Lại
Nói Về Bất Hạnh
2
"Chị ơi,
chị không công bằng mí em!"
"Văn
chương, như tình yêu, làm sao công bằng, hả em?"
Nếu nói về
công
bằng, thì muôn đời, văn học miền nam, hay bất kỳ một thứ văn học nào
khác, đều
không thể so với văn học Cách Mạng, theo nghĩa, nó còn là bùa hộ mệnh,
một thứ
trừ tà, giống như gương trừ tà, bùa Lỗ Ban...
Bạn cứ thử
tưởng tượng, một anh công an vô nhà một ông nhà văn miền bắc, không
nhìn thấy
một bộ Lênin toàn tập, Bác Hồ toàn tập... nằm chễm chệ tại tủ sách, anh
ta sẽ
nghĩ như thế nào? Tên này thuộc đám Nhân Văn Giai Phẩm hả?
Tình cảnh này
đã xẩy ra cho nhà thơ Nga, Osip Mandelstam.
Trong Hy Vọng
Chống lại Hy Vọng, Hy Vọng Dù Không Còn Hy Vọng, Hope Against Hope, hồi
ký của
Nadezhda Mandelstam viết về chồng, nhà thơ Osip Mandelstam đã bị Stalin
sát
hại, [đoạn "Kệ Sách"], bà kể lại:
Cách đây hơn
phần tư thế kỷ, vào ngày kỷ niệm Lễ Lao Động, 1938, tôi trở lại Moscow
từ
Samatikha, một căn nhà nghỉ gần Murom, nơi M. [Osip Mandelstam, chồng
bà], đã
bị bắt. Hy vọng có tí đồ thăm nuôi, giúp ông sống qua những ngày chờ
đợi số
mệnh quyết định, tôi lấy vài cuốn trên kệ sách, và đem bán cho một chủ
tiệm bán
sách cũ, và dùng tiền để mua tem phiếu thực phẩm gửi cho ông. Gói đồ
thăm nuôi
đã bị gửi trả lại, với lời ghi, "bởi vì người nhận đã chết".
Tôi vẫn khăng
khăng với ý nghĩ làm sao lưu giữ một số sách vở của chúng tôi, như thể
nhờ đó
mà vẫn còn giữ mãi được ảo tưởng, rằng cuộc sống của vợ chồng chúng tôi
chẳng
có gì thay đổi, tụi khốn nạn không làm sao làm cho chúng tôi đau khổ,
trở thành
những nạn nhân của chúng.
Ngoài ra, còn
là mối quan tâm của M. đối với thập niên 1930.
Tuy đành phải
đem bán, nhưng tôi có ghi tên tất cả những cuốn sách đó, chắc là không
đầy đủ,
vì hoàn cảnh lúc bấy giờ, làm sao nhớ hết nổi. Số sách còn lại, tức
những cuốn
tiệm mua bán sách cũ lắc đầu, tôi gửi ở chỗ người anh/em của tôi, là
Evgeni,
bởi hoàn cảnh như tôi làm sao cất giữ?
Chúng tôi bắt
đầu mua sách, khi tôi có việc làm ở cơ quan in ấn For a Communist
Education. Mỗi
tháng họ cho tôi một phiếu mua sách, “voucher for the acquisition of
books”, đây
là nằm trong chính sách trồng người của nhà nước. “Chỉ những cuốn quan
trọng”,
tay sếp của tôi nhắc nhở, lần đưa phiếu mua sách đầu tiên. Ông đặc biệt
nhấn
mạnh, quan trọng nhất, là bộ sáu cuốn Lênin và tuyển tập Stalin, lúc đó
đang ra
lò. Tất cả bè bạn của chúng tôi thì đều đã có toàn bộ sách kinh điển
của chủ
nghĩa Mác xít - Lên nin nít, làm sao không? Chúng nằm thành hàng, một
cách uy
nghi, trên kệ sách, và là “khuôn mẫu trí thức” của bất cứ một căn hộ
nào. Những
ông thầy bà thầy của chế độ thì rất minh bạch về chuyện này, khi dậy dỗ
những
thế hệ tiếp nối. Stalin thực sự tin rằng nếu tất cả những nhà trí thức
“cầy nát
bấy” tất cả những tác phẩm đó [properly read: đọc tới nơi tới chốn],
lập tức,
họ thấm nhập, và hoàn toàn “được” thuyết phục, bởi tính lô gíc không
thể nào
bắt bẻ được ở trong đó, và từ bỏ ba thứ tư tưởng hão huyền mang tính lý
tưởng
của họ. Văn học cách mạng Mác xít là phải được đòi hỏi ở mức độ đỉnh
cao như
thế.
Cái anh nhóc
mật
vụ mặt búng ra sữa, trong lần khám xét căn hộ của chúng tôi, và sau đó,
bắt giữ
M., đã hết sức sửng sốt, khi không nhìn thấy văn học Mác xít ở trên kệ
sách của
chúng tôi. Anh ta lõ mắt ra, và hỏi:
“Như vậy là
các
người bầy những cuốn sách kinh điển Mác Xít ở đâu?”
M. ghé tai tôi
nói nhỏ:
“Đây là lần
đầu
tiên chú nhỏ mầm non cách mạng này đi bắt người, mà không nhìn thấy bùa
trừ tà
ở trong nhà nạn nhân.”
