Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
TẠP GHI
|
Tưởng niệm một bạn văn
... que cette chose atroce: le
temps, se développe en moi comme un cancer, irrévocablement.
(... điều ghê rợn đó: thời gian, như cục bướu ở trong
tôi, dứt khoát là vậy.)
(André Malraux, La Voie Royale, Con Đường Vương Giả)
Subject: Thư hồi âm của Duật
Date: Wed, 15 Sept 1999 22:49:46 - 0800
From:
To:
Tôi đã đọc thư E-mail của anh... gửi cho NDD qua điện thoại. Ảnh mừng
lắm, nên vừa nghe xong, ảnh nhờ tôi ghi những lời ứng khẩu sau đây, bày
tỏ tâm tư của anh và chuyển giùm đến các bạn:
Thân gửi các bạn...
Ngày 1-9 năm nay, cách đây 14 ngày, mình lên bàn mổ và
đã mất đi toàn bộ lá phổi bên phải vài cái bướu ung thư không dung thứ
cho lá phổi bên phải một chút nào hết. Thôi thì với 35 năm dạy học, kết
quả như
thế này cũng đủ rồi. Với lá phổi trái còn lại, vào cuối tháng chín này,
mình
sẽ trở lại Trung Tâm Ung Bướu để người ta rà xét lại và giúp mình truy
quét
tàn quân địch tức là các tế bào ung thư còn sót lại nếu có, để bảo vệ
lá
phổi bên trái đến mãn đời mình.
... Khao khát chính của cuộc đời mình là viết được những điều tâm đắc,
những điều hồi trẻ mình cùng các bạn.... từng ấp ủ, và đã từng viết
được chút này chút nọ, rải rác trên báo này báo kia và chưa đâu vào đâu
cả. Điều nhức nhối là mình phải làm sao thực hiện được những tác phẩm
có tầm vóc xứng
đáng với mấy chục năm sống, cảm, nghĩ, đọc và tiếp xúc với những người
và
những tác phẩm đã qua. Điều mình tha thiết nhất là viết về những hình
thái
đặc sắc nhất của văn chương và nghệ thuật, viết về những biểu hiện sâu
sắc
nhất của nghệ thuật nói chung tức là viết về mỹ học, nhất là mỹ học về
văn
chương đồng thời những vấn đề lớn của triết học, những vấn đề không
ngừng làm thao thức những tâm hồn sâu sắc nhất của mọi thế kỷ, những
vấn đề mà mình
quan tâm nhất như ý nghĩa của con người, của cuộc đời, của tình yêu,
của
cái chết trong cõi nhân sinh này và trong vũ trụ bao la. Tất cả những
điều
đó rốt cuộc còn tồn đọng lại trong ta ý nghĩa gì, giá trị gì? Quãng đời
còn
lại của mình sẽ dành cho việc viết về những vấn đề cơ bản nhất của văn
học
nghệ thuật và của triết học như ngày xưa mình cùng các bạn đều đam mê
đeo
đuổi suy tư và rung cảm với chúng. Mình hứa sẽ không lãng phí quãng đời
còn
lại của mình trong im lặng đâu...
Nhớ các bạn lắm và nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa. Chúng như đang
hiển hiện trước mắt mình... Xin các bạn ghi nhận nơi đây sự tỉnh táo
của
mình qua từng câu từng chữ. Mình không mê sảng chút nào đâu, các bạn ạ.
Nguyễn Nhật Duật
Người chủ địa chỉ e-mail viết thêm: Đây là những lời xuất khẩu qua
điện thoại với anh bạn đồng nghiệp, của một người bạn đang bị bệnh
nhưng
chỉ có bệnh về thân xác chứ tâm hồn thì vẫn đủ khang kiện và nghị lực
để
tiếp tục vươn lên với đời.
Nhưng sau cùng, anh e-mail:
Subject: Về lễ an táng của Duật
Date: Thu, 17 Feb 2000 15:25 +0700
From:
To:
Anh... và tôi đã đi phúng điếu anh Duật lúc 10 giờ sáng nay 17-2-2000.
