Phượng
Hoàng
Hãy gọi
ta là hiệp sĩ sư tử!
Trong
một bài viết trên một
tờ báo địa phương, tôi tình cờ lượm được một chi tiết thật thú vị. Tác
giả bài
viết cho rằng, có thể vì không còn bám vào đất nữa, cho nên những nhà
văn hải
ngoại của chúng ta ngày càng sử dụng bừa bãi những con chữ. Ông nêu thí
dụ, Mai
Thảo, một lần chắc là quá nhớ Sài Gòn, bèn ghé thư viện Cornell, mân mê
ba con
chữ trước 1975, hiện lưu trữ tại đây. Sau khi đã cơn ghiền, ông rời
“phần thư”
trở về … đời thường, tức là cuộc đời lang thang vô định nơi xứ người.
Tác giả
bài báo chê Mai Thảo
dùng sai từ. Tại sao lại phần thư? Phòng đọc sách, hay văn vẻ hơn, thì
phải là…
“thư phòng” chứ!
Mai
Thảo rời Việt Nam
năm 1978
thì phải. Lần chót tôi nhìn thấy ông, là một buổi sáng ngay sau ngày
30/4. Ông
ngồi một mình trong một quán cà phê, hình như quán Sing Sing, một cái
tên từ
hồi “mồ ma” quân đội Mỹ, ở đường Phan Đình Phùng. Quán chẳng có ai
ngoài ông.
Tôi gặp lại hình ảnh này, trên bìa số báo Văn tưởng niệm ông: một Mai
Thảo ngồi
trên băng ghế bên đường chờ xe buýt tại thủ đô Sài Gòn của người tị
nạn. Chi
tiết về những ngày rong chơi của ông trước mũi súng, trước cuộc săn
người của
Cộng Sản, đã được Nhã Ca ghi lại, trong Hồi Ký Mất Ngày Tháng. Như vậy
là ông
có chứng kiến những ngọn lửa đầu tiên của cuộc phần thư 1975. Tôi tin
rằng, khi
lênh đênh trên một con tầu giữa biển khơi, trong số những hình ảnh ông
còn giữ
được của quê hương, chắc chắn có hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt sách,
những cuốn
của ông, và của bè bạn. Ông biết rằng, chúng đều đã bị huỷ diệt. Bởi
vậy, khi
ông vào thư viện Cornell, là để đọc tro than của chúng.
Cũng
theo nghĩa đó, một khi
những cuốn sách của Miền Nam, sau này được chính nhà nước Cộng Sản cho
in lại ở
trong nước, điều này chứng tỏ: chúng đã sống lại từ lớp tro than, từ
cuộc phần
thư 1975.
Khi
phải nhìn lại 25 năm văn
học của người Việt lưu vong, tôi nghĩ nó phải như một loài phượng
hoàng, cứ mỗi
lần muốn tái sinh, là phải lao vào lửa.
Phượng Hoàng
Es-tu prêt à être effacé, nul, anéanti,
à n’être rien?
Perdu dans l’oubli?
Sinon, jamais vraiement tu ne changeras
Le phénix ne retrouve que sa jeunesse
que s’il est brulé, brulé vif, jusqu’à se faire
chaude et floconneuse cendre.
Alors le frêle remuement d’un frêle être nouveau dans le nid
au duvet léger comme cendre qui vole
montrer qu’il a retrouvé pareil à l’aigle sa jeunesse,
Immortel oiseau
(D.H. Lawrence, Derniers Poèmes, bản dịch tiếng Pháp của Roger Munier,
trong Cahier de L’Herne, 1988).
(Tạm dịch:
Mi đã
sẵn sàng chưa, để xóa nhòa, thành không, tiêu tùng,
để chẳng là chi?
Chìm vào quên lãng?
Nếu không, mi đừng mong chi
thay đổi.
Phượng
Hoàng chỉ tìm lại tuổi
thanh xuân
khi cháy rực như cây đuốc
sống
chút tro than còn, nóng, nhẹ
như bông,
Rồi
lung linh ở ngay tổ,
Là lông tơ, nhẹ, tựa tro bay:
nó đã tìm lại được mình,
Con chim bất tử).
Mới
đây, người viết có được
nguyên bản bài thơ Phượng Hoàng. Bản tiếng Việt trên, là từ bản dịch
tiếng
Pháp. Xin đăng nguyên bản, để độc giả tiện theo dõi:
PHOENIX
Are you
willing to be sponged
out, erased, cancelled,
made nothing?
Are you willing to be made
nothing?
dipped into oblivion?
If not, you will never really
change.
