TẠP GHI
|
Niềm bí ẩn
đáng
sợ
Nhà văn Pháp,
André Gide, kể lại, một lần một người thân nằm nhà
thương; ông ghé thăm, và nhận thấy, người bệnh, người thăm bệnh, kể
luôn ông, người nào cũng cầm trong tay một cuốn truyện của Georges
Simenon!
Simenon, người
Bỉ, viết văn bằng tiếng Pháp, sinh tại Liège năm 1903.
Ngay từ trẻ, ông đã quyết định: sẽ viết văn. Mười sáu tuổi, làm ký giả
cho tờ La Gazette de Liège. Thoạt đầu, lo tin vặt, sau tới chuyện trong
nhà ngoài ngõ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay, ký tên Georges Sim, ra đời năm
1921: "Trên cầu Arches, một câu chuyện nhỏ về Liège". Dời đi Paris vào
năm 1922 cùng
với bà vợ đầu là một nữ họa sĩ, ông bắt đầu thực sự vào nghề bằng cách
viết
chuyện kể (contes), tiểu thuyết đăng nhiều kỳ (romans-feuilletons), đủ
thể
loại: trinh thám, huê tình (érotique), ướt át… Từ 1923 tới 1933, ông
cho
ra lò gần hai trăm tiểu thuyết, hàng ngàn chuyện kể, và rất nhiều bài
báo.
Trong một cuộc
phỏng vấn, ông cho biết, người "khám phá" ra ông, là nữ
văn sĩ người Pháp, Colette. Bà khi đó làm cho một tờ báo, nơi Simenon
dụt dè thử thời vận của mình.
"Ham làm văn
quá" (nhiều ý hướng văn chương, intentions littéraires),
Colette phán. Chỉ một câu đó, Simenon ngộ ra liền. Từ đó, ông xây dựng
thế giới của mình, bằng những nhân vật bình thường, những ngôn từ bình
thường. Những câu chuyện của ông, cũng bình thường, và có thể xẩy tới,
cho bất kỳ một con người bình thường nào trên đời.
Độc giả người
Việt chúng ta có thể mượn truyện ngắn Sợi Tóc của Thạch
Lam, để làm một nhịp cầu đi vào thế giới văn chương của Simenon. Đây là
câu
chuyện một anh chàng nghèo ơi là nghèo, được bạn bè đãi một chầu, khi
ra
về, vô tình mặc lộn áo khoác, trong có bóp tiền dầy cộm. Khoảnh khắc
‘sợi tóc’ bắt đầu: nên hay là không nên ‘cứ thế tà tà ra về, chơi luôn
cái bóp’? Những nhân vật của Simenon đa số đều là những con người bình
thường, một ngày
đẹp trời nào đó, bỗng đụng chuyện bất thường; thí dụ như trong "Người
nhìn
xe lửa chạy qua" (L’homme qui regardait passer le train, 1938), một
nhân
viên suốt đời làm lụng cực khổ, với hy vọng về hưu có tí tiền còm, đùng
một
cái, tay chủ tuyên bố vỡ nợ, quơ hết tiền bạc, trốn lên Paris với bồ.
Đúng
lúc trốn đi, chủ tớ đụng độ, anh đầy tớ quá thất vọng vì giấc mộng an
hưởng
tuổi già tan tành, đã quá tay đẩy ông chủ xuống sông, chỉ kịp cứu được
(chỉ
kịp níu lại được) chiếc cạc táp. Trong là tiền. Vô số là tiền. Thêm địa
chỉ
cô bồ.
Anh lần tới,
lạc vào một thế giới khác. Thiên Thai, hay Thiên Đàng là
như thế này ư? Được cung phụng hết mình, đêm nào cũng Nhất Dạ Đế Vương,
nhưng làm sao quên được trần gian cực khổ?
Trần gian khổ
cực, có điều gì không thể quên? Hóa ra là, anh có thói
quen không thể bỏ: cứ 5 giờ sáng thức giấc, mò ra đầu ngõ, nhìn đoàn xe
lửa phóng qua.
Câu chuyện
chấm dứt khi cảnh sát mò tới, anh nhân viên bỏ Thiên
Đường/Địa Ngục, cứ hướng Địa Ngục/Thiên Đường mà chạy. Cảnh sát chỉ kịp
chứng kiến cảnh tượng anh gối đầu lên đường ray, trong khi chuyến xe
tốc hành buổi
sáng đang lao tới…
George
Steiner, trong một bài phỏng vấn trên tờ Điểm sách Paris, đã coi
Simenon là tiểu thuyết gia dị thường nhất của thời đại chúng ta. Ông
phân biệt: "Có những cuốn tiểu thuyết mà người ta gọi là lớn, chúng
sống do nội dung mang tính ý thức hệ, mang tính trí thức. Khá nhiều
tiểu thuyết của Thomas Mann là theo kiểu này. Cuốn Người Không Phẩm
Chất (Man Without Qualities), của Musil, được hằng hà những triết gia
cũng như là những nhà phê bình văn học bàn về nó. Nhưng cái này hiếm.
