16.10.2004
Elfriede
Jelinek
Gõ
vào ngôn ngữ
Đông
Phương, Phạm Thị Hoài dịch
Franfurter
Rundschau:
Xin hỏi bà thế này: Elfriede Jelinek đã thật ý thức rằng Elfriede
Jelinek được
giải thưởng Nobel văn chương 2004 chưa?
Elfriede Jelinek: Chưa, hoàn toàn chưa, tôi còn đang thất
thần. Nhiều chuyện dồn dập quá, chẳng đầu óc đâu mà nghĩ ngợi được.
12
giờ 30 ngày thứ năm, lúc điện thoại
từ Stockholm
gọi tới thì thế nào, bà nghĩ gì?
Chẳng
nghĩ gì hết. Đầu óc hoàn toàn
trống rỗng. Nhưng cũng
biết là cú điện thoại ấy từ Stockholm
thật. Người đàn ông ở đầu kia phát âm giọng Thụy Điển. Từ thuở biết
Helmut
Qualtinger [1] tôi khó hình dung rằng lại có người không đâu mà bỏ công
xì âm
„ch“ thành âm „sch“ như thế.
Bà
có trang riêng trên mạng, chắc bà
nhận được nhiều điện
thư chúc mừng. Có bao nhiêu thư và bà đã đọc vài cái rồi chứ?
Tôi
đã hồi âm cả rồi, tuy chỉ ngắn
gọn. Khoảng 300 cái thì
phải. Trang nhà đó đối với tôi rất quan trọng, trước hết để giúp các
sinh viên
ngoại quốc, vì họ không dễ có được các văn bản của tôi. Gần đây tôi
công bố
nhiều công trình, nhất là các tiểu luận, trên trang nhà, vì tôi không
muốn
chúng xuất hiện dưới dạng sách. Chúng không thích hợp để sưu tập rồi in
thành
sách. Tôi cũng gặp nhiều rắc rối với công luận. Phương tiện điện tử nhỏ
bé này
cho phép tôi không cần ngồi nhà mà vẫn như ở nhà. Ngoài ra tôi còn một
mục nữa:
mục ghi nhớ. Ở mục đó tôi có thể nhanh chóng phản ứng trước những sự
kiện chính
trị và những trò đồi bại. Tạm gọi là mình nói cho mình nghe. Cái nói đó
không
phải là văn chương, mà như viết nhật kí thì đúng hơn.
Qua
tác phẩm của bà, chỗ đứng của loại
văn chương phê phán
ngôn từ và thể nghiệm ngôn từ được đề cao. Trong khu vực Đức ngữ, loại
văn
chương này chưa bao giờ thực sự có số phận may mắn và hiện nay cũng
phải vất vả
lắm mới chọi lại được đủ loại mô hình của chủ nghĩa hiện thực. Lý do vì
sao?
Loại
văn chương này là đặc Áo, đối
tượng của nó là chính
ngôn ngữ, tiếp nối vào Wittgenstein thời kì đầu [2] và đặc biệt kế thừa
nhóm
Wien [3] , phần lớn sự nghiệp của tôi có lẽ là nhờ ở nhóm văn nghệ này
cùng
những tác giả như Artmann, Jandl và Mayröcker [4] . Tôi có cảm tưởng
rằng người
Đức không thật hiểu điều tôi viết, hoặc chỉ một ít người hiểu. Họ có
một truyền
thống văn chương khác hẳn, đó là thứ văn chương hiện thực, văn chương
kể
chuyện. Như thể cuộc tranh luận về chủ nghĩa hiện thực giữa Brecht và
Lukács
[5] chưa từng nổ ra. Họ vẫn tiếp tục kể lể mãi không thôi. Ngoài ra tôi
xuất
thân từ ngành nhạc, nên tôi gõ thành âm, thành nhạc điệu vào ngôn ngữ
cho nó
bật ra cái bản chất tư tưởng của nó, như thày thuốc gõ vào lồng ngực mà
nghe
bệnh vậy. Gõ xong thì ngôn ngữ phải khạc ra sự thật, dù nó muốn hay
không.
Bà
có tin rằng việc trao giải Nobel
cho sự nghiệp văn chương
của bà có thể sẽ tác động đến những tranh luận văn học trong tương lai?
Quyết
định trao giải này có tăng cường vị trí của sự phê phán ngôn từ trong
văn học?
