Cái Chết Của Một Thi Sĩ:
Những ngày sau cùng của Marina Tsvetaeva
For the world's your
cradle, and your grave's the world.
Bởi vì thế giới là cái
nôi của anh, còn nấm mồ của anh là thế giới.
Tsvetaeva: I will win
you away from every earth, from every sky
[Tôi sẽ thắng anh, từ
bất cứ mảnh đất, bất cứ vòm trời].
Vào ngày 22 tháng Mười, 1937, Marina
Tsvetaeva bị Mật Thám
Tây ở Paris bắt trình diện, về vụ ông chồng của bà, Sergei Efron, biến
mất mười
ngày trước đó. Ông này bị nghi là đồng lõa trong một vụ giết hại Ignaty
Reiss,
nhân viên Mật vụ Xô Viết, tại Thụy Sĩ,
trong tháng trước đó. Theo như hồ sơ của mật thám Tây, nhà thơ bèn trả
lời,
chồng tui đi Tây Ban Nha, làm nghĩa vụ quốc tế chống phát xít cứu nhân
loại, [nguyên
văn, ‘chiến đấu bên cạnh những người cộng hòa Tây Ban Nha"]. Như bạn bè
của bà còn nhớ được, bà đã đọc thơ Racine:
"Đó là một con người trung thành nhất, phong nhã nhất, và nhân bản
nhất, trong số những con người." Và thêm vô: "Nhưng lòng tin của
chồng tôi có thể đã bị lạm dụng, tuy nhiên, lòng tin của tôi về chồng,
không bao giờ." [C’est le plus loyal, le plus noble, et le plus humain
des
hommes. – Mais sa bonne foi pu être abusée. – La mienne en lui –
jamais”].
Bất hạnh thay, bi kịch mà nhà thơ và
gia đình lâm vào, không
giống như trong kịch Phèdre của Racine:
Efron không dính dáng gì tới vụ sát hại trên, giản dị là bởi vì ông làm
việc
cho cơ quan mật vụ Xô Viết trong nhiều năm. Ông không biến mất, để đi
chiến đấu
cùng những người anh em cộng hòa ở Tây Ban Nha, mà là được lệnh NKVD,
tiền thân
của KGB, về Moscow trình diện.
Con gái của nhà thơ, Ariadna, một
người tuyệt đối tin tưởng
vào chủ nghĩa không tưởng Xô Viết, cũng đã nhiều năm hoạt động, như là
một điểm
chỉ viên tích cực, trước khi trở về quê nhà vào Tháng Tư 1937.
Chính nhà thơ cũng đã trở về Nga, sau
đó, vào tháng Sáu,
1939. Gia đình bà bị quản lý tại gia, tại một datcha của NKVD gần Moscow. Hoàn cảnh thật khốn đốn, ngay cả trước khi
xẩy ra vụ bắt giữ cô con gái, ngày 27 Tháng Tám, 1939, và ông chồng,
ngày 10
Tháng Chạp, cùng năm.
Khi cuốn sách của Irma Kudrova, Cái
Chết Của Một Thi Sĩ:
Những ngày cuối cùng của Marina Tsvetaeva, nguyên bản tiếng Nga, xuất
bản tại
Nga cách đây chừng một thập niên, nó đã gây chấn động, nhất là ở những
đoạn
vạch rõ, cả hai, ông chồng và cô con gái nhà thơ đều làm việc cho mật
vụ. Tác
giả cuốn sách là nhà nghiên cứu đầu tiên được đọc những biên bản hỏi
cung, và,
bằng kinh nghiệm của một cựu tù nhân của chế độ Xô Viết, đã lọc ra, đâu
sự
thực, đâu là méo mó, ở trong những biên
bản 'tự kiểm' đó.
Tác giả cũng bác bỏ nhận định của
Mariya Belkina, tác giả
cuốn Những Số Mệnh Đan Chéo Nhau, khi cho rằng vào cuối đời, nhà thơ
Tsvetaeva
đã rớt vào tình trạng một bệnh nhân tâm thần. Tsvetaeva, như được mô tả
trong
Cái Chết Của Một Thi Sĩ, là, rất hoang mang khốc liệt, panicked, rất
thê lương
tuyệt vọng, desperated, nhưng hữu lý, tỉnh táo, chứ không phải là một
con bệnh
tâm thần.
Irma Kudrova giải thích, nữ thi sĩ bị
đánh gục, không phải
là do kìm kẹp, áp bức, truy sát về chính trị của nhà nước Xô Viết, mà
phần lớn
là do sự vắng mặt đất nước Nga trong một thời gian dài, 18 năm, thêm
vào đó, do
cô lập về trí thức và về xã hội; do chao đảo, hỗn loạn của cuộc sống
tại
Yelabuga, thuộc Kazan Province, và còn do liên hệ căng thẳng giữa bà và
người
con trai, muốn đời con để con lo, nữ thi sĩ coi như vậy là phản bội lại
mẹ.
Nhưng, theo Catriona Kelly, người điểm
cuốn sách Cái Chết
Của Một Thi Sĩ, trên tờ TLS, số đề ngày 5 Tháng 11, 2004, người đọc có
thể nhìn
ra, vào những năm sau cùng của đời mình, nữ thi sĩ Nga - người mà nhà
thơ
Joseph Brodsky đã từng thú nhận, chính bà, chứ không phải Akhmatova, đã
dẫn dắt
ông, ở cái thuở ban đầu làm thơ - Tsvetaeva, lần đầu tiên trong đời, đã
nhìn
quá nỗi đau riêng của mình, và nhận ra rằng, quan niệm của bà về thế
giới - một
cái nhìn lý tưởng, mang tính Lãng Mạn ở thời kỳ sau cùng của nó - đã
nhạt nhòa
hẳn đi. Bài thơ lớn lao nhất của bà, Thơ Ở Lúc Tận Cùng, Sau Nga Xô,
Poem at
the End, After Russia,
toát ra [được gợi hứng bởi] cái cảm quan về sự lăng mạ, bất công. Và
nếu như
thế, thì đây, nếu không là một điều tự hạ mình, thì cũng thật là vô
nghĩa, bởi
vì tinh thần thơ của bà, vào lúc làm bài này, là dưới ánh sáng của văn
học Xô
Viết, theo kiểu 'mặt trời chân lý chói qua tim' [in terms of the
self-styled
luminaries of Soviet literature], của Tố Hữu ‘nhà mình’.
2
NQT