Nghệ Thuật
Làm Dáng
Cuối thế kỷ,
hội nghị các quốc gia nói tiếng Pháp, kỳ thứ bẩy, được tổ chức tại Việt
Nam, đã
khai mạc bằng những cuộc biểu tình của nông dân, ở Thái Bình, Đồng Nai.
Như một
trùng hợp, ngẫu nhiên (?), tờ Granta
ra số đặc biệt về nước Pháp. Ian Jack mở đầu
bài bình luận trang nhất, bằng một hình ảnh, chuyến vượt biển Đại Tây
Dương đầu
tiên, của phi công Mỹ Charles Lindbergh: Vào ngày 21 tháng Năm 1927,
sau hơn ba
chục giờ chỉ nhìn thấy biển, kể từ khi rời New York, dưới mắt ông lúc
này là những
cánh đồng, những khu rừng vùng Normandy. Cuộc hành trình kể như chấm
dứt. Đã đến
lúc kiếm một cái gì bỏ vào miệng. Ăn xong miếng sandwich, ông thò đầu
ra ngoài
cabin, tính ném mẩu giấy, nhưng cuối cùng từ bỏ ý định đó: "Hành động
đầu
tiên của tôi không lẽ là làm dơ khu vườn đẹp đẽ như thế này?"
Nhà văn
Pháp, Jean-Marie Domenach, mới mất mùa hè vừa qua, đã kể lại câu chuyện
trên,
trong cuốn sách của ông, "Hãy nhìn nước Pháp - Luận về nỗi bực bội của
nó" (Regarder la France - Essai sur
le Malaise francais). Đây chỉ là hòn
đá nhỏ, trong núi đá khổng lồ, những giai thoại về tính đặc thù của
nước Pháp,
như một quốc gia, một dân tộc, một văn hóa, và (ở đây) một phong cảnh.
Theo
Domenach, những cánh đồng ngày xưa, bây giờ rộng hơn, những con đường
thẳng, lớn
hơn, nhưng những người nông dân - chẳng biết Lindbergh có nhận ra một
người nào
không khi ngoái cổ nhìn xuống - ngày càng ít đi, một cách thảm hại:
những thay
đổi thật rõ rệt ở các nước Tây phương, khi máy móc, phân bón thay cho
sức người
trong công việc đồng áng. Nhưng không ở đâu - ngay cả Anh, nơi đồng quê
tạo nên
ý niệm quốc gia - sự thay đổi lại ảnh hưởng đến căn cước quốc gia
(nation's
identity), như ở Pháp.
Không ai
nghi ngờ, tính đặc thù. Nước Pháp - nếu không đông dân nhất thì cũng
rộng nhất,
đã có thời là một cường quốc - lại càng tự hào về nó. Cái nôi, nơi chốn
ra đời
của tư tưởng chính trị hiện đại. Bản tuyên ngôn nhân quyền của Mỹ hay
thật,
nhưng họ làm sao phát minh ra nổi một câu thần chú (Hạt vừng, mở ra!),
như là
"Tự do, Bình đẳng, Thân ái". Người Việt, dù muốn dù không, đều liên
tưởng tới "Độc lập, Tự do, Hạnh phúc", và có thể đây là lý do hội nghị
Pháp ngữ đánh dấu cuối thế kỷ được tổ chức tại Việt Nam. "Người Pháp ra
đi, nhưng nước Pháp ở lại." Malraux, Phản-Hồi
ký. Ngay cả thuật ngữ
"Tả, Hữu" là cũng do sắp xếp ghế ngồi tại Quốc Hội Pháp, vào năm
1789.
Nghịch lý ở
đây là, theo Ian Jack, trong khi nước Pháp nghĩ về nó, như là ông thầy
của thế
giới, nó chẳng hề tin, bất cứ một quốc gia nào bắt chước nổi nó. Không
như nước
hoa, nước tắm, bánh mì croissant... những món đồ như Tượng thần Tự do
không phải
để xuất cảng! Có một linh hồn Pháp, một nước Pháp sâu thẳm, hoặc quá
nữa, một
ngoại lệ Pháp (l'exception francaise). Vào năm 1990, khi được hỏi tại
sao không
thử bom nguyên tử trên đất Pháp; câu trả lời, chắc nịch: "Tahiti là
Pháp." Ngoại lệ, khi tiếng Pháp tự coi, là một "gần như-địch thủ"
của tiếng Anh, trong khi tỉ số ghi bàn là 1-4. Cũng ngoại lệ, Pháp là
nước bài
Mỹ nặng nhất tại Tây Âu.
