30
tháng Tư 2002, nhìn lại văn học hải ngoại
1.
Lời Ước
Nhìn
lại thế kỷ, tuần báo Văn Học Nghệ Thuật trên lưới
(internet), do Phạm Chi Lan chủ trương, có làm một cuộc phỏng vấn bỏ
túi
(mini). Trong số những câu hỏi có một: Anh/Chị coi Y2K là một ý niệm
hay một sự
kiện?
Văn
học hải ngoại hình như mang cả hai yếu tố - như một ý
niệm, khi vẫn luôn luôn phải nhìn lại chính nó, tự hỏi về chính nó,
liệu có một
dòng văn học hải ngoại, sau cuộc tháo chạy tán loạn, mất quê hương,
chọn biển
cả thay vì đất liền, để dựng nước mới.... - hay như một sự kiện quan
trọng:
cùng nhân loại chấm dứt thế kỷ hung bạo, với những biểu tượng của nó là
Hitler
và Lò Thiêu, Stalin và trại cải tại, Pol Pot và cánh đồng giết người...
Trong
một truyện cực ngắn, Lời Ước, Walter Benjamin kể
chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người Do Thái, từ xóm đông xóm đoài
kéo
nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng. Chuyện bá láp một hồi,
một ông
đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời ước của mình. Thôi thì đủ
thứ ước
ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu nhập, thêm chiếc xế... Khi
đã chán
chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ" ngồi thu lu ở một góc. Chẳng ai
biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra một nhân vật cái bang. Anh ta
cũng không
tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước của mình:
-Tôi
ao uớc được làm một vị hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì
một vương quốc thẳng cánh cò bay; một đêm đang ngủ trong tòa lâu đài
của tôi,
quân thù thình lình vượt biên giới và trước khi ánh dương đầu tiên xuất
hiện,
đám giặc đã vào tới bên trong lâu đài... Tôi chẳng còn đủ thì giờ vớ đủ
bộ quần
áo, cứ thế chạy trối chết, ngày này qua ngày nọ, đêm này qua đêm khác,
cuối
cùng tìm được một chỗ trú ẩn, là góc quán này. Đó là lời ước của tôi.
Cả
bọn, người nọ ngó người kia, chưng hửng
-Thế
anh có thêm được một món đồ nào không?
-Có,
một chiếc áo thun!
Liệu
chúng ta có thể nhìn lại văn học hải ngoại, bắt đầu
bằng lời ước của nhân vật cái bang kể trên?
Thật
khó mà quên được lời ước, với bất cứ một người Việt nào
đã từng kinh nghiệm cuộc bỏ chạy tán loạn. Nhưng với thời gian, nó biến
đổi,
hoặc bị những lời ước khác, tức thời hơn, khẩn cấp hơn, làm quên lãng.
Những
tác phẩm văn học hải ngoại những năm gần đây cho thấy,
hai mặt của cùng một lời ước đó. Có những cuốn sách mà "người ta" cho
rằng, đã hội nhập, không còn hoang tưởng, hết còn ở trong ghetto. Ở
đây, cần
phải nói rõ một điều, người ta đã lầm lẫn, hoặc đã cố ý đồng hoá, một
tác phẩm
văn học với một hiện tượng xã hội. Và cái ghetto mà người ta ngụ ý một
số nhà
văn hải ngoại đã vượt ra ngoài được chính là cái ghetto VNCH. Nhưng cho
tới
nay, chẳng hề có một tác phẩm văn học nào hoang tưởng đến độ, muốn dấy
lên một
cuộc chiến, để tái lập một chế độ. Và cũng chưa có tác phẩm nào cho
thấy, con
người Việt Nam đã hội nhập thực sự ở quê hương mới. Tôi thật sự không
tin,
những tác giả của những cuộc tình chốc lát ở nơi đất người, trong lúc
kiếm
sống, lại tự hào mình đã hội nhập! Họ thực ra là đã từ bỏ đề tài những
năm ngay
sau 1975, mà chủ yếu là tố cáo cái ác của chủ nghĩa cộng sản, và hậu
quả của
nó, những thảm họa khi vượt biển tìm tự do. Bây giờ, hoặc là đề tài này
không
còn ăn khách, hoặc là chính tác giả của chúng cũng chán, hoặc nội lực
không đủ
để đương đầu với nó, bèn quay ra kể chuyện cuộc sống thường nhật của
người
Việt, đã có một công ăn việc làm ổn định, đã có va chạm chút xíu với
người bản
xứ. Va chạm chút xíu, nhưng không phải là xung đột, bởi vì ở đâu có hội
nhập, ở
đó có xung đột; theo nghĩa, anh mới tới muốn nơi đây thoải mái như là
nhà của
mình, còn chủ nhà thì muốn chui vào tận trong ngõ ngách tâm hồn người
khách, để
coi nó có gì khác ta.
