TẠP GHI
|
Những
đứa con của tiểu thuyết
Ngay từ
cuốn truyện đầu, độc
giả đã hỏi Mario Vargas Llosa, (người Peru 1937-), chuyện
"thực" hả? Ông chẳng thích thú việc trả lời. Theo ông, đa số độc giả,
thường đánh giá thực/giả, bằng ý niệm tốt/xấu. Những "thẩm tra viên"
(inquisitors) người Tây Ban Nha đã cấm in và nhập cảng tiểu thuyết, tại
thuộc
địa của họ, với lập luận, chỉ là những chuyện phi lý, vô nghĩa, rất có
hại cho
sức khoẻ tinh thần của thổ dân da đỏ. Trong vòng 300 năm, dân Mỹ châu
thuộc Tây
Ban Nha phải đọc tiểu thuyết chui, và cuốn tiểu thuyết đầu tiên được
xuất bản
tại đây là sau Độc lập (tại Mexico, vào năm 1816). Không chỉ một vài
tác phẩm đặc
biệt bị cấm, mà là cả một thể loại văn chương. Những "inquisistors"
đã coi đây là một luật, không có ngoại lệ, rằng tiểu thuyết luôn luôn
nói dối,
chúng luôn luôn đưa ra một viễn ảnh giả về thế giới. Nhiều năm trước
đây,
Vargas Llosa đã có lần chỉ trích họ, nhưng sau ông nghĩ, họ có lẽ là
những
người đầu tiên hiểu - trước những nhà phê bình, và những tiểu thuyết
gia - về
bản chất của giả tưởng, và những ý hướng nổi loạn của nó. Tiểu thuyết
nói dối -
chúng không thể làm khác - nhưng đây chỉ là một phần của câu chuyện.
Phần kia
là, bằng nói dối, chúng diễn tả một sự thực kỳ cục, chỉ có thể hàm ý
qua dáng
vẻ mập mờ, như được hóa trang thành một điều chi không phải là nó. Con
người
vốn không bao giờ hài lòng về mình, cho dù giầu có hay nghèo hèn, nổi
tiếng hay
vô danh... Họ vẫn mong một cuộc đời khác, khác với cuộc đời họ đang
sống. Tiểu
thuyết ra đời là để thỏa mãn cơn đói khát đó. Chúng được viết ra và
được đọc,
để cho con người có thể có những cuộc sống "giả". Đọc, như vậy là tạm
ngưng sống, là treo lửng thời gian. Là đi từ đời sống vào trong những
cuốn
sách. Bên trong một cuốn tiểu thuyết luôn âm ỉ một cuộc nổi loạn, và
một ham
muốn. Người ta không viết tiểu thuyết để kể lại cuộc đời, nhưng đúng ra
là để
biến đổi nó, bằng cách thêm vô điều này, điều nọ. Theo nghĩa đó, tất cả
tiểu
thuyết đều "làm lại" (remake) thực tại. Ngay cả khi bạn muốn trung
thành với thực tại, hiện thực 100%, bạn cũng bất lực. Sartre nói chỉ có
siêu
nhân mới sao chép nổi đời sống. Ông thêm vô: muốn biến câu chuyện thành
một cuộc
phiêu lưu, cứ kể nó ra. Theo nghĩa đó, một câu chuyện là để được viết
ra, chứ
không phải để sống. Những sự kiện thực phải qua một lần hóa thân, để
thành chữ.
Dưới ánh lửa của ngôn ngữ, chúng bị biến thái, thay đổi bản chất.