Và trên tất
cả, ngoại lệ lớn lao nhất, quyền lực của nước Pháp, trong việc điều
hành, thỏa
mãn, tạo niềm hứng khởi cho cuộc sống và tham vọng của trên 58 triệu
công dân của
nó. Đòi hỏi chuẩn mẫu hóa, trung tâm hóa không chỉ có trước mà là tiền
đề của
Cách Mạng. Napoléon đã làm thành luật, cho phép dân Pháp được tham gia
đồng đều
(ai cũng có phần) trong cái khuôn mẫu lớn lao, đồng nhất. Những toà án
với những
bộ luật chuẩn; những ngôi trường chuẩn, dậy cùng môn lịch sử nước Pháp;
những
cơ sở nhà nước, cùng một bảng hiệu được khắc trên đá: "Liberté,
Égalité,
Fraternité"; một ngôn ngữ chuẩn, cho nhiều vùng khác nhau; một kiểu đo
lường:
mét, lít, kí-lô. Tất cả đều do chính quyền Paris đặt để. Nhà nước can
thiệp,
quyết định nhưng nhà nước là nơi trú ẩn, và đây cũng là một vinh quang
không thể
tách rời khỏi cái gọi là lối sống Pháp: ngày nay con số công nhân viên
nhà nước
có cỡ chừng 5 triệu, (gấp năm ở Mỹ), những cơ sở kỹ nghệ, nhà máy do
nhà nước
quản lý bao gồm quá 1/3 con số kinh tế quốc gia. Quá nửa con số gia
đình sống
nhờ thu nhập nhà nước. Con số thất nghiệp-nỗi bực Pháp: 12.5, (gấp đôi
ở Anh).
Ưu việt, hay hệ thống tập trung chính trị, hành chánh vào một thủ đô
Paris tỏ
ra không phổ thông, và ló mòi tham nhũng. Pháp ngày càng thụt lui,
trước sức ép
của chủ nghĩa toàn cầu.
Họ có nhiều
cái tên, để gọi hiện tượng này: chủ nghĩa tư bản man rợ, chủ nghĩa tư
bản cứng
rắn, chủ nghĩa tư bản Anglo-Saxon... Trong khi cả thế giới còn lại đành
chấp nhận
chủ nghĩa toàn cầu, lại một lần nữa, ở đây, ngoại lệ Pháp: nỗ lực bảo
tồn những
tư tưởng, những nét đáng yêu, Pháp tính; nỗ lực đóng cửa, rút cầu, tạo
một Pháo
đài Pháp.
Văn chương
Pháp ở đâu, trong tất cả những thứ đó, Ian Jack tự hỏi. Sự thực cay
đắng là,
ngoài nước Pháp, và một dúm những người nói tiếng Pháp, chẳng ai hay về
nó. Hãy
thử nêu tên sáu tiểu thuyết gia Pháp đương thời, còn sống. Người Pháp
đổ tội
cho sự ngu dốt, vô tri (ignorance), thái độ thù nghịch của dòng
Anglo-Saxon,
nhưng trên thực tế, hiện tượng ta về ta tắm ao ta đã xẩy ra từ lâu.
Saul
Bellow, nhà văn Mỹ, Nobel văn chương, trên tờ Granta, vào năm 1984 đã nói về niềm
u hoài "đi tìm một nước Pháp". Ông nhắc tới Paris, thủ đô văn hóa quốc
tế trước Đệ nhị chiến, và cảm tưởng của ông, lần viếng thăm thứ nhất,
vào năm
1948: thành phố là một nhà hát lớn, với tất cả những hội hè, đình đám
nhân
gian, những vấn đề lớn lao nhất của con người đang được trình diễn. Ba
chục năm
sau, chẳng còn gì nữa. Tất cả những "ism" như Mác-xít, Cộng sản-Âu
châu, Hiện sinh, Cơ cấu, Giải cấu trúc... đều chẳng vãn hồi thế giá của
một nền
văn minh Pháp. Saul Bellow kết luận: "Sorry about that".