Chị Duật nhờ tôi báo tin cho các bạn bên Hoa Kỳ rõ. Chị dặn tôi nhờ anh
H. nhắn tin này cho anh Viên Linh biết.
Nhìn bản cáo phó dán trên tường, tôi ghi lại vài hàng:
Nguyễn Nhật Duật 1940, quán Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, từ trần lúc 6 giờ
ngày 16-2-2000, thọ 61 tuổi.
Động quan lúc 6g sáng ngày 19-2-2000; an táng tại nghĩa trang chùa Giác
Nguyên, huyện Hóc Môn.
Duật có 8 người con (7 gái, 1 trai)... Gia đình còn chờ người con gái
thứ hai ở bên Đức về VN tối mai, 18-2, để cháu được nhìn thấy mặt bố
lần
cuối cùng. Vì vậy thi thể anh Duật được chích thuốc, nên mặt nhìn vẫn
tươi
tắn, và trông mập ra.
Trong số bè bạn cùng thời hồi đó, Duật tách biệt hẳn, với dáng điệu
chững chạc, mô phạm, không bao giờ ăn nói tục tĩu, không bao giờ đề cập
tới chuyện gái gẩm, chuyện ghé thăm Ngã Năm, Ngã Ba... nhưng suy nghĩ
cho cùng, chính tôi mới là một kẻ lén lút xâm nhập, vị khách bất đắc dĩ
của "bàn tiệc văn học": Nguyễn Nhật Duật, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Xuân
Hoàng... đều học triết, và sau ra làm giáo sư. Chỉ có tôi là dân toán,
dân kỹ thuật, "nhẩy dù" qua văn chương, triết học! (Có lẽ cũng chính vì
vậy, cho nên trong Văn Học Tổng Quan, phần tiểu sử tác giả, Võ Phiến đã
ghi tôi làm nghề dậy học.)
Tôi quen anh qua Huỳnh Phan Anh. Trong bữa gặp mặt lần đầu đó, Duật là
người nói nhiều hơn cả. Tôi kính cẩn ngồi nghe. Khi ra về, Huỳnh Phan
Anh lắc đầu: không thể tưởng tượng được, chỉ một thời gian không gặp mà
nó khác hẳn xưa. Mình phải bớt đi chơi banh bàn, ngã năm ngã ba, đóng
cửa diện bích mới được! Chừng hơn tháng sau gặp lại, anh khoe, đã tụng
xong bộ Hữu Thể và Hư Vô, của Sartre, (đâu chừng dăm, bẩy trăm trang!).
Phải ăn mừng mới được!
Thằng bạn chẳng cần phải hỏi, cũng biết sẽ ăn mừng chiến thắng ở đâu!
Khi cả đám nhẩy lên Đà Lạt học Sư Phạm, tôi đã ra trường đi làm công
chức Bưu Điện. Rồi Huỳnh Phan Anh làm đặc san văn nghệ cho trường, lấy
tên là Chiều Hướng Mới. Lần gặp lại mới đây, tại Paris, anh nhắc tôi
mới nhớ tên số báo đó. Anh tự hào cho biết thêm: sinh viên làm báo đặc
san, mượn tiền của mấy linh mục giáo sư, vậy mà bán có lời! Bài tiểu
luận đầu tay của anh, là trên Chiều Hướng Mới: Văn Chương và Kinh
Nghiệm Hư Vô. Truyện ngắn đầu tay của tôi: Những Con Dã Tràng. Đây cũng
là nơi đăng truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Nhật Duật: Huyền. Kỷ niệm
tức cười về Huyền, tôi đã viết lại, trong
bài Một Chuyến Đi. Tác giả truyện ngắn đã không hề thay tên riêng Huyền
bằng
bất kể một từ khác, và nhà in đành phải nhờ Huỳnh Phan Anh, nhân dịp về
thăm
gia đình ở Sài Gòn, mang lên đủ những con chữ cần thiết. Sau này đọc
Kundera,
khi viết về Kafka, ông đã phân tích "tai họa" mà những nhà dịch thuật
Kafka
qua tiếng Pháp, đã tự ý thay đổi chữ cái K (trong Joseph K) bằng những
nhân
vật đại danh tự khác. Theo Kundera: không thể thay thế được! Hay nói
theo
Steiner: "Trong bảng mẫu tự về cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ
cái
K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người."
Tôi cũng muốn mô phỏng Steiner: Trong cái bảng abc tình ái của anh bạn
Duật, mẫu mực, mô phạm ngay từ hồi "đó đó", Huyền là... Huyền. Không
thể thay thế được!