Nhà
văn, nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Nếu
những năm sau 1975, đề tài trại cải tạo, vượt biển có lượng nhưng thiếu
phẩm,
trong những năm gần đây, đề tài này trở lại, trầm hơn, nặng hơn, và dĩ
nhiên
chất lượng hơn. Ở những tác phẩm trước đó, tác giả thi nhau tố cáo cái
độc, cái
ác, và những đau khổ mà bản thân hay gia đình, và đất nước đã phải chịu
đựng.
Vô tình, chỉ có tính chính trị, thời cuộc. Kundera đã chỉ đích danh tác
phẩm
được coi là khuôn mẫu của văn chương chống cộng, cuốn 1984 của Orwell:
đây chỉ
là chính trị giả danh văn chương. Tác phẩm 1984 giản lược chế độ cộng
sản vào
danh sách những tội ác của nó, và như thế, vô hình trung, cũng rơi vào
thế giới
xám xịt của những trại tù! Rồi ông chứng minh, ngay cả trong thế giới
mê cung
là Vụ Án, hay Lâu Đài, nhân vật của Kafka cứ hở được chút nào là loay
hoay kiếm
một cái cửa sổ, để thở! Và ông nhặt ra được không biết bao nhiêu là chi
tiết
thơ, trong một thế giới không thơ, tức thế giới toàn trị.
Hơn
nữa, khi hăm hở tố cáo, chính nạn nhân không biết, không
còn có thì giờ nhận ra, cái phần tha hóa ở nơi họ: bất cứ một con người
nào, ở
trong thế giới đó, cũng bị tổn thương. Nói như Todorov, chủ nghĩa cộng
sản là
thử nghiệm tối hậu về đạo đức của con người. Nhân vật chính, viên sĩ
quan trong
Đá Mục của Thảo Trường, có vẻ như thấy hết, hiểu hết, và tỏ ra có một
thái độ
vượt lên khỏi những đau thương, giận dữ; nhưng được như vậy, là nhờ đệ
tử, một
anh lính truyền tin. Anh này làm độc giả nhớ tới nhân vật chính trong
Một ngày
trong đời Ivan Denisovich, của Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục chắc khó
quên
"xen" đệ tử kiếm việc làm nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ lầm lẫn
trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là của con heo đực).
Thảo
Trường đi tù tất cả 17 năm. Qua đây, ông đã cho xuất
bản liền mấy cuốn, riêng trong năm qua là Đá Mục và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu
Quả .
Trong một phỏng vấn trên đài Kicon, mạng Internet, ông cho biết, trong
tù ông
cứ thế nghiền ngẫm, và đã "bỏ túi" năm bẩy cuốn sách, qua đây tuần tự
xuất bản. Ông sống lại một lần nữa thời gian dài 17 năm. Nhưng nếu
chúng ta
theo sát những bài viết của ông, sẽ nhận ra, đã có dấu vết thay đổi,
giữa những
truyện ngắn đầu, và mới đây. Tác giả tuy bỏ túi vài tác phẩm thực,
nhưng khi
viết ra, nó không giống như là lúc ông còn ở trong trại tù, đã tưởng
tượng mặt
mũi của chúng. Ông ngày trầm hơn, văn ngày thấm hơn, vượt lên nỗi cay
đắng còn
đè nặng hồi ức những ngày tù.