Đừng đổ tội
cho thái độ, thiên kiến Mỹ. Jean-Marie Domenach, trong cuốn sách nói
trên, cho
rằng, đây vẫn là vấn đề của "tiểu thuyết mới": Miêu tả một cách dửng
dưng, lạnh lùng một xã hội đang manh nha tan rã, với những cá nhân -
những bọt
bèo lềnh bềnh, chẳng khác chi mấy trái banh con nít chơi trên những con
phố buồn
hiu - những con người trơ ra trước số mệnh của họ, trong một hiện hữu
đóng cứng,
khóa chặt. Ông đổ tội cho chủ nghĩa tiêu thụ, cho "cái mặt vuông truyền
hình", sự rút lui vào cuộc sống riêng tư của mỗi con người; nhưng vấn
đề
này đâu chỉ riêng người Pháp phải gánh chịu, cho toàn thể thế giới? Làm
sao mà
một nền văn chương tả thực (realistic), bao la bát ngát, và cũng thật
"bình dân" với những tiểu thuyết gia khổng lồ, những đại thụ như
Balzac, Flaubert, của thế kỷ 19, một trăm năm sau đã biến thành một cõi
cô đơn,
với những cuốn tiểu thuyết chỉ nhằm chứng minh một cõi người vô nghĩa?
Nếu chủ
nghĩa toàn cầu là một điều không thể tránh được, nếu nước Pháp phải rút
lui vào
pháo đài của nó, một cái gì đã mất theo với họ. Có thể cảm nhận ra điều
này,
người Việt vẫn còn những trân trọng dành riêng cho "ông Tây, bà Đầm",
cho một nền văn chương "cánh đồng tuyết năm xưa". Hình như có một nhà
văn Việt Nam, khi trả lời một cuộc phỏng vấn (hay một cuộc thi viết văn
bằng tiếng
Tây?), đã thú nhận, cái chế độ xã hội "xã hội chủ nghĩa" mà ông suốt
đời theo đuổi, xem ra thua xa, cái thời hội hè "cát tó juy-ê". Cá
nhân người viết thực tình vẫn chưa làm sao trả lời được câu hỏi, tại
sao người
Pháp lại "coi trọng" xứ Nam kỳ hơn Trung kỳ và Bắc kỳ; ở đây không hẳn
chỉ là chính sách chia để trị.
Trên có
trích dẫn một câu của nhà văn Pháp André Malraux, bởi vì, ông là một
tác giả có
một ảnh hưởng nặng nề trên một số cây viết miền Nam trước 1975. Malraux
vốn nổi
tiếng như một "mythmaker", một kẻ chuyên tạo ra những huyền thoại về
mình. Tôi sợ rằng niềm say mê ông, say mê nước Pháp, văn hóa Pháp cũng
đã trở
thành một "myth", hoặc nhẹ nhàng hơn, một cách làm dáng, ở một số nhà
văn của chúng ta.
Chúng ta
luôn có dáng điệu của một kẻ sắp sửa ra đi, Camus viết như vậy. Một
Dũng của
"Bến Gió", của "sông Đà": kéo cổ áo cao lên một chút, tóc xổ
tung ra, mặc tình cho nó bù xù trước gió! Vũ Khắc Khoan, khi sinh thời
có kể một
huyền thoại về Nguyễn Tuân: Mặc áo gấm, nhảy xuống sông, thi bơi! Khi Siu Cô
Nương của Mặc Đỗ được
trình làng, Thanh Tâm Tuyền, trong một bài điểm sách, đã
coi, đây chỉ là những nhân vật làm dáng. Mặc Đỗ, sau đó, đã chỉ ra
những nét
làm dáng trong Ung Thư.
Ở đây, cứ coi như một "chân lý": không thể có
văn chương, nếu không có làm dáng. Nhưng đấy chỉ là khởi đầu, là thói
quen mút
ngón tay của con nít; sau đó phải là chấp nhận rủi ro, hiểm nguy, là
chọn lựa,
quyết tâm thực hiện thực tại "của những giấc mơ".
