Tây-phương vẫy
gọi...
Andrei
Makine sinh tại Novgorod, năm 1957, tiến sĩ văn chương đại học Moscow,
giáo sư
Học viện sư phạm Novgorod trước khi qua Pháp dạy tiếng Nga.
Cuốn Sông
Tình Một Thuở (Au temps du fleuve Amour, nhà xb Félin, 1994) của ông mở
ra bằng
những dòng:
Cái đẹp
không phải là mối bận tâm tại xứ sở mà chúng tôi sinh ra. Chúng tôi có
thể qua
đi hết cuộc đời mà chẳng cần hiểu, người ta đẹp hay xấu; chẳng để tâm
đến những
góc cạnh của bộ mặt; chẳng tìm tòi sự bí mật gợi cảm, gợi dục của thân
thể con
người. Trong cái cõi khô cằn khắc nghiệt này, tình yêu thật khó bắt rễ.
Nếu có
chăng, là thứ tình yêu - tội lỗi. Nó lấp ló đâu đó, cùng với những ngày
đông
tàn nhẫn, giữa đám đàn bà túm lấy nhau ở giữa làng, để trao đổi tin
động trời.
Họ chỉ thì thào, nhưng mớ khăn dầy làm cho họ phải la lên. Những cái
tai nhỏ dại
của chúng tôi lại cứ phải nghe rõ mồn một. Lần này là bà hiệu trưởng,
trên chiếc
xe hàng, đậu ngay tại Ngã Ba Quỉ, nơi năm nào cũng có ít nhất một vụ
lật xe. Ôi
chao, bà hiệu trưởng khô đét như con mắm, không thể đoán được tuổi, làm
sao tưởng
tượng được cái cảnh một thân hình như thế, nằm trong tay gã tài sặc mùi
xăng,
mùi thuốc lá! Mà lại ở ngay cái ngã ba quỉ sứ đó! Đã bảo rồi, cái làng
này,
ngay từ hồi được sinh ra, đâu phải nơi trú ẩn của tình yêu. Đám cô-zắc
của Nga
hoàng đã dựng nó lên, cách đây ba thế kỷ, rồi quên luôn. Dúm đàn ông
trong làng
bị khu rừng taiga bạt ngàn nuốt hết sức lực. Trong giấc mơ mệt nhoài,
họ vẫn
còn bị săn đuổi bởi tiếng sói hú ghê rợn. Cái lạnh Nga lại là một
chuyện khác nữa.
Nó như chẳng hề biết giới hạn là gì. Mỗi lần lỡ khép mắt lại một lát,
là mớ
lông mi không chịu mở ra nữa. Râu dựng lên như những ngọn mác. Đàn bà
hả? Lẽ dĩ
nhiên họ cũng yêu chứ. Cặp mắt đầy nét nhăn, mặt lầm lì vẫn thấp thoáng
bóng mờ
của một nụ cười thần bí; đám Cô-zắc yêu họ trong bóng tối của căn lều
ám khói,
bên mấy cục than hồng hồng, trên những tấm da gấu. Nhưng kỳ cục làm
sao, là
thân thể những người tình lặng lẽ đó. Những làn da tẩm mỡ nai trơn
tuột, muốn
giữ họ là phải dùng những sợi roi ngựa cuốn chặt vào cổ tay. Ngực họ
hả? Thì cứ
bằng bằng, tròn tròn như mấy vòm cung nhà thờ Kiev. Háng cứng ngắc, và
lúc nào
cũng chực nổi loạn. Nhưng khi đã chịu phép, đôi mắt long lanh như nét
gươm dao,
cặp môi cuộn tròn như sẵn sàng cắn. Và làn da của họ được hun lên bởi
ánh lửa,
và cái lạnh, mỗi lúc một thêm dữ dằn, mời gọi. Cơn say này không dễ tàn
đâu...
Anh chàng Cô-zắc lại xoắn thêm mấy vòng roi ngựa vào cổ tay, và con mắt
hi hí của
người đàn bà lại lóe lên một ánh cười ranh mãnh...
Đột nhiên tất
cả đều đảo lộn. Tây-phương ra dấu... Thoạt tiên là con tầu xuyên - Tây
Bá lợi
Á. Con tầu huyền bí. Rồi một phim Pháp, viễn ảnh về một cõi đời rực
rỡ...
Nhưng tại
sao lại là (tài tử Pháp) Belmondo?
Với cái mũi dèn
dẹt, anh ta giống chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi - taiga, vodka,
những trại
- là từ những hình vóc đó. Những khuôn mặt của một vẻ đẹp man rợ hằn
lên những
đường nét khắc khổ. Tại sao anh ta?
Bởi vì anh
ta chờ đợi chúng tôi. Anh ta không bỏ rơi chúng tôi ở bậc thềm một lâu
đài
tráng lệ, và những lần tới lui, giữa những giấc mơ và cuộc sống thường
ngày của
anh, anh ta luôn luôn ở bên cạnh chúng tôi. Người ta theo anh vào tới
cái điều
không thể tưởng tượng ra nổi.