Sau truyện ngắn đó, Duật nghỉ hẳn viết. Ra trường, đi dậy học, mãi đến
khi Viên Linh làm tờ Khởi Hành, anh mới xuất hiện trở lại, qua những
bài phê bình, biên khảo, đọc sách... Anh đoạn tuyệt với truyện ngắn,
như thể: trong thể loại này, vĩnh viễn chỉ có một truyện ngắn, và nó
vĩnh viễn thuộc về... Huyền!
Trong một truyện ngắn chưa hề in ấn, bản dịch tiếng Anh lần đầu tiên
xuất hiện trên một số báo The New York Review of Books, "Bông Hồng của
Paracelsus", Jorge Luis Borges kể chuyện một vị đại sư về huyền thuật
có tên là Paracelsus, một bữa cầu khẩn "Thượng Đế của ông", xin Ngài
gửi tới cho ông một đệ tử. Và một đêm kia, có tiếng gõ cửa, một kẻ lạ
xuất hiện, bước vào trong căn phòng. Trông anh ta có vẻ hết sức mệt
mỏi. Vị đại sư ra dấu mời khách ngồi. Sau cùng chủ nhà là người lên
tiếng trước:
"Tôi nhớ lại tất cả những khuôn mặt từ Đông qua Tây, vậy mà không nhớ
ra bạn. Bạn là ai, và bạn mong gì ở tôi?"
"Tên tôi chẳng quan trọng. Tôi đã trải qua một cuộc hành trình ba ngày
ba đêm để tới nhà của Ngài. Tôi mong được là đệ tử của Thầy. Tôi mang
tới cho Thầy tất cả sản nghiệp của tôi".
Anh đổ sản nghiệp xuống mặt bàn: những đồng tiền, bằng vàng. Một đống
tiền. Anh làm việc này với tay phải. Vị đại sư quay lưng đốt cây đèn.
Và
khi xoay người lại, ông thấy tay trái vị khách lạ cầm một bông hồng.
Bông
hồng làm ông bối rối.
"Bạn nghĩ tôi có thể tạo nên cục đá biến tất cả mọi vật trở thành vàng,
tuy nhiên bạn vẫn mang vàng đến cho tôi. Nhưng tôi không tìm kiếm vàng,
và nếu bạn quan tâm đến nó, bạn sẽ không bao giờ có thể là đệ tử của
tôi".
"Tôi không quan tâm đến vàng. Những đồng tiền này chỉ để nói lên lòng
mong ước của tôi được theo chân Thầy. Tôi muốn Thầy dậy tôi Nghệ Thuật.
Tôi muốn bước kế bên Thầy, trên con đường đi tới Cục Đá."
"Con đường 'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của bạn, là mục tiêu mà bạn tìm
kiếm."
Người đàn ông nhìn vị đại sư, giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như vậy là không có mục tiêu?"
Vị đại sư cười lớn:
"Mấy kẻ cố tình lật tẩy tôi, cũng hằng hà sa số như những tên ngu đần;
chúng nói như vậy đó: làm gì có mục tiêu, và họ gọi tôi là một kẻ bịp
bợm.' Họ tin rằng tôi đã lầm... Tôi biết rằng có Con Đưòng, có Đạo (a
Path)."
Yên lặng một hồi, sau cùng người khách lên tiếng:
"Con sẵn sàng đi trên con đường đó với Thầy, cho dù chúng ta có thể sẽ
phải đi hoài đi huỷ trong nhiều năm. Hãy cho phép con vượt sa mạc. Hãy
cho phép con nhìn thoáng thấy, dù từ xa, đất hứa... Tất cả những gì con
đòi hỏi,
là một chứng cớ, trước khi bắt đầu cuộc hành trình"
"Khi nào?" Vị đại sư tỏ ra khó chịu.
"Ngay bây giờ". Người khách quyết định tức thời.
Suốt từ đầu, họ nói chuyện bằng tiếng La Tinh. Bây giờ, họ chuyển qua
tiếng Đức.