Simon Leys,
trên tờ NYR May 29, 1997, trong bài điểm sách của Curtis Cate (Malraux:
một tiểu
sử, nhà xb Fromm, 451 trang, 1997), cuốn mới nhất sau khi tro cốt của
Malraux
được đưa vào Điện Chư Thần, Pantheon (Nov 1996), đã kể một câu chuyện
"làm
quà": Trong một buổi thuyết giảng ở một nhà thờ nọ, cha tinh thần nhận
thấy,
tất cả các con chiên đều cảm động, rơi lệ, trừ một người, mắt khô queo.
Hỏi,
anh trả lời: "Tôi không thuộc giáo dân địa hạt này". Ông hiện sống tại
Áo, tiểu thuyết gia, và là tác giả một số sách viết về Trung hoa (Bóng
tối
Trung hoa, và cuốn mới nhất, Khổng tử nói, The Analects of Confucius). Ông cho
biết, mặc dù không phải người Pháp, tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ của ông,
và ông
luôn luôn cảm thấy, ở Pháp như ở nhà, nhưng chuyện đưa tro cốt Malraux
vào
Pantheon chôn cất lần thứ hai, mắt ông khô queo.
Ông đã có
kinh nghiệm này, trước đây hai chục năm. Khi Malraux mất (Nov, 1976),
một tuần
báo tại Paris đã mời ông viết, về đề tài: "Malraux là gì đối với
ông?" (What did Malraux represent for you?). Luôn tin tưởng cái chết
không
phải là một "excuse" để mà bỏ qua những nhận xét chân thật, ông đã
làm đúng như vậy. Bài viết gây một cơn khiếp đảm nơi toà soạn tờ tuần
báo, và
người ta đành vờ đi, sự đóng góp của ông. Bây giờ, ông vẫn giữ nguyên
sự ngây
thơ, nghĩa là lập lại những điều nhiều tác giả khác, từ Koestler cho
tới
Nabokov, đã nói về Malraux: Thực chất chỉ là đồ dởm.
Thí dụ: về
thảm kịch cách mạng Trung Hoa; thay vì mất thời giờ với sự làm dáng,
nguỵ tạo
(artificiality) trong Phận Người,
người ta chỉ cần đọc bản kết toán của Harold
Isaacs, ít ra tác giả cũng biết, ông viết về điều gì. Cuốn Thảm kịch Trung hoa
của ông, xuất bản năm 1938, đã phải đợi 30 năm mới có bản dịch Pháp ngữ
(dịch
giả R. Viénet, Paris, 1967, nhà xb Gallimard). Vào những ngày tháng sớm
sủa như
thế đó, vốn chỉ là một du khách quá giang, "cưỡi ngựa xem hoa", nhưng
đối với công chúng Pháp, Malraux đã mập mờ đóng vai chính uỷ nhân dân,
trong
cách mạng Trung Hoa. Chưa hết, những cuộc phiêu lưu Trung hoa của ông,
sau đó,
nhất là cuộc phỏng vấn trứ danh Mao Trạch Đông, vào năm 1965, chỉ là đồ
dởm. Một
nhà nghiên cứu về Trung hoa, người Pháp, mới đây đã làm một so sánh,
miêu tả của
Malraux về giai đoạn này, trong Phản-Hồi
ký, với của thông dịch viên của Mao,
được tiết lộ cho Vệ Binh Đỏ, và được in ra trong thời kỳ Cách Mạng Văn
Hoá; và
với tài liệu xuất bản tại Pháp, lấy ra từ Tòa Đại sứ của họ tại Bắc
Kinh. (Xin
coi J. Andrieu, "Nhưng Mao và
Malraux đã nói những gì?, in trong Triển Vọng
Trung hoa, Perspectives Chinoises,
số 37, Oct 1996). Hóa ra là, cuộc phỏng vấn
lớn lao của thế kỷ chúng ta, kéo dài 3 giờ đồng hồ, giữa hai ông khổng
lồ cách
mạng gia-triết gia, thực sự chỉ kéo dài 30 phút, và chỉ là trao đổi
ngoại giao
tầm phào. Nhưng Mao, có thể lỡ miệng, đã đưa ra một lời cảnh cáo, rằng
nhà văn,
trí thức đã bị hư ruỗng tới tận xương tủy, và đám trẻ cần được sử dụng,
để chống
lại cái xấu phản cách mạng này. Năm sau, cuộc Cách Mạng Văn Hóa khủng
khiếp đã
bùng nổ. Một phóng viên nhà nghề, khoan nói một nhà văn, đã ngửi ra một
cái gì
đó - khoan nói mùi thuốc súng, mùi người chết - và chụp lấy cơ hội ngàn
năm một
thuở này, nhưng Malraux đã không được thính mũi như vậy. Và Mao sau đó,
không
thể kiên nhẫn hơn, đã đưa ra một lời kết luận cụt ngủn.
