Chân
Dung
và Đối thoại của Trần
Đăng Khoa
Có những
bút danh do tình cờ mà
thành, lại có khi do sự viết sai, mà nên. Thí dụ như Trần Đăng Khoa
chẳng hạn.
Vốn là Trần Giang Khoa (em gái của Khoa tên Giang) nhưng vì mới đi học
nên anh
viết (trật) là Trần Dang Khoa, đến khi (có bài) đăng báo, tòa soạn sửa
lại
thành Trần Đăng Khoa.
(Trích
Chuyện vãn về bút danh,
tác giả Ngô Vĩnh Bình, báo Sài Gòn Giải Phóng, qua báo Nhân Dân trên
Internet).
I
Đây là một cuốn sách đã và đang
gây chấn
động ở trong nước. Nghe kể lại, đã in tới lần thứ tám hoặc chín, được
bán kèm
với gần như tất cả những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày của
người
dân trong nước: tờ giấy số, nhật báo, hay gói mì ăn liền... Hiện tượng,
một tác
phẩm "văn học" đi vào cuộc sống mỗi ngày, là một chuyện khó hiểu.
Đừng coi đây như hiện tượng best-sellers ở Tây-phương. Có lẽ chỉ có thể
giải
thích bằng lời phẩm bình của nữ thi sĩ Nga, Akhmatova: Chỉ người nào có
sống ở
Nga, và nghe radio (la-dô, đài) mỗi ngày, mới hiểu chủ nghĩa Cộng-sản
là gì.
(Only someone who lives in Russia and listens to the radio every day
can
understand what communism is, trích dẫn từ Chuyện trò với Joseph
Brodsky, của
Solomon Volkov, nhà xb The Free Press, 1998).
Cuốn sách cũng đang gây
"chấn động" ở hải ngoại. Tờ này, tờ nọ chọn đăng lại. Người viết, khi
nghe nói về nó, liên hệ tới chuyện "đói thông tin" ở trong nước,
nghĩ: chắc nó cũng giống hiện tượng Đêm Giữa Ban Ngày đối với độc giả
hải
ngoại. Người ta đọc trước tiên vì tò mò, khoan nói tới mong ước, có
trong tay
"Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich" (Solzhenitsyn).
Mới đây
được đọc, và thấy có
phần đúng. Nhưng không giản dị như vậy.
Riêng
phần dữ kiện, nó hé cho
thấy không chỉ đằng sau một chế độ, mà còn đằng sau một con người,
nhiều con
người. Nhiều cõi nhân sinh, quan điểm nghệ thuật, có thể đồng ý, hoặc
phản bác,
hoặc dựa vào đó, để công kích, để "chống Cộng"....
Bài quan
trọng nhất, theo tôi,
là chân dung tự họa của Trần Đăng Khoa. Đây là điểm qui chiếu của tác
phẩm.
Cũng có thể coi chi tiết "viết sai tên, Giang thành Dang" ở trên như
là một ẩn dụ làm nền cho cái đọc Chân Dung và Đối thoại... của chúng ta.
Bởi vì tất
cả những chân dung
sau đó, đều là những "phó bản" của tự họa.
Người viết
có "tham
vọng" đọc từng bài, rồi "tản mạn" về từng bài. Như một cách
"giao lưu văn hóa."
Trước tiên
là bài viết, về Tố
Hữu, và nhân đó, về Nguyễn Tuân.
Một chuyên
gia về biếm văn, sau
khi trích đoạn viết về Tố Hữu, đã cho rằng: những dòng thơ "phịa", về
chiến thắng Điện Biên (chỉ ngồi nhà nghe hóng, rồi viết), vậy mà đã xúi
bao
nhiêu con người lao vào chỗ chết.
Nhận xét
này theo tôi đã phần
nào nói lên cái được, cái mất của tác phẩm: chính Trần Đăng Khoa, khi
phê bình
Nguyễn Tuân cũng mắc đúng một khuyết điểm như vậy.