[This is the
first time he’s arrested anybody who doesn’t have Marx”: Lần đầu tiên
anh ta
bắt một kẻ không có Marx].
Nói chung,
chúng tôi không có những cuốn bùa trừ tà, tức những cuốn sách kinh điển
của văn
học Mác xít, mặc dù đây là chuyện cần thiết, phải nói là bắt buộc, đúng
như bạn
bè thường khuyên bảo, và thúc giục. Không chỉ sách Mác xít. Một ông bạn
thân đã
khuyên M. mua bộ từ điển tiếng Tây, Larousse, vì theo ông, nó rất cần
cho việc
dịch thuật. Đó là giữa thập niên 1920. khi M. không còn cách nào khác,
đành trông
vào việc dịch sách để nuôi thân. Bộ Larousse đó vẫn chưa được cởi bỏ
những sợi
dây buộc, cho tới khi được chuyển giao cho người bán sách cũ, khi M.
thất bại
trong cái nghề kiếm cơm bằng dịch sách.
Không chỉ dửng
dưng với những bộ sách kinh điển của chủ nghĩa Mác, M. còn dửng dưng cả
với
chuyện sưu tầm sách. Ông chẳng bao giờ mò tìm sách quí, sách hiếm, và
chẳng bao
giờ mê có đủ nguyên bộ, một tác giả nào đó. Tất cả những cuốn sách mà
ông cần,
chúng đều liên quan tới một liên hệ bạn bè, hay tình cảm rất đỗi tư
riêng, của
riêng ông. Ngoài ra, còn những cuốn, tuy có giá trị tình cảm nhưng
không vì thế
mà cứ khư khư ôm giữ chúng. Thí dụ như một lần ông để Katayev lấy đi
cuốn My
Sister Life của Pasternak, chỉ ít lâu sau khi cuốn này được xuất bản.
“Cái tôi
cần thì đã nhớ. Anh ta cần hơn tôi”. M giải thích.
M. ít khi tỏ
ra
thích thú, về cái chuyện tìm tòi sách cũ sách hiếm của tôi. Một lần,
tôi kiếm
được cuốn Cor Arden của Ivanov, trong đống sách cũ. Chúng tôi đã từng
có nó,
nhưng đã làm mất, hoặc đã cho ai. M. hoàn toàn dửng dưng, “Tại sao lại
làm lại
một chuyện đã từng làm, Why the same thing again?”. Đó là một điều đã
thuộc về
quá khứ, và M không muốn, chẳng bao giờ muốn trở lại, có lẽ phải nói,
lập lại.
Nhưng có lúc, ông tỏ ra rất hài lòng, thí dụ như với bộ sách của
Burger. “Em
luôn biết làm hài lòng anh, luôn biết điều anh cần!” Nhưng điều này
không đúng,
ngoại trừ với bộ sách của Burger. Nghĩa là, ông dửng dưng với vô số
điều mà tôi tặng ông.
[… ]
Trong số những
tác phẩm chúng tôi có hồi thập niên 1930, không có những nhà thơ của
thế kỷ 20
ngoại trừ Annenski, hai tay Acmeists, Gumilev và Akhmatova, cộng thêm
ba thứ
lính tinh. M để ý tới thơ ca thế kỷ 20 vào năm 1922, khi có hai tay còn
trẻ
tính thử vận may của họ bằng nghề xb tư, họ tới gặp ông, đề nghị làm
một tuyển
tập thơ Nga, từ đám thi sĩ Biểu Tượng “cho tới bi giờ”…. Cuối cùng
tuyển tập
thơ bị kiểm duyệt ngăn chặn không cho xb, vì không chịu đưa vào trong
đó những
nhà thơ “vô sản", những nhà thơ đã được nhà nước bảo trợ [sponsored by
the
State]. Tên tuổi của mấy ông này bây giờ hoàn toàn đi vào quên lãng, và
tôi
không thể nào nhớ nổi, những ông nào đã được kiểm duyệt khuyến cáo phải
đưa vô
tuyển tập. Tay kiểm duyệt còn khuyến cáo, cần phải đưa ra khỏi tuyển
tập rất
nhiều nhà thơ lớn, mà anh ta kết án là “trưởng giả và xa lạ, ngoại lai,
nhìn từ quan điểm giai cấp”.
“Cái đó nghĩa
là gì?” Đó là câu M. hay hỏi, khi đụng một câu thơ làm ông bực mình.
Thí dụ như
lần ông đụng câu thơ nổi tiếng của Mayakovski: “Thần thánh của chúng ta
là vận
tốc; của trái tim, cái trống”. Bản thân tôi, rất mê sự réo rắt của câu
thơ, vì
M. mà tôi đâm ra tư lự, và tìm hiểu ý nghĩa của nó.
Đại thể, M.
nghĩ tốt về Mayakovski, và có lần ông nói về hai người đã quen nhau
trong trường
hợp nào, và lý do nào lại rã ra: chỉ là vì, “ích chi đâu”, những nhà
thơ của
những trường phái đối nghịch kề vai bá cổ nhau?
3
[còn
tiếp]
NQT
tanvien.net