Nabokov, vốn
coi Malraux là "nhà văn hạng ba", đã ngỡ ngàng về sự say mê nhà văn
Pháp này, ở ông bạn phê bình người Mỹ, Edmund Wilson: "Bộ anh nói dỡn
hả?".
Ông nhận xét Phận Người, khi
nhắc lại một kỷ niệm khi còn là con nít, và đã từng
say mê tấm bảng hiệu bằng vàng: "Công ty Quốc Tế Xe Lửa Tốc Hành Âu
châu" (Compagnie Internationale des Wagons-Lits et des Grands Express
Européens). Tác phẩm của Malraux thuộc về "Công ty Quốc Tế Những Bản
Kẽm Lớn"
(Grands Clichés). Thùng rỗng kêu to.
Không phải ở
Mỹ, mà ngay ở Pháp, Sartre chẳng hạn, đã sớm nhận ra điều này: "Vâng,
Malraux có một văn phong, nhưng đâu phải thứ tốt". Thư viết cho Simone
de
Beauvoir, ông nói rõ hơn: "Phận Người
là một thiên tai, với những đoạn văn
ngớ ngẩn, những trang sách nhàm chán." Về cuốn Hy Vọng, "đầy những tư
tưởng ở trong đó, nhưng Chúa ơi, sao chán quá! Tay này thiếu một cái gì
đó. Và
thiếu một cách tệ hại." (Jean-Paul Sartre, Thư cho Castor - biệt hiệu của
S. de Beauvoir).
Điều làm
Simon Leys bực bội nhất, đó là, vào năm 1935, Boris Souveraine, bí thư
của Đệ
Tam Quốc Tế, trốn khỏi Moscow, qua Paris. Ông viết một cuốn sách - tài
liệu nghiên
cứu sự nghiệp chính trị bằng sát nhân của Stalin. Tác phẩm lớn lao, can
đảm, lột
trần những tội ác của ông trùm đỏ, bây giờ vẫn còn giá trị, được tái
bản vào
năm 1977, không lâu trước khi Souveraine mất. Lần tái bản, trong bài mở
đầu,
tác giả nhớ lại những trở ngại xấu xa, thô bỉ mà ông đã phải đương đầu,
khi
toan tính in nó ra, lần đầu tại Paris. Vào lúc đó, đám trí thức đã
tránh né ông
như một bệnh dịch, một thứ cùi hủi. Malraux có thể nói với Gallimard
vài lời,
cho cuốn sách được xb dưới bảng hiệu này. Nhưng ông từ chối. Được cái,
ông nói
thẳng với tác giả: "Souveraine, tôi tin rằng anh và các bạn anh đúng.
Nhưng trong tình hình này, đừng trông mong ở tôi. Tôi sẽ ở phía các
anh, khi
các anh ở trên đỉnh. (Tôi sẽ ở với các anh, khi các anh là những kẻ
mạnh nhất.
Je serai avec vous quand vous serez les plus forts. Boris Souveraine,
"Staline", Paris, nhà xb Champ Libre 1977).
Simon, trích
dẫn Einstein, theo đó, những tư tưởng hay vốn hiếm, từ đó, ông suy ra,
trong
trường hợp Malraux, có hai sự thực quan trọng ám ảnh ông:
1- Malraux vốn
thờ phụng, và suốt đời mơ tưởng bắt chước người hùng sa mạc T. E.
Lawrence;
nhưng cuối cùng nhận ra, nhân vật hàm hồ này không thể nào bắt chước
được. Ông
thú nhận với Roger Stéphane: "Trên thực tế, (Lawrence) chẳng muốn gì
hết.