Ở
Lâm Chương cũng vậy. Khi trả lời phỏng vấn, hình như ông
cho biết, chỉ vào nhà tù, ông mới biết căm thù nghĩa là gì. Nhưng càng
viết,
ông càng bớt căm thù. Bởi vì, hận thù, với một nhà văn, là thất bại của
trí
tưởng tượng. Trong truyện của ông, người đọc nhận ra những cay đắng,
nhưng còn
nhận ra, vết thương đang lành. Trong một bài tổng quan, thật khó mà đưa
ra chi
tiết chứng minh, hy vọng sẽ có dịp được viết rõ hơn về từng tác giả. Vả
chăng,
khi người ta "trung thành" với một điều gì, cùng lúc người ta
"phản bội" một điều khác: chống Cộng, ở một số nhà văn Miền Nam mang
tính công dân (thù nhà, nợ nước?), hơn là mang chất văn chương.
Chính
chúng ta, độc giả, khi phải nhìn lại (đọc lại) một số
tác phẩm văn học, cũng thấy mình đã đổi khác. Tác phẩm có thể vẫn vậy,
nhưng
con người đổi khác. Trước đây, những độc giả Miền Nam thật khó mà chấp
nhận một
tác phẩm của một người ra đi từ Miền Bắc, lại có thời rất thân cận với
cung
đình Bắc Bộ Phủ, như Vũ Thư Hiên. Và người ta nhận ra một điều, ngay cả
những
lúc phải "ăn nằm" với chế độ toàn trị, tiếng nói của một miền đất vẫn
giữ riêng cho nó một khoảng cách. ["Đi tù với một bông hồng", là tên
một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa, trên báo Diễn Đàn, về tác phẩm "Đêm
Giữa
Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên.] Rõ rệt nhất là ở Lê Minh Hà, với hai tác
phẩm
xuất bản liền trong hai năm vừa qua, Trăng Góa, và Gió Biếc.
Có
người cho rằng ở Lê Minh Hà, truyện không ra truyện, tủn
mủn, manh mún. Với Gió Biếc (1999), có người chỉ thấy những cảnh đời
nhếch nhác
của một số người Việt, phải bỏ nước ra đi, rồi cố tìm cách để khỏi phải
trở về.
Nhưng vẫn như trong trường hợp Kundera nói về sự khác biệt giữa Orwell
và
Kafka: Bạn phải kiếm cửa sổ để mà thở, thay vì cố chứng minh, đây là
những nhà
tù!
Vẫn
có những tác giả đã không thể quên ước mơ thoạt đầu,
ngày xưa. Họ không nói tới, nhưng chúng ta cảm thấy, qua cách viết, qua
hành
động của nhân vật. Trong truyện ngắn Biển (của Miêng) là chia sẻ tấm áo
thun, ở
đây là những giọt lệ nhỏ xuống cho một kẻ điên khùng, không còn nhận ra
chính
mình, nhưng lại nhận ra người vợ, và qua đó, những đứa con đã chết trên
biển
cả. Hay như Kẻ Lạ (của Hồ Như), khi trở về, và nghe quê hương xì xào:
Kìa ai
như Cô Thắm... Hay như nhân vật trong truyện Trở Về (tạp chí Hợp Lưu)
của Phạm
Hải Anh, về để thấy rằng, quê hương không từ chối anh. Hay như nhân vật
Nữ Độc
Thủ của Linda Lê la lên: Ông ta chết rồi, hãy để cho ông ta yên thân!
Theo
tôi, văn chương Việt hải ngoại trong năm 1999 là một
năm được mùa. Mùa gặt mới, trong đó có cả lúa chín muộn: sự góp mặt của
một tác
giả như Trần Thị NGH. Đây là một tác giả trước 1975 tại Miền Nam, vừa
xuất hiện
đã gây chấn động giới viết lách ở Sài Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa
Khoá
Trái. Nếu trí nhớ không phản bội tôi, hình như truyện đầu tay của bà là
về một
người đàn ông có vợ, đến gặp một người đàn bà không chồng, nhưng có
con; thằng
nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng đi mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có
vậy, nhưng
tôi vẫn còn nhớ cái cảnh cô đơn của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ
ngơ ngác
ngác trước tiệm thuốc tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng
trộm. Ở
những truyện viết sau này (trong tập truyện ngắn do nhà Văn Nghệ xuất
bản, 1999),
nhân vật của bà vui hơn, tuy vẫn chưa quên được những người tình cũ,
cuộc đời
con gái, cũ.
