc biệt về triết gia
người Pháp,
Jean-Paul Sartre ("Người ta đã xong chưa, với Sartre?"), đã ghi lại
câu trên, được phát biểu trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo này, vào
năm
1964: "En face d’un enfant qui meurt, la Nausée n’a pas de poids":
Trước đứa trẻ đang chết…. Nhưng cũng chính trong phụ trang văn học nói
trên,
trong cuộc phỏng vấn nhà văn Peru,
Mario Vargas Llosa, câu trên lại là: "… La Nausée ne fait pas de poids
‘face à un enfant qui meurt de faim’: cuốn Buồn Nôn chẳng có ký lô nào
‘trước
một đứa trẻ chết đói’.
Sartre
đã ảnh hưởng tới "một vài" thế hệ những nhà văn, trong số đó, có
Llosa. Khi được hỏi, phải chăng, "Sartre ảnh hưởng rất nhiều ở nơi ông,
cả
hai mặt tích cực và tiêu cực", Llosa đã trả lời, "Đúng như vậy,
Sartre quan trọng số một trong thời trẻ của tôi, cho tới khi tôi dãn
ra, tới độ
phủ nhận ông…. Cú sốc đưa đến chuyện đoạn tuyệt vô phương hàn gắn, đó
là từ câu
tuyên bố của Sartre, trong cuộc phỏng vấn trứ danh trên tờ Le Monde và
năm
1964, như trên. Sartre còn nói thêm, đối với những nhà văn thuộc thế
giới thứ
ba, họ nên từ bỏ viết, lo những công tác giáo dục hay chính trị. Đây
đúng là
một sự phản bội, từ một con người đã từng dậy tôi (Llosa) rằng, "những
chữ
là những hành động." (les mots sont des actes).
Thật
khó mà nói, "đã xong rồi", với một tác giả khổng lồ như Sartre. Khổng
lồ, cả về hai mặt vinh quang và lỗi lầm. Dấn thân hết mình, về cả hai
mặt, sống
và viết. Như câu tuyên bố của ông cho thấy, Sartre không tin tưởng cho
lắm vào
văn chương. Ở một chỗ khác, ông viết, "Ham viết, thèm viết, một cách
nào
đó, là chối từ sống." ("L’appétit d’écrire enveloppe un refus de
vivre."). Tuy nhiên, số lượng tác phẩm của ông thật khổng lồ, hầu hết
do
Gallimard xuất bản: Tưởng tượng (L’Imagination, 1936); Buồn Nôn (1938)
Bức
Tường; Phác họa một lý thuyết về cảm xúc (1939); Giả tưởng
(L’Imaginaire,1940);
Những Con Ruồi (kịch); Hữu Thể và Hư Vô (1943); Phê bình lý luận biện
chứng
(1960)… Ông đã ảnh hưởng tới rất nhiều nhà văn của hậu bán thế kỷ 20,
thường
thường, lúc đầu họ đều mê ông, như trường hợp nhà văn người Peru
kể trên. Hoặc như trường hợp nhà văn người Đức, Guenter Grass Nobel văn
chương.
Grass cho rằng, khi chọn Camus thay cho Sartre, một cách nào đó, ông đã
đúng,
ít ra là đối với riêng ông: như là một nhà văn. Llsosa, trong một bài
tiểu luận
nhan đề "Giữa Sartre và Camus", đã chọn Camus.
Sau
đây là một vài trích dẫn, từ những tác phẩm của Sartre.
"Phải
viết cho thời đại của mình, như những nhà văn lớn đã làm. Nhưng điều
này không
có nghĩa, phải chết cứng ở trong nó. Viết cho thời đại không có nghĩa,
phản ảnh
nó một cách thụ động, mà là, mong muốn nắm bắt, hay thay đổi nó, và như
vậy có
nghĩa, vượt qua nó, về tương lai, và chính sự cố gắng muốn thay đổi
thời đại đã
làm cho chúng ta ngự trị sâu thẳm ở trong nó; bởi vì thời đại sẽ không
còn giản
lược về một tập hợp chết, của những đồ dùng hay tập quán, mà là chuyển
động nó
tự vượt nó, hoài hoài, hoà nhập trong nó là một hiện tại cụ thể và một
tương
lai sống động, của tất cả những con người làm nên nó."