Thật vô phương, làm một người không muốn gì hết. (It is prodigiously
hard to be
a man who wants nothing. R. Stéphane, A. Malraux, Entretiens et
Précisions.
Paris, nhà xb Gallimard 1984, p. 91).
2- Ngay đầu
Phản-Hồi ký, Malraux đưa ra cảm nghĩ, có thể coi như đối trọng
với cái khối Bản
Kẽm Lớn kể trên. Khi hỏi một ông cha, học được gì, sau bao nhiêu năm
lắng nghe
nhân sinh xưng tội, ông cha trả lời: "Nói cho cùng, chẳng có vĩ
nhân."
Kết luận bài
điểm sách, tác giả kể giai thoại, lấy ra từ cuốn tiểu sử Malraux của
Cate; lần
gặp gỡ giữa Malraux và Hemingway, khi Paris vừa được giải phóng. Nghe
nói
Hemingway đang cùng đám lính tuỳ tùng "giải phóng" khách sạn Ritz,
Malraux thắng bộ quân phục đại tá, vai 5 vạch bạc, tới "hỏi tội" tác
giả "Chuông Gọi Hồn Ai":
-
"Bonjour, André," Hemingway nhẹ nhàng nói.
-
"Bonjour, Ernest," Malraux trả lời.
- "Anh
chỉ huy bao nhiêu đệ tử?", Malraux hỏi.
- "Cỡ
mười, mười hai mạng. Nhiều nhất, hai trăm.".
Là phóng
viên chiến trường, Hemingway thấy không cần phải khoác lác về binh sĩ
dưới quyền.
- "Còn
tôi, hai ngàn."
Cái này thì
thực tình không chờ đợi. Lại càng khó nuốt trôi.
- "Tiếc
thật, khi giải phóng thành phố Paris nhỏ bé, đám này đã không nhờ đến
sự trợ
giúp của đằng ấy."
Nói gì thì
nói, cá nhân người viết đã có thời say mê Malraux, cho tới bây giờ vẫn
chưa
"dứt ra được". Vả chăng, một nghệ thuật, cho dù dởm đi chăng nữa,
cũng vẫn "chết người" như thường.
Trong Hồi Tưởng
& Hoang Tưởng, D. M. Thomas nhắc tới Pasternak, nghệ thuật
là những ngã ba,
ngã tư định mệnh, nơi gặp gỡ của mơ mộng, tình yêu, và cái chết.
Zhivago nói:
nghệ thuật luôn luôn là suy tưởng về cái chết, và từ đó, sáng tạo ra sự
sống.
Nhưng theo D. M. Thomas, trường hợp ngược lại, cũng đúng luôn. Ông giải
thích
thêm, không phải những trang sách của tôi là một kẻ sát nhân, nhưng từ
đó vang
lên, tiếng cuời sảng khoái của quỷ. Cũng theo ông, không phải nghệ
thuật thực,
mà ngay cả "bad art", hay "non-art", cũng rứa. Và ông kể lại
một kinh nghiệm; lần đọc thơ cho một số sinh viên. Bài thơ của ông,
thật chỉ đáng
vứt vô thùng rác, (ông nghĩ vậy), nói về một con chim nhỏ. Trước khi
mọi người
trong phòng có thể can thiệp, Lucina, con mèo xám của ông đã tha chú
chim non
đi mất. Sau đó, một đồng nghiệp của ông bước vào phòng, bàn tay khum
khum nương
nhẹ một vật gì. "Tôi thấy ở bên ngoài. Có người nào giúp tôi, phải làm
gì
với nó?" Ông mở ra, là con chim nhỏ bị thương. Mấy người sinh viên lại
nghĩ, đây là một vở kịch hai ông thầy dàn dựng. Chẳng ai biết làm gì.
Người đồng
nghiệp sau đó đã "đặt chú chim non lên mặt đường, nơi đậu xe, rồi lên
xe mở
máy, cán con vật bẹp dí. Và sau đó, ra khỏi xe, nôn thốc nôn tháo."