Nếu
phải chọn một tác phẩm, tôi chọn tập truyện ngắn của
Miêng. Do cái phần tâm linh của nó, hơn là do cách dựng truyện, cách
dựng nhân
vật. Với Lê Minh Hà, tôi chọn ngôn ngữ, hơn là truyện ngắn. Có một cái
gì đó,
làm tôi phải tự hỏi: làm sao cái mầm sống của chữ nghĩa, của một miền
đất, sau
bao nhiêu đọa đầy, nhưng vẫn không chịu bị bẻ gẫy, ở đôi chỗ, vẫn tươi
mát đến
như vậy?
Walter
Benjamin, trong một truyện cực ngắn khác, Chữ Ký, kể
câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ hoàng Catherine, ở Nga. Vị cận thần
của bà,
Potemkine, đang trong cơn sa sút tinh thần trầm trọng, kéo dài ngày này
qua
ngày khác. Không ai được tới gần căn phòng của ông. Không ai dám xì xào
về căn
bệnh của vị cận thần sủng ái. Khổ một nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ trình
nữ hoàng,
là phải có chữ ký của Potemkine. Đám quan chức hàng đầu trong triều
không biết
phải giải quyết ra sao.
Bữa
đó, may quá, một viên chức thuộc loại vô danh tiểu tốt,
tên là Chouvalkine, không hiểu vì lý do nào, lại có mặt tại căn phòng
bầu dục.
Thấy mấy sếp mặt mày nhăn như bị, anh ta mới rụt rè vấn an, và khi biết
được sự
tình, bèn xung phong: để em xông vô phòng, với mớ giấy tờ cần chữ ký
của Ngài
Bí Thư. Mọi người thấy, đâu có mất gì, bèn gật đầu.
Chouvalkine
ôm mớ giấy tờ, mở cửa phòng, thấy Ngài Potemkine
đang ngồi mơ màng trên chiếc ghế bành. Anh tới gần, Ngài cũng chẳng
biết. Thế
là anh cầm cây viết, chấm mực, dí vào tay Ngài; và Ngài cứ thế ký lia
lịa, hết
tờ này tới tờ khác. Xong, anh trở ra. Mọi người vồ lấy mớ giấy đã được
thị
thực. Mở ra, tất cả các chữ ký, từ chính tay Potemkine, nhưng đều biến
thành...
Chouvalkine!
Với
câu chuyện cực ngắn Chữ Ký, chúng ta nhìn về trong nước.
Cái me-xừ Potemkine, phải chăng là chủ nghĩa hiện thực xã hội (thứ
thiệt?), mà
những anh chàng Chouvalkine vẫn hy vọng viết dưới ánh sáng của nó?
2.
Phượng Hoàng
Trong
một bài viết trên một tờ báo địa phương, tôi tình cờ
lượm được một chi tiết thật thú vị. Tác giả bài viết cho rằng, có thể
vì không
còn bám vào đất nữa, cho nên những nhà văn hải ngoại của chúng ta ngày
càng sử
dụng bừa bãi những con chữ. Ông nêu thí dụ, Mai Thảo, một lần chắc là
quá nhớ
Sài Gòn, bèn ghé thư viện Cornell, mân mê ba con chữ trước 1975, hiện
lưu trữ
tại đây. Sau khi đã cơn ghiền, ông rời "phần thư" trở về … đời
thường, tức là cuộc đời lang thang vô định nơi xứ người.
Tác
giả bài báo chê Mai Thảo dùng sai từ. Tại sao lại phần
thư? Phòng đọc sách, hay văn vẻ hơn, thì phải là… "thư phòng" chứ!
Mai
Thảo rời Việt Nam năm 1978 thì phải. Lần chót tôi nhìn
thấy ông, là một buổi sáng ngay sau ngày 30/4. Ông ngồi một mình trong
một quán
cà phê, hình như quán Sing Sing, một cái tên từ hồi "mồ ma" quân đội
Mỹ, ở đường Phan Đình Phùng. Quán chẳng có ai ngoài ông. Tôi gặp lại
hình ảnh
này, trên bìa số báo Văn tưởng niệm ông: một Mai Thảo ngồi trên băng
ghế bên
đường chờ xe buýt tại thủ đô Sài Gòn của người tị nạn. Chi tiết về
những ngày
rong chơi của ông trước mũi súng, trước cuộc săn người của Cộng Sản, đã
được
Nhã Ca ghi lại, trong Hồi Ký Mất Ngày Tháng. Như vậy là ông có chứng
kiến những
ngọn lửa đầu tiên của cuộc phần thư 1975. Tôi tin rằng, khi lênh đênh
trên một
con tầu giữa biển khơi, trong số những hình ảnh ông còn giữ được của
quê hương,
chắc chắn có hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt sách, những cuốn của ông, và
của bè
bạn. Ông biết rằng, chúng đều đã bị huỷ diệt. Bởi vậy, khi ông vào thư
viện
Cornell, là để đọc tro than của chúng.
