Tư tưởng gia của tân thế kỷ: Karl Marx
John
Cassidy, trong bài viết trên Người Nữu Ước, số đặc biệt
về Tân thiên niên kỷ ("Next", Oct 20/27, 97), coi Marx sẽ là nhà tư
tưởng lớn của tân thế kỷ. "Một trăm năm chục năm trước, ông ta ngồi
trong
Thư viện Anh, phân tích những vấn đề của tư bản chủ nghĩa và những đức
hạnh của
chủ nghĩa Cộng Sản. Marx đã sai lầm về chủ nghĩa Cộng Sản. Liệu ông ta
đúng, về
chủ nghĩa tư bản?".
Tác
giả kể lại một buổi gặp gỡ một người bạn. "Càng
loanh quanh ở khu Phố Tường, Wall Sreet, tôi càng nhận ra là Marx có
lý".
Ông ngạc nhiên, tưởng bạn nói đùa. "Hiện đang có sẵn một Nobel cho một
kinh tế gia làm sống lại Marx, kết hợp những vấn đề của hôm nay và đưa
ra một
kiểu mẫu hợp lý. Tôi rất tin tưởng, cách tiếp cận tư bản chủ nghĩa, của
Marx là
tối hảo.” Cassidy chới với. Cả hai cùng học Oxford, vào cái thời mà hầu hết các
ông thầy đều
đồng ý với Keynes, khi cho rằng chủ nghĩa Cộng Sản là một sỉ nhục trí
thông
minh của con người. Nhưng người bạn của ông là một chuyên gia, kinh
nghiệm đầy
mình về tài chính toàn cầu, một người “ăn nằm” với Wall Street. Có cái
gì cần
phải coi lại.
Bị
ám ảnh bởi câu nói của bạn, Cassidy đi nghỉ hè, “còng
lưng với gánh nặng lịch sử” - những tác phẩm của Marx: Lý Thuyết Thặng
Dư Giá
Trị, Ý Thức Hệ Đức, Tuyên Ngôn... Dần dần ông nhận ra vấn đề.
Cách
đây 50 năm, Edmund Wilson ghi nhận, phần lớn văn xuôi
của Marx "thôi miên người đọc bằng những nghịch lý, sau cùng là giấc
ngủ". Mấy chục năm, thời gian đâu làm cho Marx dễ đọc hơn. Ngay Engels
cũng than phiền, những chương sách quá dài, văn thì hũ nút. Marx thích
nhất,
khi õng ẹo, làm dáng (coquetting), với những diễn đạt mượn từ Hegel.
Không phải
ông không biết viết. Khi nghĩ rằng, mình thích, ông có thể viết những
câu văn
giản dị, những "sấm ngôn", vốn là những khối thuốc nổ nén lại
(Wilson). Nhưng thuờng ra, ông viết như thể sự trong sáng, thói tiết
kiệm ngôn
từ là những cái bẫy của giai cấp trưởng giả.
Cùng
với sự sụp đổ chủ nghĩa Cộng Sản, di sản của Marx càng
thêm u tối. Nhưng đây không phải là điều ông quan tâm. Sự thực Marx rất
ít biết
về chuyện xã hội "xã hội chủ nghĩa" làm ăn ra sao. Là một "sinh
viên" của chủ nghĩa tư bản, ông phải được đánh giá từ quan điểm đó. Khi
không có ý định giải trí người đọc, ông kéo họ vào những nghiên cứu:
tình trạng
toàn cầu hóa, mất cân đối, tham nhũng chính trị, độc quyền, tiến bộ kỹ
thuật,
văn hóa cao xuống dốc, thiên nhiên bực bội về cuộc sống hiện tại...
toàn những
vấn nạn kinh tế gia đang phải đương đầu. Quan điểm "free enterprise"
[tự do kinh doanh] của Marx được nhiều thương gia hò theo, nhưng thà
bắt họ nằm
sấp, đánh vài roi vào đít, chứ đừng gán cho họ là Mác-xít. Trước 1975,
giáo sư
Trần Văn Toàn cũng cho rằng, chế độ tư bản hưởng lợi rất nhiều, nhờ
Marx: Họ
hiểu Marx, hoặc thực sự có đọc Marx. Chế độ công đoàn, tự điều chỉnh
(auto-régulation)... là từ Marx. Khi những nhà bảo thủ khẳng định chế
độ an
sinh xã hội [welfare] bị sa lầy, và nó sẽ giết chết những cơ sở tư
nhân, khi
chúng ta tin rằng chế độ Xô-viết sụp đổ, vì không cùng nhịp (en jeu)
với hiệu
năng của chủ nghĩa tư bản, như vậy là đã chấp nhận quan điểm của Marx,
về kinh
tế chỉ huy.
