TẠP GHI
|
Chuyện Tình
Tatyana
Tolstaya, trong bài điểm sách trên NYRB Nov 20, 1997 - "Những Giấc Mơ
Mùa
Hè Nga-xô của tôi" (tác giả Andrei Makine - Geoffrey Strachan dịch từ
nguyên bản tiếng Pháp: Di chúc Pháp, Le Testament francais - nhà xb
Arcade, 241
trang) - coi đây là một chuyện tình, có tới hai người đàn bà. Hai bà
mẹ: bà mẹ
Nga, và bà mẹ Pháp.
Thật sự chỉ
có một, bà mẹ Nga. Một tình yêu kỳ lạ, sâu thẳm, hơn hẳn thứ tình yêu
một người
đàn bà. Không thể cắt nghĩa, không thể chia sẻ, nhức nhối, là tình yêu
dành cho
xứ sở vốn được coi là mẹ, "người nữ" Nga" (Russia’s
"feminine" being).
Khác với
Pasternak với một Lara, ở đây, những người như A. Makine, "họ trốn
chạy,
thứ tình yêu như vậy. Họ cố tự cứu mình. Thất bại, họ trù ẻo, viết
lách, và hát
hỏng về nó, họ nhận được giải thưởng, bằng khen, ở nơi quê người, hay
là quê
hương lưu đầy, vương quốc hải ngoại bịa đặt của họ." Tác giả Dr. Zhivago cuối cùng phải "tôi chọn
mẹ tôi" và từ chối giải Nobel. Với "Giấc Mơ Hè", lòng tự ái, tự
hào Nga chắc chắn là rất thỏa mãn. Bởi vì trường hợp đoạt giải văn
chương Pháp
của "Giấc Mơ" thật đáng gọi là một scandale văn học (T. Tolstaya).
Anrdei
Makine, một người Nga có một gốc gác Pháp thật mù mờ, đã đoạt hai giải
thưởng
văn chương thuộc loại hách xì xằng nhất, dành cho một cuốn sách viết
bằng tiếng
Pháp, tại Pháp, viết về nước Pháp: giải Goncourt, và Médicis, chưa kể
"Lycée Goncourt", do sinh viên trao tặng.
Tuy nhiên,
bà mẹ Pháp chỉ là mặt nổi của tác phẩm. Phần chìm của nó mới khủng
khiếp.
"Vào thời đại của chúng ta, hình như bạn phải sinh ra tại Nga, phải
trải
qua 30 năm ở đó, nơi mà sự độc ác và mơ mộng tạo thành một khối ngược
ngạo (điều
này, lẽ dĩ nhiên, đã cũ mòn, chỉ là một trò làm dáng, nhưng vẫn thực),
nhờ vậy
mới có đủ đam mê, có đủ quyền năng để mà hoang tưởng ra một xứ sở kỳ
diệu như
thế: một nước Pháp chẳng hề hiện hữu. Nếu có chăng, chỉ bằng ngôn từ,
và những
giấc mơ."
Làm
sao mà cuốn sách lại vớ được cả hai giải
thưởng, là cả một câu chuyện trinh thám. Trước đó, tác phẩm của Makine
đã bị những
nhà xuất bản vứt vào thùng rác. Nhà văn của chúng ta sống trong sự
nghèo đói, gần
chết đói thì đúng hơn, đêm ngủ nghĩa địa, ngày viết văn tại những băng
ghế
trong công viên. Cuối cùng gần như hết còn chịu đựng nổi, ông thử liều
lần
chót: coi tác phẩm viết bằng tiếng Pháp như là bản dịch từ một nguyên
bản
"ma", bằng tiếng Nga, lẽ dĩ nhiên! Chỉ lúc đó, nó mới gây sự chú ý.
Thành công bất ngờ làm cho Makine phải đương đầu với những khó khăn
không chờ đợi:
nhà xuất bản cuốn thứ nhì đòi tác giả trưng ra nguyên bản tiếng Nga!
Ông lại phải
cuống cuồng dịch chính cuốn sách của mình. Cuốn thứ ba, mà chúng ta
đang bàn,
may mắn được nhà xuất bản Gallimard để mắt tới. Và gặt hái được những
vinh
quang không thể tưởng tượng nổi. Một người ngoại quốc! Chao ôi! Kẻ Lạ!
(L'étranger)!