Ngoài
ra, còn một vấn đề cơ
bản khác nữa, đó là thời gian. Đời thực cứ thế trôi, và không ngừng. Nó
không
thể "đo lường được": một khối hỗn mang, trong đó mỗi chuyện chằng
chéo với bao chuyện khác, như thể nó chẳng hề bắt đầu, chẳng hề chấm
dứt. Trong
đời giả (fictional life) sự hỗn độn, vô trật tự trở nên có trật tự, có
đầu có
đuôi, có nguyên nhân, hậu quả. Tính tối thượng của tiểu thuyết không
chỉ do
những từ ngữ mà nó được viết nên, mà còn do hệ thống thời gian mà nó
được cấu
thành. Nếu có một khoảng cách giữa từ ngữ và sự kiện thực, cũng lại có
một vực
thẳm, giữa thời gian thực và thời gian giả tưởng. Lưu Nguyễn nhẩy qua
vực thẳm,
tới Thiên Thai, khi nhẩy lui, không lọt vào đúng thời gian của chuyện
thường
ngày: Thời gian giả tưởng luôn chấm dứt bằng một hành động nhẩy lui "na
ná" như vậy. G. Lukács gọi đây là sự chuyển hoá, là đời sống mất đi tìm
thấy lại. Đời giả đề nghị một cuộc sống mà đời thực từ chối con người.
Theo
nghĩa đó giả tưởng phản bội cuộc đời, để làm cho nó đáng sống, đáng quí
hơn:
Đây cũng là một sự thực, của những lời dối trá.
Nhưng
đâu là sự khác biệt,
giữa giả tưởng và một bài báo, một cuốn sách lịch sử? Chúng cũng được
tạo nên
bởi những từ ngữ vậy. Thời gian ở trong những bài báo, cuốn sách đó
cũng đâu
thực?
Theo
Vargas Llosa, chúng là
hai hệ thống đối nghịch nhau, tuy cùng một toan tính "tiếp cận" thực
tại. Tiểu thuyết nổi loạn, lấn lướt cuộc đời, những thể loại kia chỉ là
nô lệ
cuộc sống. Ý niệm về thực/dối hoạt động theo hai đường khác nhau, trong
mỗi
trường hợp. Với báo chí, hay lịch sử, sự thực tùy thuộc vào sự so sánh
giữa
điều viết ra và thực tại gây hứng viết. Cả hai càng gần gụi nhau chừng
nào, sự
thực càng nhiều chừng đó. Khen cuốn Lịch sử Cách Mạng Pháp là có tính
tiểu
thuyết là muốn nói nó thiếu sự nghiêm trọng, thiếu chính xác. Mặt khác,
nhặt ra
những lầm lẫn lịch sử trong miêu tả những trận đánh của Nã Phá Luân,
trong
Chiến tranh và Hòa Bình, thực ra chỉ tốn thời giờ: Sự thực tiểu thuyết
không
tuỳ thuộc vào đó. Nó tuỳ thuộc vào khả năng dẫn dụ, thuyết phục. Vào
sức mạnh
truyền cảm, vào mức độ, tài năng "ảo hóa", của người viết. Mọi cuốn
tiểu thuyết hay đều nói sự thực; mọi cuốn dở đều nói dối. Bởi vì "nói
sự
thực" đối với một cuốn tiểu thuyết có nghĩa là làm cho người đọc sống
một
ảo tưởng, và "nói dối" có nghĩa là bất lực, không hoàn thành được trò
chơi này. Tiểu thuyết là một dạng văn chương vô đạo đức, bởi vì nó có
những đạo
hạnh của riêng nó. Những sự dối trá trong tiểu thuyết là để bù trừ sự
thiếu hụt
của cuộc đời. Bởi vậy, tiểu thuyết hết chức năng, khi đời đầy đủ, tuyệt
đối.
Những nền văn hoá tôn giáo thường chỉ sản xuất thi ca, và kịch, họa
hoằn tiểu
thuyết lớn. Giả tưởng là một nghệ thuật của những xã hội, khi niềm tin
đang
trải qua một cơn khủng hoảng, người ta cần thấy phải tin vào một điều
gì đó.