(Thời
Mới, tháng Sáu 1948).
"Mỗi
lần tôi phạm lỗi lầm, đó là bởi vì tôi đã chưa đủ triệt để"
(Nhận
Định X)
Trong
những lỗi lầm của Sartre, có vụ liên quan tới cuộc khởi nghĩa Budapest
của nhân dân Hungary,
vào năm 1956. "Một ô nhục", theo một tác giả trên tờ Le Monde, vào
năm 1996, khi Sartre "chấp thuận" (approuver) chuyện chiến xa Liên Xô
đè bẹp cuộc cách mạng. Trên tờ L’Express số đề ngày 9.11.1956, Sartre,
trong
một cuộc phỏng vấn, trước tiên đã "kết án, không chút dè dặt", sự can
thiệp của Liên Xô vào Hungary, coi đây là "một lỗi lầm không thể tưởng
tượng được", "một tội ác"… nhưng cần phải đọc hết cuộc phỏng vấn.
Lẽ
dĩ nhiên, quyết định của điện Cẩm Linh là "một lỗi lầm không thể tưởng
tượng được", nhưng… "tất cả cho thấy rằng, cuộc nổi dậy "có
chiều hướng phá huỷ toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội". Đó là "một tội
ác", nhưng… "trong những nhóm người này, kết hợp nhằm chống lại những
người Xô Viết, hoặc để đòi hỏi họ ra đi khỏi đất nước Hungary,
người ta nhận ra, có những thành phần phản động, hoặc bị nước ngoài xúi
giục"…. "sự có mặt (chứ không phải hành động can thiệp thô bạo) của
Liên Xô là "một điều cần thiết"….
Lịch
sử sau đó cho thấy, nhân loại đã biết ơn rất nhiều ở cuộc cách mạng Hungary
vào năm 1956. Chính nhờ nó, mà Liên Xô nhận ra một điều, chuyện nhuộm
đỏ cả Âu
Châu, là một toan tính cần phải "xét lại". Ngay Sartre, trong cuộc
phỏng vấn kể trên cũng phải công nhận, lần đầu tiên có một cuộc cách
mạng không
mang mầu đỏ của phe tả (pour la première fois… nous avons assisté à une
révolution politique qui évoluait à droite).
Tất
cả những khẳng định của Sartre đã được tờ Pravda đăng tải, cộng thêm
những lời
ca ngợi cuộc can thiệp của Hồng Quân, như của Janos Kadar, vào ngày 5
tháng 11.
Một tháng sau đó, chúng trở thành những lời buộc tội những người cầm
đầu cuộc
cách mạng…
Nhà
thơ Thanh Tâm Tuyền đã ca ngợi cuộc cách mạng Budapest
bằng những vần thơ sau đây, được thi sĩ trước tác vào tháng 12 năm 1956:
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
Anh
một trái tim em một trái tim
Chúng
kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy
cho anh giận bằng ngực em
Như
chúng bắn lửa thép vào
Môi
son họng súng
Mỗi
ngã tư mặt anh là hàng rào
Hãy
cho anh la bằng cổ em
Trời
mai bay rực rỡ
Chúng
nó say giết người như gạch ngói
Như
lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy
cho anh run bằng má em
Khi
chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa
những ngón tay vào nhau
Thân
thể anh chờ đợi
Hãy
cho anh ngủ bằng trán em
Đau
dấu đạn
Đêm
không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng
tấn công hoài những buổi sáng
Hãy
cho anh chết bằng da em
Trong
dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh
sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi
những người kế tiếp
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest.
Cũng
vẫn thi sĩ, trong một, trong những bài thơ đầu tiên, đã nhận ra sự
"thất
bại trong chiến thắng", của một miền đất:
Chúng
nó làm phát xít
Chúng
nó làm cộng sản
Chúng
ta làm tù nhân
(Trích
bài thơ Tù Binh trong
tập Tôi Không Còn Cô Độc, Sài
Gòn, 1956)