Cũng
theo nghĩa đó, một khi những cuốn sách của Miền Nam,
sau này được chính nhà nước Cộng Sản cho in lại ở trong nước, điều này
chứng
tỏ: chúng đã sống lại từ lớp tro than, từ cuộc phần thư 1975.
Khi
phải nhìn lại 25 năm văn học của người Việt lưu vong,
tôi nghĩ nó phải như một loài phượng hoàng, cứ mỗi lần muốn tái sinh,
là phải
lao vào lửa.
Phượng
Hoàng
Es-tu
prêt à être effacé, nul, anéanti,
à
n’être rien?
Perdu
dans l’oubli?
Sinon,
jamais vraiement tu ne changeras
Le
phénix ne retrouve que sa jeunesse
que
s’il est brulé, brulé vif, jusqu’à se faire
chaude
et floconneuse cendre.
Alors
le frêle remuement d’un frêle être nouveau dans le nid
au
duvet léger comme cendre qui vole
montrer
qu’il a retrouvé pareil à l’aigle sa jeunesse,
Immortel
oiseau
(D.H.
Lawrence, Derniers Poèmes, bản dịch tiếng Pháp của
Roger Munier, trong Cahier de L’Herne, 1988).
(Tạm
dịch:
Mi
đã sẵn sàng chưa, để xóa nhòa, thành không, tiêu tùng,
để
chẳng là chi?
Chìm
vào quên lãng?
Nếu
không, mi đừng mong chi thay đổi.
Phượng
Hoàng chỉ tìm lại tuổi thanh xuân
khi
cháy rực như cây đuốc sống
chút
tro than còn, nóng, nhẹ như bông,
Rồi
lung linh ở ngay tổ,
Là
lông tơ, nhẹ, tựa tro bay:
nó
đã tìm lại được mình,
Con
chim bất tử).
Trong
bài viết Nhân Văn (Humane Literacy) George Steiner
khẳng định: không một chế độ chính trị nào có thể yểm bùa chú lên những
tác
phẩm của nhà văn, khiến cho nó vĩnh viễn chìm vào trong quên lãng, hay
bóp méo
nó, và cho dù những cuốn sách có thể bị tiêu huỷ, nhưng tro than sẽ
được vun
vén, và giải mã. Khi nhà nước CS đành phải cho xuất bản những tác phẩm
văn học
của Miền Nam trước 1975, điều này chứng tỏ: con chim phượng hoàng đã
tái sinh.
Ở hải ngoại, nếu nó được tái sinh, thì cũng không do những ông lái buôn
làm
giầu từ những tác phẩm vơ vét đem xuống tầu cùng với họ; cũng không
phải bởi
các tác giả may mắn đi từ những ngày đầu, rồi vào thư viện Mỹ sao chép
lại…
Chúng vẫn chỉ là tro than. Từ đó, một con phượng hoàng song sinh sẽ tái
xuất
hiện.
Walter
Benjamin nhận xét: không hề có chuyện gì đã từng xẩy
ra mà có thể bị coi là mất mát đối với lịch sử (nothing that ever
happened
should be regarded as lost for history. Illuminations). Nhìn theo cách
đó, thời
gian 25 năm là quá ngắn ngủi, đối với một dòng văn học, so với chiều
dài lịch
sử.
Cùng
với thời gian, những con chữ ngày càng thoát ra khỏi
những rằng buộc nhất thời, và đủ sức chuyển tải cuộc sống đa đoan phức
tạp của
những con người Việt Nam xa quê hương. Khởi từ lời khuyên của Don
Quixote,
"Đừng tìm những con chim ngày hôm nay, ở trong cái tổ ngày hôm qua",
văn học hải ngoại của người Việt Nam sau 25 năm bắt buộc nhìn về phía
trước.