Thành thử ngoài vô đạo đức ra, còn điều bi quan yếm thế. Khi cuộc sống
muốn
bung ra khỏi quy luật, trở thành hỗn mang, đây là thời điểm "dành
riêng" cho giả tưởng. Giả tưởng: nơi ẩn trốn an toàn, nơi con người tha
hồ
bầy ra những thèm khát, những sợ hãi, do cuộc đời gây nên, nhưng nó lại
không
thể thỏa mãn, hoặc khu trục. Những người inquisistors, những chế độ
kiểm duyệt
biết rõ mối nguy hiểm này, bởi vì muốn thóat ra khỏi trói buộc, của bản
thân,
của cuộc sống, cho dù bằng một đường lối ảo vọng như thế nào, vẫn là
muốn bớt
đi thân phận nô lệ, muốn kinh nghiệm những hiểm nguy vì tự do.
Kundera
coi tiểu thuyết là
sản phẩm của Âu châu. Và nó là một cuộc hôn nhân giữa sự không-nghiêm
trọng và
chuyện chết người. Chúng ta sẽ cùng với ông chứng kiến một cảnh trong
"Cuốn Sách Thứ Tư" của Rabelais. Giữa biển cả, chiếc thuyền của
Pantagruel gặp một con tầu chở cừu của mấy người lái buôn. Một người
trong bọn
thấy Panurge mặc quần không túi, cặp kiếng gắn lên nón, đã lên tiếng
chế riễu,
gọi là anh chàng mọc sừng. Panurge lập tức trả miếng: anh mua một con
cừu, rồi
ném nó xuống biển. Vốn có thói quen làm theo con đầu đàn, những con kia
cứ thế
nhào xuống nước. Bọn lái buôn hoảng hốt, cố níu lại, và bị kéo theo, vì
quá
tiếc của. Panurge cầm cây chèo xua ra xa mỗi lần họ cố bám vào thuyền,
trong
khi rao giảng về những sự khổ đau của cõi này, so với hạnh phúc đời đời
ở nơi
họ sắp tới. Câu chuyện không thực, vô lý, không thể xẩy ra; nhưng liệu
có một
bài học đạo đức từ đó? Phải chăng Rabelais muốn tố cáo sự thô lỗ, tính
bủn xỉn,
keo kiệt của những người lái buôn, và cách trừng phạt họ, của anh, làm
chúng ta
hài lòng? Hay là ông muốn chúng ta phải phẫn nộ, vì sự độc ác của
Panurge? Hay
là tác giả muốn "phỉ báng" tôn giáo? Chúng ta tha hồ đoán, nhưng mỗi
câu hỏi là một cái bẫy.
Octavio
Paz nói: "Không
có diễu cợt, trong Homer hay Virgil; Arosto có vẻ như đã thấp thoáng
nhận ra,
nhưng phải tới Cervantes nó mới định hình... Diễu cợt là phát kiến lớn
lao nhất
của tinh thần hiện đại". Cần phải nhấn mạnh, đây là ý tưởng cơ bản:
Diễu
cợt không phải là một lề thói cư xử (practice), của cổ nhân. Rằng diễu
cợt
(humor) không phải là tiếng cười (laughter), sự nhạo báng (mockery),
châm biếm
(satire), nhưng là một thể loại đặc biệt của "tếu" (comic); Paz nói,
"tếu" đụng tới đâu là làm cho mọi chuyện trở nên hàm hồ tới đó. Những
người chẳng cảm thấy "tếu", về cảnh tượng Panurge rao giảng cõi sau
hạnh phúc, trong khi dìm những người lái buôn xuống biển, họ sẽ chẳng
hiểu một
tí gì về nghệ thuật tiểu thuyết.
Đọc là
tạm ngưng sống; tiểu
thuyết: cõi treo lửng mọi phán đoán. Bằng cách treo lửng mọi phán đoán,
đạo đức
tiểu thuyết xuất hiện. Một đạo đức chống thói quen không thể nào bỏ
được của
con người, đó là phán đoán ngay lập tức, không ngừng nghỉ; nó chống mọi
người,
về thói phán đoán trước khi, hoặc chẳng cần, tìm hiểu. Bài học khôn
ngoan của
nó: hăm hở, sẵn sàng phán đoán là điều ngu đần đáng ghét nhất, là cái
tối độc,
tối ác.