Chúng tôi
còn yêu anh, bởi cái điều vô ích, của những thành quả, những chiến
công. Bởi sự
phi lý của những chiến thắng, chinh phục. Thế giới mà chúng tôi sống
dựa trên
tương lai rạng rỡ của một ngày mai ca hát. Đó là luận lý của chúng tôi.
Những
buổi gắn mề đay nơi điện Cẩm Linh là một biểu tượng cao cả. Ngay cả
trại (tù)
cũng có chỗ đứng ở trong cái trật tự hài hòa đó.
Rồi Belmondo
tới cùng với những thành quả chẳng để làm gì, những trình diễn chẳng
cần mục
đích, chủ nghĩa anh hùng rẻ tiền, miễn phí (gratuit). Chúng tôi khám
phá ra rằng,
sự hiện hữu xác thịt của con người tự nó là một cái đẹp. Chẳng cần bất
cứ một
ngụy tư tưởng mang tính ý thức hệ, hoặc vì tương lai. Kể từ ngày đó,
chúng tôi
biết, về cái tự tại, tự thân tuyệt vời có tên là Tây-phương.
Lại còn cuộc
gặp gỡ tại phi trường. Người nữ điệp viên chờ đón vị anh hùng của chúng
tôi phải
có một vật gì đó để họ nhận ra nhau. Dữ thần chưa, đó là một...
karavai, một mẩu
bánh mì đen, được gọi bằng cái tên chính hiệu Nga của nó, trong một
phim Pháp!
Một tiếng rú vang lên, và cùng với nó là lòng tự hào Nga chạy dài theo
suốt những
hàng ghế trong rạp Tháng Mười Đỏ... Khi trở lại Svetlaia, chúng tôi chỉ
nói về
chuyện đó: vậy là, ở nơi chốn Tây-phương xa vời kia, họ cũng biết một
tí, rằng
chúng tôi hiện hữu!
Hoàng Xuân
Trường, trong bài viết trên Thế Kỷ 21, số tháng Tám, 1997, kể về một
trong những
lý do vượt biên của ông. Có cả ngàn lý do, nhưng thiếu kiếm hiệp cũng
là một.
Ông cho rằng, xã hội cộng sản cấm kiếm hiệp chẳng phải vì nó viễn mơ,
không có
tính đảng, tính giai cấp, tính hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà vì những
nhân vật
của Kim Dung như Hồng Giáo Chủ, Tinh Tú Lão Quái, Đông Phương Bất
Bại... đã gợi
đến những lãnh tụ muôn vàn kính yêu của họ.
Kinh nghiệm
vượt biên của ông làm tôi nhớ đến của tôi, khi rời bỏ Hà-nội. Năm 1954,
dân
Hà-nội chỉ đâu một hai tuần là quá ớn phim ảnh xã hội chủ nghĩa. Trong
tình trạng
còn xập xí xập ngầu đó, cũng có thể do chủ trương của nhà nước, (thời
gian 300
ngày tự do của Hải-phòng), một ông chủ rạp đã cho chiếu lại một phim
cũ, thuộc
loại vô thưởng vô phạt. Tôi còn nhớ, đó là một phim của Ý, về một vị nữ
y tá,
hình như còn là nữ tu, muốn rời bỏ tu viện, và bệnh viện, để đi theo
bồ. Đúng
lúc bà rời bỏ, thì những đoàn xe đưa binh sĩ bị thương tới bệnh viện.
Và bà đã
quyết định ở lại. Bữa đó, cả Hà-nội sắp hàng vô coi phim! Còn thằng bé
thì sau
đó, tìm đủ mọi cách xuống Hải-phòng, trước còn xem phim, rồi về, sau đi
luôn!
Cuốn tiểu
thuyết mới nhất của Andrei Makine, Tội Ác của Olga Arbélina, (nhà xb
Mercure de
France, 290 trang), là một cuộc truy tìm thời gian đã mất, về một tội
ác còn
hơn cả sát nhân. Tên nhân vật, tên trên bia mộ, là của một công chúa,
một nữ tội
phạm, chết vào những năm 1960. Và còn là một kẻ sống sót sau cách mạng,
trốn được
sang Paris cùng với đứa con, sống giữa một cộng đồng Nga, già nua, buồn
tẻ như
một buổi sáng tuyết. Bị ám ảnh bởi chính cuộc đời không làm sao cứu
chuộc, bà
trở nên điên khùng, xa lạ cả với con, với mình... Tội Ác của Olga mở
đầu bằng
tiếng thét muôn đời mà những trang sách còn lại cứ mỗi lúc một khuếch
đại thêm
lên mãi: Mi đã làm chi đời ta! Mi đã làm chi đời ta?
NQT