Giấc mơ Pháp
thuộc về truyền thống cổ xưa, của Nga. Một người Pháp lẽ dĩ nhiên chẳng
hề mơ mộng
như vậy: anh ta sống ở đó. Những người ngoại quốc khác, nếu mơ đi Tây,
cũng thường
thôi: dành dụm tiền bạc, rồi làm một chuyến ngao du. Người Nga, sau bao
thập kỷ
bị nhốt phía sau bức màn sắt, họ nghĩ ra những giấc mộng hải hồ chẳng
giống ai,
chẳng ai có thể nghĩ ra nổi. Không phải ngẫu nhiên, suốt thế kỷ 19,
tiếng Pháp
được coi là ngôn ngữ học đường tại Nga, dấu hiệu cho thấy thuộc về giai
cấp ở
trên. Không phải một chọn lựa may rủi, sau cơn động đất đổ nhà đổ cửa,
Cách mạng
1917, người Nga đã đổ xô qua Pháp. Sau khi không còn bức màn sắt, đi Mỹ
là những
kẻ "thực dụng"; những con người "lý tưởng" vẫn chọn Pháp.
"Này,
thấy Paris thế nào?", (Well, what is Paris like?), T. Tolstaya đã từng
hỏi
một ông bạn thi sĩ, vào năm 1987. Ông này mới trải qua một tuần, lần
thứ nhất
trong đời, ở Paris. "Y chang trong mộng, của tụi mình!" Không chỉ vì
nó đúng như tất cả những giấc mơ, nhưng Paris "không thể" làm thất
vọng,
bất cứ một hoài vọng nào, về nó.
Tới
gần hết cuốn sách, người đọc mới biết tên
người kể chuyện là Alyosha. Cuộc đời của anh như rong ruổi cùng với của
tác giả,
theo nhiều đường khác nhau. Mùa hè thơ ấu nào, anh cũng trải qua, với
bà ngoại
người Pháp, tại một thành phố nhỏ Nga, hầu như một làng quê, nơi thảo
nguyên.
Anh và người em gái, cũng không có tên trong truyện, cả hai ngồi tại
bao lơn,
chiều nào cũng vậy, dưới một ngọn đèn, ngoan ngoãn nghe bà ngoại kể
chuyện. Những
câu chuyện về một nước Pháp, La Belle Époque, của bà. Người kể chuyện
không phải
là đứa bé. Anh ta nhớ lại thời thơ ấu chằng chịt của mình, bằng một
giọng người
lớn, ảnh hưởng Proust. Những đứa trẻ không tên, "dửng dưng một cách lạ
lùng về cha mẹ không tên của chúng", trải qua mọi mùa hè trong cái thế
giới
chưa từng hiện hữu đó: chẳng có một trò chơi con nít, những vụ đánh
lộn, những
thảm kịch tuổi thơ như chúng ta hiểu. Đồ chơi của chúng là cũng từ bà
ngoại, bộ
sưu tập có tên là Verdun, do một sĩ quan Đệ Nhất Thế Chiến tặng bà.
Không gian
của mấy đứa trẻ chỉ là khoảng bao lơn nhỏ, với những dây leo, những
bông hoa. Họa
hoằn, chúng được xuống sân, vốn là nơi tụ tập của mấy kẻ vô lại, say
sưa, và thật
đáng sợ, thật xa lạ đối với chúng. Ấp ủ trong làn gió ấm áp từ thảo
nguyên thổi
tới, mùi hương hoa nhẹ nhàng, tiếng xột xoạt của mấy tờ báo bà ngoại
lấy ra từ
trong rương, âm nhạc - tiếng nói Pháp, thơ Pháp, những bức hình ố vàng
của một
thời đã qua: đấy là thế giới huyền diệu của chúng. Chiều chiều, bà ngồi
may mãi,
vẫn một cái áo, bên những đứa trẻ ngồi yên lặng dưới chân. Những thì
thầm của một
thứ tiếng nói ngoại quốc. Thế giới đã biến dạng. Ngôn ngữ-hát xa lạ kia
bỗng tạo
nên những hoang tưởng thị giác: xa xa, dưới thảo nguyên, từ từ dâng lên
một
thành phố. Ôi chao, có phải phép lạ của thảo nguyên hay không? Không
phải, đây
chỉ là quyền năng huyền diệu do trí tưởng tượng trẻ thơ tạo nên: đứa bé
không
biết bà ngoại đang kể về trận lụt ở Paris, vào năm 1910.