Cũng chỉ là
hậu quả của những chiếc mặt nạ. Người quen đeo mặt nạ, đóng tuồng, cuối
cùng bị
mặt nạ hút hết sinh khí, trong khi nhân vật của Oscar Wilde trẻ hoài,
để cho bức
chân dung của anh già, xấu xa, ghê tởm mãi đi. Đâu là giả, đâu là thực,
nhưng
qua những trang sách "làm dáng" đó, nói theo Thomas, có thể vang lên
tiếng cười khoái trá, của con quỷ chiến tranh?...
Làm dáng,
hãy thử tưởng tượng anh chàng Perkin, trong Con đường Vương giả (La Voie
Royale), nhúng viên đạn rỗng vào vết thương, bắn lên chiếc đầu
bò khô cho nhỏ
máu, trước những con mắt khiếp đảm của thổ dân, những "người trần mắt
thịt".
Như Malraux khẳng định, nhân nói về Dostoevsky, "một cuốn tiểu thuyết
thực
luôn có một đề tài thực, đó là điều tác giả thực sự quan tâm, cho dù
biết hoặc
không biết", ở đây (La Voie Royale)
là một tố cáo phận người.
Ngay cả
Simon Leys, sau khi đọc cuốn tiểu sử Malraux của Cate, cũng phải công
nhận một
sự kiện giản dị: Malraux hiển nhiên là một thiên tài. Nhưng ông thêm
vô: tuy
nhiên, ông ta thực sự thiên tài như thế nào, điều này không có chi là
rõ ràng.
Gần như tất cả những ai có dịp thân cận, quen biết Malraux, đều bị ông
ta hớp hồn,
tôi không nói những người ngu si, hoặc vô danh, mà là những nhà văn nổi
tiếng,
nhiều người gấp đôi tuổi ông. Khi trẻ, đối với họ, ông là một thần
đồng. Trung
niên, một anh hùng. Về già, một nhà tiên tri. Trotsky, thời gian lưu
vong, sau
lần gặp nhà phiêu lưu trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, đã ngay lập tức viết
thư cho
nhà xuất bản của ông ở New York, yêu cầu họ, phải cho ra lò liền, một
bản Anh
ngữ Phận Người. André Gide, một Goethe của nước Pháp, lớn hơn Malraux
30 tuổi
đã "kín đáo than phiền", không thể theo kịp ngọn lửa văn chương, chẳng
lúc nào chịu tắt, ở nơi con người tuổi trẻ tài cao, trong lần hai người
gặp gỡ.
Ngay Malraux cũng khẳng định: Tôi không mắc mớ gì với đám ngu si đần
độn, (điều
này biết đâu giải thích, ông là nhà văn tồi: bởi vì cuộc sống, nói cho
cùng, chỉ
là một cuộc đối thoại với những kẻ ngu đần?). Những sự kiện trên càng
làm cho
Malraux thành công, đối với phái đẹp. Người vợ đầu - sau khi ông đã
nướng sạch
gia tài của bà vào ba trò đánh bạc, chơi stock market, và đã trả lời vợ
một
cách ngang bướng: Em không thấy anh đang làm việc sao? - khi bà toan
tính viết
lách, ông cảnh cáo: "Là vợ anh tốt hơn là một nhà văn hạng nhì." Ngay
tướng de Gaulle cũng mê vị bộ trưởng văn hóa của ông, khiến đám đồng sự
của
Malraux, lúc đầu ngỡ ngàng, sau đành kết luận: "Malraux khùng, nhưng
thôi
cứ để cho hắn ta 'mua vui, giải sầu cho Đại Tướng."
Bản thân người
viết cũng đã trải qua kinh nghiệm mua vui, giải sầu này rồi. Những ngày
Mậu
Thân. Cũng lại một hóa thân của anh chàng Perkin, trong tăm tối đêm
nào, đứng
chết trân trước căn hộ, trong một con hẻm chỉ có tiếng mèo kêu thảm
thiết, tiếng
chuột chạy trên đám lá khô... chờ cho cơn cuồng nộ tàn lụi dần rồi thất
thểu bò
ra đường lộ, trời/đất/người/thành phố giới nghiêm, đèn điện tắt ngúm,
mũi súng
sâu đen ngó vô mắt, "làm gì có cái chết mà chỉ có tôi đang chết..."
(La Voie Royale).
Nguyễn
Quốc
Trụ