Không
phải tiểu thuyết gia
chối từ phán đoán đạo đức, ông ta chỉ từ chối ban cho nó, một "chỗ
ngồi" trong tiểu thuyết. Nếu thích bạn có thể buộc tội Panurge là tàn
nhẫn, vô đạo đức, hèn nhát (khi tầu gặp bão), buộc tội bà Bovary... đó
là việc
của bạn. Tiểu thuyết gia không "mắc mớ" gì tới việc đó: "Việc
rút ra một bài học đạo đức, từ một cuốn tiểu thuyết, không thuộc về
tiểu thuyết
gia" (Albérès).
Tạo ra
một "miếng
đất", nơi phán đoán đạo đức bị treo lửng, là một "bước ngoặt lịch
sử": chỉ ở trong cõi đó, những nhân vật tiểu thuyết tha hồ vẫy vùng:
những
cá nhân không bị trói buộc, không bị coi như có chức năng rao truyền sự
thực có
sẵn; những thí dụ của tốt xấu, hay những biểu hiện của những luật lệ
khách quan
đang đụng độ, tranh giành ảnh hưởng. Đây chỉ là những con người gắn bó
với cuộc
đời bằng đạo đức riêng, luật lệ riêng. Xã hội Tây phương thường tự giới
thiệu
nó, như là một xã hội của nhân quyền, nhưng trước khi con người có
quyền, nó
phải tạo dựng chính nó, như là một cá nhân; nó phải tự coi nó, và được
coi như
là một cá nhân. Điều này chẳng thể xẩy ra nếu thiếu kinh nghiệm dài của
nghệ
thuật Âu châu, và đặc biệt là nghệ thuật tiểu thuyết; nó dậy người đọc
trở nên
tò mò về những người khác, và hãy cố gắng cảm thông, "chấp nhận"
những sự thực của người, nếu khác biệt với của mình. Theo nghĩa này E.
M.
Cioran đã tỏ ra rất xác đáng, khi gọi xã hội Âu châu là "xã hội của
tiểu
thuyết". Ông nói tới những người Âu châu, như là "những đứa con của
tiểu thuyết".
"Thưa
Bà, cháu bé bị xe
hơi cán bẹp dí!". "Tôi đang ở trong phòng tắm, làm ơn tuồn nó vào,
theo khe cửa cho tôi!".
Kundera
tự hỏi, liệu chúng ta
có thể nói về sự tàn ác, trong chuyện tiếu lâm tác giả nghe từ thời thơ
ấu?
Nabokov
đã đưa ra một nhận
định tiêu cực, đầy tính gây hấn về Don Quixote của Cervantes: quá lố,
ngây ngô,
lập đi lập lại, đầy những sự độc ác không thể chịu nổi, không thể tin
được;
rằng sự độc ác ghê tởm đã làm cho nó trở thành một cuốn sách cay đắng,
chua chát,
dã man nhất, cho tới nay đã được viết ra." Thật tội nghiệp Sancho, anh
mất
tất cả những cái răng, ít nhất cũng năm lần, trên con đường "hành
hiệp". Nabokov có lý: Sancho mất quá nhiều răng. Nhưng chúng ta không ở
trong thế giới của Zola, khi mà một hành động độc ác nào đó, được miêu
tả thật
tỉ mỉ, trở thành một "tài liệu" chính xác của thực tại xã hội. Với
Cervantes, chúng ta ở trong một thế giới huyền ảo của những người kể
chuyện,
những kẻ bịa đặt ra thế giới, thay vì sao chép nó. Tác phẩm của
Cervantes sống
mãi với tinh thần không-nghiêm trọng. Nó bị chèn ép, trở nên không thể
hiểu
được, như Nabokov quan niệm, khi đụng phải tinh thần Zola, hoặc mỹ học
Lãng
mạn, vốn đòi hỏi sự xác tín.
NQT
|