The phoenix renews her youth
only when she is burnt, burn
alive, burnt down
to hot and flocculent ash.
The the small stirring of a
new small bub in the nest
with strands of down like
floating ash
shows that she is renewing
her youth like the eagle,
immortal bird.
D.H Lawrence: The complete
Poems (tủ sách The Penguin Poets) *
Trong
bài viết Nhân Văn
(Humane Literacy) George Steiner khẳng định: không một chế độ chính trị
nào có
thể yểm bùa chú lên những tác phẩm của nhà văn, khiến cho nó vĩnh viễn
chìm vào
trong quên lãng, hay bóp méo nó, và cho dù những cuốn sách có thể bị
tiêu huỷ,
nhưng tro than sẽ được vun vén, và giải mã. Khi nhà nước CS đành phải
cho xuất
bản những tác phẩm văn học của Miền Nam trước 1975, điều này chứng tỏ:
con chim
phượng hoàng đã tái sinh. Ở hải ngoại, nếu nó được tái sinh, thì cũng
không do
những ông lái buôn làm giầu từ những tác phẩm vơ vét đem xuống tầu cùng
với họ;
cũng không phải bởi các tác giả may mắn đi từ những ngày đầu, rồi vào
thư viện
Mỹ sao chép lại… Chúng vẫn chỉ là tro than. Từ đó, một con phượng hoàng
song
sinh sẽ tái xuất hiện.
Walter
Benjamin nhận xét:
không hề có chuyện gì đã từng xẩy ra mà có thể bị coi là mất mát đối
với lịch
sử (nothing that ever happened should be regarded as lost for history.
Illuminations). Nhìn theo cách đó, thời gian 25 năm là quá ngắn ngủi,
đối với
một dòng văn học, so với chiều dài lịch sử.
Nhà
văn, nhìn một cách nào
đó, là kẻ đến sau biến động. Ngay sau 1975, văn học hải ngoại còn in
hằn nét
đau thương, giận dữ, và có cả hận thù. Nó mang tính “trung thành” với
thời cuộc
(chống Cộng ở đây mang tính công dân như “thù nhà, nợ nước”, hơn là
mang chất
văn chương). Vả chăng, hận thù, đối với một nhà văn, là thất bại của
trí tưởng
tượng. Cùng với thời gian, những con chữ ngày càng thoát ra khỏi những
rằng
buộc nhất thời, và đủ sức chuyển tải cuộc sống đa đoan phức tạp của
những con
người Việt Nam xa quê hương. Khởi từ lời khuyên của Don Quixote, “Đừng
tìm
những con chim ngày hôm nay, ở trong cái tổ ngày hôm qua”, văn học hải
ngoại
của người Việt Nam sau 25 năm bắt buộc nhìn về phía trước. Theo nghĩa
đó, tôi
tin rằng dịch thuật chính là cánh cửa mở ra văn học Việt Nam hải ngoại.
Dịch
thuật còn là cái cầu “Ô Thước”, cho hai con phượng hoàng song sinh “hội
nhập”,
trở thành một. So với hằng hà sa số những “sáng tác” hiện xuất hiện
trên một số
báo văn học, và xuất hiện đầy rẫy trên những trang nhà trong không gian
ảo trên
lưới thông tin toàn cầu, chúng ta mới nhận ra sự quan trọng của dịch
thuật,
theo nghĩa: chiếm đoạt, cầm tù cái nghĩa (meaning), làm giầu có cho
tiếng nói,
ngôn ngữ Việt.
“Đừng gọi ta là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa. Hãy gọi
ta là Hiệp Sĩ Sư Tử”, Don Quixote ra lệnh cho người hầu. Hiệp Sĩ Mặt
Buồn ám
chỉ Đấng Cứu Thế. Hiệp Sĩ Sư Tử là để chỉ con người, trong cuộc phiêu
lưu tìm
lại chính mình, một khi thần thánh đã bỏ đi. Cuộc phiêu lưu đó bắt đầu
bằng
tiểu thuyết. Với Âu Châu, tiểu thuyết là thể dạng văn học thứ ba, sau
hùng ca
và bi kịch (Hy Lạp). Theo G. Lukacs, tiểu thuyết là để diễn tả cõi
“không nhà
siêu việt”; nói nôm na, nó diễn tả thân phận lưu vong của con người,
khi không
còn thần thánh nữa.
Theo nghĩa đó, nhà văn Việt Nam hải ngoại bắt
buộc phải là những vị hiệp sĩ sư tử, trong cuộc chinh phục ý nghĩa, về
chính
thân phận người Việt lưu vong nơi xứ người.
NQT