Đừng đòi một chuyện như thế, ở nhà tạo giả tưởng dị thường nhất của
thời đại chúng ta - đừng cười tôi chứ, bạn! - người đó là Georges
Simenon. Tôi có thể lấy trên giá sách của tôi, chừng 10 hay 12 cuốn về
Maigret, và nếu phải so với 5 hay 10 trang của Balzac, hay
20 trang của Dickens (ông này nhẩn nha thuộc bậc thầy, Balzac cũng
vậy): Simenon
chỉ cần hai hoặc ba đoạn. Có một cuốn Maigret mở ra với một tiếng ồn
lớn.
Ba giờ sáng tại khu Pigalle, khu phố cổ đèn đỏ Paris, tay chủ quán rượu
kéo
tấm sắt đóng cửa tiệm. Rầm một tiếng. Dội ra từ đó, là tiếng xe giao
sữa,
tiếng chân kẻ ăn sương trở về nhà kiếm giấc ngủ, tiếng người đi vô Khu
Cầu
Muối (Les Halles) kiếm đồ ăn sẵn, cho một ngày đang ló dạng. Simenon
không
chỉ đem đến cho bạn một thành phố, không chỉ một điều không một sử gia
nào
có thể vượt được, về nước Pháp, nhưng còn điều này: rằng hai hoặc ba
con
người liên quan tới câu chuyện, đã sẵn sàng trước mắt bạn. Bằng một
cách
nào đó, Simenon cho bạn nhận ra rằng những bước chân của người đàn ông
vừa
đóng sập tấm cửa, rồi những tiếng chân rời xa quán, cách chúng lết đi
gợi
sự tò mòø. Và thế là bạn nhập vô mấu chốt quan trọng thứ nhất của câu
chuyện.
Đó là cái gọi là mysterium tremendum (điều rất thiêng), về sáng tạo ra
một
nhân vật tự chủ."
Mysterium
tremendum, Jacques Derrida trong bài viết về Kierkegaard, đã
dịch là: bí ẩn đáng sợ, bí mật làm bạn run rẩy (a frightful mystery, a
secret to make you tremble). Cũng trong bài viết, ông giải thích thêm:
(God
is the cause of) Thượng Đế là nguyên nhân của "the mysterium
tremendum".
Theo nghĩa đó,
nhà văn là kẻ muốn ngang hàng với ông Trời.
Nhân vật "thần
kỳ" Maigret, viên thanh tra cảnh sát với chiếc ống vố,
được "người viết giả tưởng dị thường nhất của thế kỷ" sáng tạo ra vào
năm 1929, trong cuốn "Pietr le Letton". Được nhà xuất bản Fayard tung
ra vào năm 1931, ông cò Maigret lập tức trở thành nổi tiếng, và càng
nổi tiếng hơn
nữa, khi được đưa lên màn ảnh qua tài tử Jean Gabin.
Như trên đã
nói, Simenon sử dụng một thứ tiếng Pháp phổ thông, không
dùng những chữ cầu kỳ, không "cố tình viết văn", nhờ vậy mà mà Jennifer
tôi được hân hạnh làm quen với ông rất sớm, từ những ngày mới chập
chững
đọc văn ngoại: như một cách học tiếng Tây!
Mai Thảo cũng
là một người rất mê Simenon. Một lần ngồi quán Cái Chùa,
La Pagode, tại đường Tự Do, Sài Gòn (trước 1975), ông kể một giai thoại
về Simenon, theo đó, tác giả đã từng tự giam mình vào trong một nhà
kiếng,
chung quanh thiên hạ qua lại, nhòm ngó, và cứ thế tỉnh bơ ngồi viết.
Khi
ra khỏi "chuồng giam", là đã có, không phải một, mà hai cuốn tiểu
thuyết!
Theo Mai Thảo, đây là do ông nhận lời thách đố của một tờ báo.
Cuốn Maigret
sau cùng, Maigret et Monsieur Charles, xuất hiện năm 1972,
sau đó Simenon nghỉ viết. Với chiếc máy ghi âm, ông đọc hai chục bài
"Dictées", và sau khi cô con gái Marie-Jo tự tử, ông ghi lại mớ hồi ký
khổng lồ về
đời mình, Mémoires intimes (1981).
Simenon mất
tại Lausanne vào năm 1989. Cả đời, ông cố gắng hiểu, thông
cảm nỗi đau của nhân sinh, của cõi người, và cố gắng làm cho nó đỡ đau.
Nhưng ông không làm sao hiểu nổi nỗi đau của cô con gái: cô đã lầm tình
yêu của người cha, với tình yêu của một người bạn trai.
Niềm bí ẩn
đáng sợ!
|
|