Những nhận
xét văn học của Trần
Đăng Khoa, phần lớn đã lấy thước đo, là đời sống, là cái "hiện thực".
Trong khi nghệ thuật, nó "đếch cần" cuộc đời. "Nói theo"
nhà thơ Nga Joseph Brodsky: nghệ thuật không bắt chước, nhưng nó "làm
độc" đời sống. (1)
Thơ rất
độc, tẩm vào người nỗi
chết (2)
Trần Đăng
Khoa hỏi, về xuất xứ
bài Hoan hô Chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu cho biết:
"Chịu
không thể nhớ được
(...) Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên truyền. Suốt ngày chỉ hong hóng
chờ tin
tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc chạy qua bên Bộ Tổng, Quân Uỷ Trung
Ương, chỗ
anh Văn (Võ Nguyên Giáp) hỏi xem có đánh nhau ở đâu để viết bài tuyên
truyền
(...)
-Vậy tin
toàn thắng đến với anh
vào lúc nào?
-Lúc ấy
khoảng 5 rưỡi hay 6 giờ
chiều ngày 7-5. Rừng nhá nhem tối mới có điện từ anh Trường Chinh
xuống. Mình
mừng quá. Cái chuyện 'Hỏa tốc, hỏa tốc - Ngựa bay lên dốc' ấy là có
thật (...)
chứ làm gì có 'Đuốc chạy sáng rừng', với 'Làng bản đỏ đèn đỏ lửa' (...)
Thực tế
lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng tối mù mù (...) Vậy thì loa với ai,
thế mà vẫn
loa kêu từng cửa (...) Làng bản đỏ đèn đỏ lửa (...). Này xem ra không
thể tin
cánh văn nghệ được đâu hỉ. Phịa, toàn chuyện phịa. Chỉ có điều mình
phịa như
thật, nên người ta tha cho.
Phịa như
thật (thật nào?). Tại
sao lại tha cho ?
Nhưng chi
tiết liền sau đó, mới
thật "lạ":
Rồi Tố Hữu
lại cười. Nụ cười
thật hiền hậu. Trông ông lúc này có dáng vẻ một ông Phật.
Có thể
Trần Đăng Khoa đã quên
mất mấy chữ "phịa như thật", nên đã mượn "ma", để
"chê" Nguyễn Tuân.
Bàn về văn
Nguyễn Tuân
"Ma" nói:
"Quả ông
cụ viết khá nhiều
về món ăn... Nhưng đưa các món ăn lên thành những áng văn chương, thành
văn hóa
ẩm thực, trước tiên phải kể đến Vũ Bằng với Thương Nhớ Mười Hai, Miếng
Ngon Hà
Nội, Món Lạ Miền Nam.... những kiệt tác về ăn uống... nó là hồn vía của
cả một
vùng đất. Văn chương của cụ Nguyễn chưa đạt đến độ ấy. Đôi khi ngay
trong
chuyện ăn uống này, ông cụ cũng lại đùa."
Viết về
hai nhà văn tiền bối
như vậy, là không đúng, bởi vì người được khen cũng không cảm thấy hãnh
diện.
Chưa kể chuyện, vì cũng là món ăn, cho nên có người ưa món ăn "Nguyễn
Tuân", có người ưa món ăn "Vũ Bằng". Có người ưa cả hai, chẳng
chịu bỏ món nào! Tuy "tham ăn", người viết có thể đưa những lý do, để
nói ngược lại (văn của cụ Vũ chưa đạt tới độ ấy), nhưng không dám, vì
quá vô
lễ, cảm thấy nình nếu làm vậy thì cũng giống như một trong "nhiều người
tò
mò, lặn lội hàng trăm cây số bom đạn, tìm đến nhà y, chỉ cốt xem y như
xem...
ma quỉ hiện hình. Có người còn bắt y xòe tay nom đường chỉ, vạch tóc
ngó xoáy
đầu, rồi lặng lẽ ra đi với gương mặt thật là bí hiểm" (Chân dung tự
họa).