Marx
tin tưởng, xã hội làm ra sản phẩm ra sao, con người như
thế đó; nói rõ hơn, hành vi, niềm tin của con người hoàn toàn phụ thuộc
đường
hướng xã hội tổ chức, sản xuất, phân phối sản phẩm. Tuy chỉ trích sự
thờ phụng
đồng tiền xô đẩy con người vào những tham vọng thấp hèn, Marx không hề
coi
thưòng thị trường tự do [free market]. Chỉ trong vòng 100 năm thống
trị, giai
cấp trưởng giả đã tạo nên những thành quả khổng lồ, bằng bao nhiêu thế
hệ trước
cộng lại. Hơn nữa cuộc cách mạng kỹ nghệ của họ không hề bị trói buộc
chỉ vào
một quốc gia; bởi vì sự cần thiết thị trường mới là một nhu cầu thường
trực, nó
luôn thúc vào đít giai cấp trưởng giả, "săn đuổi họ tới cùng trời cuối
đất". Tới đâu, nó cũng coi thường những cách thức mang tính truyền
thống,
về sản xuất vật dụng. "Tất cả những kỹ nghệ mang tính quốc gia, cổ lỗ
đã
bị huỷ diệt, hoặc đang bị huỷ diệt từng giờ từng phút. Bóng dáng những
kỹ nghệ
mới nơi cuối đê đầu làng là một câu hỏi sống chết đối với mọi quốc gia
có văn
hóa. Không phải chỉ ba dịch vụ buôn bán cò con, địa phương đau khổ.
Toàn thể
văn hóa bị xô giạt qua một bên, bởi sức mạnh tàn nhẫn của hiện đại hóa,
của nhu
cầu hội nhập vào 'ngôi làng thế giớí. Sáng tạo mang tính trí thức của
những
quốc gia 'cá thể' được coi là 'tài sản chung'. Sự nhỏ hẹp, một chiều,
quốc hồn
quốc tuý ngày càng trở nên bất khả hữu. Một nền văn chương thế giới sẽ
mọc lên
từ những mầu mỡ có tên là văn chương địa phương."
Năm
1881 Jenny [vợ Marx] mất, "The Moor cũng chết
theo", Marx viết cho Engels. Hai năm sau, The Moor [biệt hiệu mấy đứa
con nhỏ
gọi Marx, do ông đen đúi, râu ria xồm xoàm. Moor là tên một giống dân
gốc Ả Rập
trộn với giống dân Berber] theo vợ xuống mồ. Engels đọc ai điếu, chắc
cũng hợp
ý Marx: "Như Darwin khám phá ra luật tiến hóa thiên nhiên, Marx khám
phá
ra luật tiến hóa của lịch sử con người".
Không
thực sự đúng, nhưng đâu có hoàn toàn sai. Chủ nghĩa tư
bản không bị chủ nghĩa Cộng Sản thay thế, nhưng nó đã không sống sót
một cách
khốn khổ như trong tiểu thuyết Dickens mà Marx đã từng chứng kiến.
Trong thế kỷ
tiếp theo cái chết của ông, những nhà cầm quyền đã đưa ra nhiều biện
pháp nhằm
cải thiện mức sống: luật lao động, lương tối thiểu, trợ cấp xã hội, nhà
công
cộng, bảo hiểm sức khoẻ [health care], thuế tích luỹ... Những biện pháp
này
mang nhãn xã hội (socialist), ngày Marx còn. Ông đã miêu tả chúng,
trong Tuyên
Ngôn. Thật khó tưởng tượng chế độ tư bản có thể sống sót, nếu thiếu
chúng.
Nhưng
như vậy chưa đủ để tiên đoán, sự trở lại của Marx.
Marx
tin tuởng, trong bất cứ xã hội nào cũng có sự phân chia
giữa những người sở hữu máy móc, cơ xưởng sản xuất (giai cấp trưởng
giả), và
những người tài sản chỉ trông vào sức lao động (vô sản). Sự phân chia,
đúng ra
là sự nứt rạn giữa họ ngày càng nặng nề. Hai thập kỷ vừa qua cho thấy,
kẻ thắng
thế là những người kiểm tra phương tiện sản xuất: giám đốc điều hành,
những
người có cổ phần. Vào năm 1978, giám đốc điều hành một công ty lớn thu
nhập gấp
60 lần một công nhân; vào năm 1995; sai biệt là 170 lần. Cổ phần viên
(shareholders) cũng kiếm bẫm. Những con số cho thấy, một trong những tư
tưởng
gây nhiều tranh luận nhất của Marx đang tìm đường trở lại: lý thuyết về
bần
cùng hóa giai cấp công nhân (immiseration).
Marx
không hề tin tưởng, như một số nhà phê bình đã cắt
nghĩa ông, theo đó, tiền lương không bao giờ có thể tăng, dưới chế độ
tư bản.
Nhưng ông khẳng định, lợi nhuận tăng nhanh hơn lương, rốt cuộc, công
nhân ngày
càng nghèo. Hai thập kỷ vừa qua cho thấy, vào năm 1979, 16% tổng số thu
nhập
của nhà máy chạy vào túi lợi nhuận, bây giờ là 21%. Để trốn thuế, để
thêm lợi
nhuận, để bớt trả lương công nhân, đám chủ chuyển cơ sở sang thế giới
thứ ba,
thế giới toàn trị, nếu cần mướn con nít, bắt tù cải tạo làm việc. Điều
này Marx
cũng đã tiên đoán: bọn chủ "sạch" lắm, chúng sẽ để cho người chết
chôn người chết. Câu chuyện đang [thời điểm 1997] gây sôi nổi liên quan
đến vụ
gây quỹ đảng, mấy ngài tổng thống chiêu đãi những vị Mạnh Thường Quân
ngay tại
Bạch Ốc cũng chẳng làm cho Marx ngạc nhiên: chính trị gia là những tà
lọt, kẻ
điếu đóm cho những ông chủ chi địa, ngay từ thời Washington.
Nguyễn
Quốc Trụ
[Đã đăng trong Nơi Người Chết
Mỉm Cười, tạp ghi, NQT, nhà xb
Văn Mới, 1999]