Tôi
chẳng tin rằng mình sẽ đóng góp
được gì vào bất cứ cuộc
tranh luận văn học chưa xẩy ra nào đó. Tôi không phải một nhà lí
thuyết, mà
cũng chưa từng làm việc trong lĩnh vực lí thuyết. Tôi là một hỗn hợp
của sự ngờ
nghệch thật sự - thiếu kiến thức về thế giới! – và cái cách cảm nhận
nhạc tính
về ngôn ngữ. Đó là chuyện ở một cấp độ khác hẳn, có thể tương tự như ở
Gerhard
Rühm [6] , ông ấy cũng vốn là dân nhạc. Nhưng tôi hoàn toàn không nghĩ
rằng
truyền thống này sẽ có khả năng lan truyền khắp khu vực Đức ngữ. Tất
nhiên
truyền thống này cũng có trong văn học Thụy Sĩ, một nền văn học phải
nói là vô
cùng xuất sắc. Nguyên do chắc tại rặng Alps gây ra, hoặc do nước ở
những vùng
này nhiều chất vôi mà lại thiếu chất i-ốt. Đem cái đặc sản ấy trồng bừa
ở nơi
khác đâu có được. Không thể nhồi nó vào nền văn học Đức. Được tha cho
cái khoản
ấy là dân Đức tội nghiệp, hay ít nhất là phần lớn dân Đức, sẽ cảm ơn
lắm. Họ
chỉ thích phồng mang ngoạm tảng thịt văn chương cho ra thịt, thật dày.
Hàn
lâm viện Thụy Điển đã trao giải
Nobel cho toàn bộ sự
nghiệp của bà. Theo bà thì kịch và văn xuôi của bà quan hệ ra sao?
Về
cơ bản thì công việc của tôi – như
phần lớn các tác giả -
là một tác phẩm duy nhất, một bãi nấm chằng chịt dưới mặt đất, một thụ
tầng
nấm, lan rộng, rồi thỉnh thoảng một mũ nấm trồi lên, vì đơn giản là nó
quá chán
cái cảnh cứ phải nằm mãi dưới mặt đất. Nó phải ló lên. Các vở kịch của
tôi -
trừ vở đầu tiên, khi tôi mới tập bước vào thể loại này - đều không phải
kịch
theo nghĩa thường hiểu. Chúng là những bản văn để đọc lên, mà là đọc từ
vị trí
trên bục cao, tức là trên sân khấu, thế thôi. Và đạo diễn, thật là khổ,
phải từ
đó dựng thành kịch. May mà tôi vẫn còn tìm được những đạo diễn, đồng
thời là
những cộng sự ngang hàng với tôi, có thể đương đầu với việc đó.
Nhiều
nhà chính trị và quan chức Áo
trước đây phỉ báng cá
nhân và tác phẩm của bà, nay đồng thanh ca ngợi bà. Điều này có khiến
bà băn
khoăn không?
Ấy,
không phải tất cả đâu. May thay
không có ông Jörg Haider
[7] trong số đó. Tôi không coi nặng chuyện này. Hoặc là thế này: tôi
biết rõ ai
thật bụng, ai không. Nhận ra ngay thôi mà. Tôi cũng chẳng bực vì những
lời chúc
mừng không thật lòng. Chúng ta sống trong một xã hội văn minh, hay ít
ra là nên
sống như thế. Thành ra thứ lễ nghi này, cho dù sáo và rỗng, vẫn có
nghĩa của
nó.
Ông
Haider, người đứng đầu bang
Kärntner, đã tuyên bố sẽ
không gửi hoa mừng bà. Hẳn bà cũng không chờ đợi. Nhà văn Đức Martin
Mosebach
đã trút hết bực dọc trên tờ „Die Welt“, nói rằng Elfriede Jelinek thuộc
vào số
„những người ngu nhất ở tây bán cầu“. Vì sao tác phẩm của bà và cá nhân
bà lại
gây ra những phản ứng „trật đường ray“ như thế?
Chà,
ông Mosebach nói thế cũng vui.
Tôi phải cười bò. Điều
ngộ nghĩnh nhất là ông ấy lại nói đúng cũng nên, trong một cách nào đó.
Thông
minh không phải sở trường của tôi. Nhưng chắc chắn ông ấy không biết
rằng ông
ấy đã có lí phần nhiều. Thế mới vui. Tôi nói thật chứ không nói làm
duyên đâu,
dù làm duyên nói chung đối với tôi không phải là chuyện lạ.
Arnold
Schwarzenegger
[8] trở thành thống đốc bang
California, còn Elfriede Jelinek được giải Nobel văn chương. Cơn say
thành công
này có nguy hại cho tâm hồn của nước Áo không?
Tâm
hồn của nước Áo
làm bằng sôcôla và bột hạnh nhân mà tôi
đã có lần gọi là viên sôcôla hiệu Mozart có nhân bị thối. Vỏ ngoài thì
ngọt và
dễ thương nhưng cái nhân thì kinh tởm. Chọc vào cái nhân đó sẽ thấy rất
đắng.
Đôi khi nguy hiểm nữa. Kích động trên một tờ báo có độc giả là một nửa
số dân
biết chữ thì chẳng bao giờ tuyệt đối không nguy hiểm.
Bà
đã nói rằng bà vui
mừng trước số tiền thưởng. Phần lớn
các nhà văn thường phản ứng thiếu tự nhiên trước chuyện tiền bạc. Là
tác giả
thì nên đóng vai người nhạc công nghèo hay vai tác giả nhạc Pop hết
lòng theo
luật chơi tư bản?