Người đàn ông giơ cao bông hồng:
"Thầy nổi tiếng vì có thể đốt bông hồng thành tro than, và lại làm nó
nở ra thành bông hồng, từ mớ tro than đó... Hãy cho con chứng kiến phép
lạ. Để đổi lại, con xin dâng hiến trọn đời con."
"Anh quá cả tin. Tôi không cần cả tin. Tôi cần niềm tin."
Người khách nài nỉ:
"Bởi vì con không cả tin, nên con muốn chứng kiến tận mắt, sự huỷ diệt
và tái sinh của bông hồng".
Vị đại sư lúc này đã cầm bông hồng trên tay, và đang vuốt ve nó.
"Anh thật cả tin. Anh nghĩ rằng tôi có thể huỷ diệt nó?"
"Bất cứ một người nào cũng có sức mạnh huỷ diệt nó".
"Anh lầm rồi. Anh thực sự tin rằng một điều gì đó có thể biến thành hư
vô? Anh tin rằng vị Adam đầu tiên ở Thiên Đàng có thể huỷ diệt một bông
hồng
đơn độc, một cọng cỏ đơn độc?"
"Chúng ta không ở Thiên Đàng.", người đàn ông trẻ tuổi cứng đầu trả
lời. "Tại đây, trong thế giới trần tục này, mọi vật đều chết".
"Chúng ta hiện đang ở đâu, nếu không phải là Thiên Đàng? Bạn tin rằng
thần thánh có thể sáng tạo ra một nơi không phải là Thiên Đàng? Bạn
không
tin, rằng Sa Ngã chính là do không nhận ra một điều: chúng ta đang ở
Thiên
Đàng?"
"Một bông hồng có thể bị đốt cháy", người trẻ tuổi nói bằng một giọng
thách đố.
"Có lửa ở đây", vị đại sư đưa tay chỉ.
.......
Người trẻ tuổi cầm bông hồng trên bàn, và ném vào lửa. Một khắc, tựa
thiên thu, trôi qua; anh ta chờ đợi phép lạ.
Vị đại sư ngồi bất động. Ông nói, bằng một giọng giản dị:
"Tất cả những nhà vật lý, dược sĩ tại thành phố Basel này nói tôi là đồ
dởm. Có lẽ họ nói đúng. Có tro than vốn xưa là bông hồng, sẽ chẳng còn
là bông hồng nữa."
Người trẻ tuổi cảm thấy xấu hổ. Anh chỉ là một kẻ lén lút xâm nhập nhà
vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông thú nhận, huyền thuật của ông chỉ là đồ
dởm.
Anh ta quì trước vị đại sư và nói:
"Điều tôi làm thật không thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm tin, trong
khi Thượng Đế đòi hỏi, chỉ một điều, tin tưởng. Hãy cho tôi được tiếp
tục, nhìn tro than. Tôi sẽ trở lại, khi nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử
của Ngài, và ở cuối Con Đường, tôi sẽ nhìn thấy bông hồng".
Anh ta nói với một niềm đam mê thực sự, nhưng đam mê này chỉ là lòng
thương hại vị thầy già. Ta là ai, hỡi Johannes Grisebach này? Ta là kẻ,
bằng bàn tay thiêng liêng ném bông hồng vào lửa, đã khám phá ra rằng,
đằng sau mặt nạ, chẳng có một người nào.
Để lại đống vàng có thể là một hành động làm cho những kẻ nghèo đói
"bực mình", anh ta lượm tất cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và
nói anh luôn luôn là vị khách quí tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả
hai đều biết rõ một điều, chẳng bao giờ còn có lần thứ hai.
Vị đại sư lại cô đơn một mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông trút tí
tro than từ lòng bàn tay này qua lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn
độc. Bông hồng xuất hiện trở lại.
"Khao khát chính cuộc đời của mình...", tôi bỗng nhớ thời của lũ chúng
tôi, những giấc mộng, "vốn xưa kia là những giấc mộng nhưng sẽ chẳng
còn là những giấc mộng nữa". Và tôi nhận ra, Duật, hay tôi, hay những
bạn bè của tôi, bất cứ một kẻ nào, đều có thể là người khách lạ trẻ
tuổi, trong câu
chuyện của Borges.
Chúng tôi đều đã có dịp gặp vị thầy của mình.
Vĩnh biệt bạn Duật!
Nguyễn Quốc Trụ (và bằng hữu).
|