Theo nghĩa đó, tôi tin rằng dịch thuật chính là cánh cửa mở ra văn học
Việt Nam
hải ngoại. Dịch thuật còn là cái cầu "Ô Thước", cho hai con phượng
hoàng song sinh "hội nhập", trở thành một. So với hằng hà sa số những
"sáng tác" hiện xuất hiện trên một số báo văn học, và xuất hiện đầy
rẫy trên những trang nhà trong không gian ảo trên lưới thông tin toàn
cầu,
chúng ta mới nhận ra sự quan trọng của dịch thuật, theo nghĩa: chiếm
đoạt, cầm
tù cái nghĩa (meaning), làm giầu có cho tiếng nói, ngôn ngữ Việt.
"Đừng
gọi ta là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa. Hãy gọi ta là
Hiệp Sĩ Sư Tử", Don Quixote ra lệnh cho người hầu. Hiệp Sĩ Mặt Buồn ám
chỉ
Đấng Cứu Thế. Hiệp Sĩ Sư Tử là để chỉ con người, trong cuộc phiêu lưu
tìm lại
chính mình, một khi thần thánh đã bỏ đi. Cuộc phiêu lưu đó bắt đầu bằng
tiểu
thuyết. Với Âu Châu, tiểu thuyết là thể dạng văn học thứ ba, sau hùng
ca và bi
kịch (Hy Lạp). Theo G. Lukacs, tiểu thuyết là để diễn tả cõi "không nhà
siêu việt"; nói nôm na, nó diễn tả thân phận lưu vong của con người,
khi
không còn thần thánh nữa.
Theo
nghĩa đó, nhà văn Việt Nam hải ngoại bắt buộc phải là
những vị hiệp sĩ sư tử, trong cuộc chinh phục ý nghĩa, về chính thân
phận người
Việt lưu vong nơi xứ người.
3.
Sự câm lặng
Chuyện
xưa, một ông vua giấu sáu cậu con trai và một cô con
gái vào trong rừng, vì bà vợ sau của ông vốn là một mụ phù thuỷ. Tuy
nhiên bà
phù thuỷ cũng tìm ra sáu đứa nhỏ, và ném lên mình chúng sáu chiếc áo sơ
mi bằng
lụa đã được phù phép, biến chúng thành sáu con thiên nga. Bà không biết
sáu anh
em còn một cô em gái.
Cô
bé đi tìm anh. May mắn làm sao, cô gặp được, bởi vì mỗi
ngày họ có mười lăm phút trở lại dạng người. Khi từ giã, cô được mấy
người anh
cho biết: mấy người anh chỉ có trở lại làm người, khi cô ném lên mình
họ sáu
chiếc áo, do chính tay cô đan trong sáu năm, bằng một thứ cỏ gai.
Trong
sáu năm ròng rã đó, cô không được cười, không được
nói.
Cô
bắt tay ngay vào việc.
Rồi
một ngày đẹp trời, một ông vua ghé qua, và nhận ra một
nhan sắc. Hỏi thế nào cũng không nói. Nhưng điều này không làm ông vua
đổi ý,
khi quyết định cưới cô làm vợ. Và họ có được một đứa con trai. Bà mẹ
sai người
bắt đứa bé, vu cho cô làm chết nó. Đối lại những lời cáo buộc, chỉ là
sự câm
lặng. Đứa bé thứ nhì, thứ ba, cũng vậy. Cô lặng câm, cặm cụi cúi xuống
manh áo
đang đan. Ông vua, dù lúc nào cũng thương vợ, nhưng đành phải kết tội
chết.
Ngày cô lên giàn hỏa cũng là ngày cuối cùng của thời hạn nghiệt ngã.
Khi sáu
con thiên nga xuất hiện, cô ném sáu chiếc áo lên mình chúng và lời
nguyền hết
linh. Cậu út, vì chiếc áo chưa kịp đan xong, vẫn lủng lẳng một cánh
thiên nga.