Cần
phải nói rằng
phần lớn đồng nghiệp của tôi sống ngang
lằn ranh của nghèo túng, bảo hiểm khi về già, lúc đau yếu hay những khi
gặp số
phận hẩm hiu rất mong manh. So với họ thì tôi đã và hiện còn khá hơn
rất nhiều.
Tất nhiên tôi không thể trông vào sách mà sống được. Sách bỏ túi chẳng
được mấy
tiền bạc, thành ra tôi luôn phải dịch, viết kịch truyền thanh [9] và
kịch cho
sân khấu. Phần lớn những việc này, tôi làm với hứng thú thật sự; nhưng
bây giờ,
có thể nghỉ ngơi khi cần, thế là rất hay.
Một
số nhà phê bình
gọi bà là một Cassandra [10] , là tiếng
kêu cảnh tỉnh mà thiên hạ bất đắc dĩ lắm mới chịu nghe. Chúng ta, những
kẻ du
mục toàn cầu, sẽ đi về tương lai nào?
Tôi
không kêu gọi
cảnh tỉnh. Tôi chỉ nói sự thật. Tôi không
thể phù phép ra những sự không tưởng. Tôi biến sự vật thành kì quặc lố
bịch,
thành châm chọc, và hi vọng qua đó gây ra một chu trình ý thức kéo dài
chừng
hai phút.
(Tên
bài do talawas
đặt)
Người
thực hiện:
Andreas Puff-Trojan
©
2004 talawas
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Helmut
Qualtinger (1928-1986): diễn
viên và nhà văn Áo,
là một trong những tiếng nói phê phán quan trọng nhất tại Áo những năm
50-60,
nổi tiếng với giọng phát âm (nhất là trong các vở hài) đặc biệt.
[2]Ludwig
Wittgenstein (1889-1951):
triết gia Áo. Thời kì
đầu được nói đến ở đây là thời của tác phẩm Tractatus
logico-philosophicus
(1921).
[3]Wiener
Gruppe: Nhóm văn nghệ tiền
phong-thể nghiệm ở Wien
1946-1964 (tránh nhầm với nhóm triết gia ở Wien -Wiener Kreis- những
năm 20-30)
với những tác giả như K. Bayer, G.Rühm, H.C. Artmann.
[4]H.C.
Artmann, nhà thơ Áo
(1921-2000), tham gia nhóm Wien
đến năm 1958. Ernst Jandl, nhà thơ Áo (1925-2000), chịu ảnh hưởng của
nhóm
Wien. Friederike Mayröcker (1924), nhà thơ nữ Áo, chịu ảnh hưởng của
nhóm Wien,
bạn đời của Ernst Jandl.
[5]Cuộc
tranh luận giữa Bertolt Brecht
và Georg Lukács được
nhắc đến ở đây diễn ra vào cuối những năm 30, xung quanh những khái
niệm như
chủ nghĩa hiện thực, tính đại chúng...
[6]Gerhard
Rühm (1930), nhà thơ và nhà
soạn kịch Áo, thành
viên sáng lập nhóm văn nghệ Wien (1946-1964).
[7]Jörg
Haider (1950): Người đứng đầu
(Landeshauptmann) bang
Kärtner, thủ lĩnh đảng cực hữu FPÖ. Năm 1999, FPÖ giành được 26,9% số
phiếu vào
Quốc hội Áo và cùng với đảng ÖVP cầm quyền. Năm 2002, FPÖ chỉ còn được
10% số
phiếu nhưng vẫn tiếp tục cùng cầm quyền với ÖVP. E. Jelinek là một
trong những
nhân vật của công luận Áo thường xuyên chỉ trích J. Haider mạnh mẽ và
cay độc
nhất. Khi nghe tin bà được trao giải Nobel, J. Haider tuyên bố: „Nhà
văn cộng
sản thì tôi dứt khoát không gửi hoa mừng“. E. Jelinek gia nhập đảng
cộng sản Áo
năm 1974 và trả lại sổ đảng viên năm 1991.
[8]Arnold
Schwarzenegger (1947): diễn
viên Mĩ gốc Áo, nổi
tiếng nhờ những phim khoe ‚bắp thịt’, được bầu làm thống đốc bang
California
tháng 10.2003.
[9]Kịch
truyền thanh (Hörspiel) chỉ
truyền qua đài phát
thanh chứ không trình diễn trên sân khấu.
[10]Cassandra:
nhân vật nữ trong thần
thoại Hi Lạp. Vì không
đáp lại tình yêu của Apollo, nàng được vị thần này ban khả năng tiên
tri nhưng
kèm theo là điều kiện: chẳng ai tin những lời tiên tri ấy.
Nguồn:
© Frankfurter
Rundschau, 12.10.2004,
http://www.fr-aktuell.de/ressorts/kultur_und_medien/feuilleton/?cnt=524934