Làm
sao Charlotte Lemonier, bà ngoại người
Pháp của chúng, lại sống những ngày cuối cùng của bà tại Nga? Cha của
bà, một
bác sĩ người Pháp, làm việc ở một thành phố vùng Sibérie: trước Cách
Mạng, Nga
vốn là nhà cho rất nhiều người nước ngoài. Sau khi cha chết, bà mẹ
Charlotte đã
không muốn, hay không thể trở về Pháp. Yếu đuối, lại cô đơn, bà trở nên
nghiền
morphine. Mỗi năm, bà đi du lịch Pháp một lần, với cô con gái. Cô thấy
mình lạc
vào một thế giới khác, khác hẳn cái thế giới nghèo nàn tỉnh lỵ ở
Sibérie. Trong
một lần, bà trở lại Nga một mình, để cô gái ở lại Pháp. Đó là năm 1914,
Đệ Nhất
Thế Chiến bắt đầu. Cô gái gặp lại mẹ khi trở về Nga, vào năm 1921. Cánh
cửa Nga
đóng chặt lại vĩnh viễn từ đó.
Cuộc
đời của bà thật là ghê rợn. Qua đó, đứa
cháu trai được biết lịch sử Nga: Độc ác, tàn nhẫn, nhà tù, trại tập
trung, tình
trạng vô pháp luật. Cứ thế, cùng với năm tháng của người kể chuyện, bà
mẹ Nga,
bà mẹ Pháp trộn lẫn. Anh cũng cả hai, vừa Nga vừa Pháp. Nếu tuổi thơ
của anh,
trong cõi mơ mộng đó, anh "Pháp nhiều hơn Nga", càng lớn, anh càng
"Nga hơn Pháp". Anh không muốn là Pháp nữa. (Sự thực về) nước Nga
càng khủng khiếp, càng ghê rợn bao nhiêu, anh càng muốn ôm chặt lấy nó
bấy
nhiêu. Bà ngoại anh mạnh hơn anh, mạnh hơn là sự nổi loạn của anh, nhằm
chống lại
bà. Bà sống qua cái chết của không biết bao nhiêu người thân sơ, qua cả
chuyện
bản thân bà bị hãm hiếp, yêu chồng, bị dầy vò, xâu xé bởi tình yêu của
một xứ sở
đã cưu mang (adopt) bà, và không thể rời bỏ nó; cũng như không thể
không yêu
thương đứa con, kết quả của vụ hãm hiếp; (bà yêu cả hai, con chồng, con
riêng bất
đắc dĩ đó, bằng cùng một tình yêu thương đồng đều). Bà không chịu,
không muốn
chết. Bà thật cũng khó chết, không thể chết được: bà là một nhan sắc
(đứa cháu
vẫn còn nhớ rõ, qua những hồi tưởng trở đi trở lại trong truyện); một
bà phù
thuỷ (đã từng sống sót qua những hoàn cảnh khốn nạn nhất, khủng khiếp
nhất: chiến
tranh, đói khát, chân trần lặn lội "gần quá một nửa" nước Nga); một
người thuần hóa dã thú: đã từng xoa dịu cơn hung dữ của một kẻ say, ru
ngủ một
người đàn bà nhà quê kiệt sức, đã vượt qua cả một thời đại thù hằn giai
cấp, chủng
tộc; bà cũng còn là một "poisoner": bà đã tẩm vào người mấy đứa cháu
một chất độc, đó là cơn mơ mộng chết người của bà, khiến cho người kể
chuyện
không biết đâu là Nga, đâu là Pháp ở trong anh. Bà mang theo suốt cuộc
đời, giấc
mơ nước Pháp, như một câu chuyện thần tiên, về một nơi chốn chưa từng
hiện hữu.
Bà ngoại là nước Nga hiện thân, với tất cả số mệnh Nga của nó: Xấu xa,
ghê tởm,
tục tĩu, yêu thương, mơ mộng, hỷ xả, nhẫn nhục, thánh thiện...
Người kể,
vào cuối chuyện, đã tìm cách trốn khỏi Nga, qua Pháp. Anh cố gắng trở
thành nhà
văn. Anh muốn mang bà ngoại qua Paris, nhưng sau cùng được tin bà mất.
Một năm
sau khi bà mất, anh nhận được thư của bà... Ở đây, có một bí mật mà
người điểm
sách muốn dành riêng cho độc giả, "mà tôi không muốn viết về nó, bởi vì
không muốn huỷ hoại niềm vui của họ" (T. Tolstaya).
Nguyễn Quốc
Trụ
|