Trên
đây là tóm tắt một chuyện cổ (conte) của Grimm [Jakob
Ludwig Karl 1785-1863, người Đức, cùng với người anh là tác giả Những
Chuyện
Thần Tiên (Fairy Tales, 1812-14) dựa theo chuyện kể dân gian].
Và
sau đây là tóm tắt chú giải của Simone Weil.
Bà
cho rằng, trong những tư tưởng tuyệt vời của Platon, có
những tư tưởng ông kiếm được, nhờ suy nghiệm về những huyền thoại. Bà
tin rằng,
những huyền thoại của chúng ta cũng có những tư tưởng đẹp. Và bà đã thử
chọn
lựa một cách thật tình cờ, chuyện sáu con thiên nga của Grimm, sau khi
cẩn
trọng người đọc: sẽ là thực những gì tôi sẽ nói.
Chúng
ta phải để ý tới cái thời điểm mà người em gái ném lên
mình những con thiên nga những chiếc áo cỏ. Bằng một cú ném áo, họ đã
bị trù
yếm; cũng bằng một cú ném áo như vậy, họ được giải thoát. Họ bị biến
dạng đâu
phải do lỗi của họ, và họ trở lại làm người, là do lòng yêu thương của
cô em.
Nếu họ bị biến dạng do những lỗi lầm mà họ đã phạm, có thể họ sẽ phải
trải qua
đau khổ, rồi mới được trở lại làm người. Trong câu chuyện, họ nhận điều
xấu
cũng như điều tốt, là từ bên ngoài. Câu chuyện sẽ khác hẳn, nếu cô em
gái đi
tìm một thứ dược thảo thần kỳ. Như vậy dược thảo cứu họ, chứ không phải
cô em.
Chúng ta tưởng rằng những chiếc áo cỏ đã giải thoát họ, không phải vậy.
Chính
cô em gái, bằng khổ nạn mà cô đã tự ôm lấy: cặm cụi đan áo cỏ trong sáu
năm,
không được cười, không được nói. Sự câm lặng phá huỷ lời nguyền, làm
cho nó trở
nên vô hiệu.
Im
lặng. Không nói. Không cười. Trong sáu năm ròng rã. Ở
đây, sự câm nín, nhẫn nhục trinh nguyên đã tác động. Tình yêu của ông
vua,
những lời buộc tội của bà mẹ chỉ làm tăng thêm thử thách. Phải cực kỳ
khó khăn,
cực kỳ khổ nạn, sự cứu rỗi mới rạng rỡ, đức hạnh mới bật ra. Cỏ gai đâu
phải để
đan áo! Ngay cả hành động đan áo cũng chỉ có một giá trị biểu tượng,
chính hành
động "không hành động" (không nói không cười), hay dùng từ của Simone
Weil, chính cái gọi là hư vô của hành động (le néant d’action) mang
trong nó,
đức hạnh. Và theo bà, tư tưởng này đã tới được chốn sâu thẳm nhất của
tư tưởng
đông phương.
Bài
học từ câu chuyện Grimm, sự câm lặng, bàng bạc trong tác
phẩm của Weil, từ những năm chiến tranh. Thí dụ như trong Cahier VI:
"Chủ
đề về sự thơ ngây vô tội tự nguyện không chống trả. Những con thiên
nga."
Và vào những giây phút cuối cùng của đời mình, trong "sổ tay ở Luân
Đôn", bà hình như tự đồng nhất với nữ nhân vật ở trong câu chuyện cổ
tích:
"Sự câm lặng của cô gái nhỏ trong Grimm [nhờ vậy] mà cứu được những
người
anh… Sự câm lặng của Đấng Ky Tô. Một thứ thỏa uớc thiêng liêng, một hợp
đồng của
Thượng Đế với chính Người, từ đó, thế gian bị kết án: chỉ tới được sự
thực bằng
[hành động] câm lặng."
Người
viết đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì
vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó,
tôi có
mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp
một anh
bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong
vụ biểu
tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ
tại khách
sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho
biết, kể từ
ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng
nghiệp trước
1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm
việc,
khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù,
vậy mà đêm
nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Tôi
nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự
như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện,
trong câm
lặng.
Và
tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại
nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã
ngã
xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và
tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự
câm lặng chính là "cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên
là
"lịch sử của quá khứ"?
Nguyễn Quốc Trụ