Có thể họ Trần sẽ nói: đây là những việc thực, người thực, nhưng khi
làm văn
chương "nguyên con" như vậy, nó lại lòi ra bản chất của người viết.
Bởi vì nghệ thuật không bắt chước cuộc đời. Nó tẩm độc cuộc đời. Độc ở
đâu ra?
Độc là cần
thiết trong văn
chương, theo tôi. Không độc không trượng phu, mà lị! Nó làm tác phẩm
trở thành
một tác phẩm, hay một thảm họa, là tùy người viết.
Cũng vì cố
bám chặt vào
"hiện thực", cho nên họ Trần đã không thấy nét đẹp của Chém Treo
Ngành, của những ngôi sao đánh dấu con đuờng từ giếng trời về trần
trong Những
chiếc ấm đất. Phê bình Chém treo ngành, ông viết: "Đưa việc chém người
lên
thành nghệ thuật và tả đường đao, mũi đao với kẻ khoái cảm như một dạng
thưởng
thức nghệ thuật thì chỉ ở cõi người mới có nhà phê bình viết bài tán
dương, chứ
ma thì con xin vái cụ". Ở đây, họ Trần lại mâu thuẫn với chính ông khi
chê
Nguyễn Tuân không đưa việc ăn uống lên thành nghệ thuật. Nhưng ngay câu
tiếp
theo cho thấy tại sao:
"Ngay cả
kẻ bị chém là lũ
tà đạo, lũ cướp đường, tả thế cũng không ổn, huống hồ đó là quân khởi
nghĩa,
những người xả thân vì đại nghĩa cả. Nhà văn lớn ai lại làm thế."
"Balzac mô
tả cái nón, là
bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn đuốc
đỏ
rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một
miền đất
muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải
thích
được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Như chúng
ta đều biết, giấc mơ
đã không trở thành hiện thực, và đó là những cay đắng giấu kín đằng sau
nụ cười
hiền như Phật của Tố Hữu.
---------------
Chú thích:
(1):...
art doesn't imitate
life but infects it. (On Grief and Reason, J. Brodsky).
(2) Mô
phỏng thơ Thanh Tâm
Tuyền:
Khi anh
đi, anh đi vào sương
đen,
Sương rất
độc tẩm vào người nỗi
chết.
(3) G.
Steiner, trong bài giới
thiệu "Chủ nghĩa hiện thực trong thời đại của chúng ta", của G.
Lukacs.
II
Nguồn gốc
thần đồng của Trần
Đăng Khoa
Nhận xét về một tứ thơ của cậu
bé Trần Đăng Khoa, Tố Hữu cho rằng câu thơ đó (Ngoài thềm rơi cái lá đa
/ Tiếng
rơi rất mỏng như là rơi nghiêng) là của trời cho: 'Không hiểu sao một
chú bé 8
tuổi lại có được câu thơ như vậy. Đó là câu thơ của Giờí (Trích bài
viết Người
trong cuc luận bàn về tác phẩm Chân Dung và Đối thoại của Trần Đăng
Khoa,
Nguyễn Như Phong - báo An Ninh Thế giới các số giữa tháng 3-1999, qua
Internet).
Nói
như vậy, cũng được thôi,
nhưng tôi lẩn thẩn tự hỏi, liệu cái giếng thiên tài của thần đồng có
phải là
từ... "cái tay nải đã cũ. Đấy là cái kho sách lưu đng của mẹ tôi (...)
trong đó lổng chổng mấy cuốn Trê Cóc, Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Kiềú
(Chân Dung
và Đối thoại, bài Xuân Diệu)?
Khi
còn ở ngoài Bắc, vào cái
tuổi của Trần Đăng Khoa, tôi có được đi theo sau một đám ma. Mấy bà cụ
vừa đi
đường vừa đọc một bài kể. Tôi còn nhớ, đó là những lời dặn dò linh hồn
người
chết, trong chuyến viễn du về âm phủ. Đi tới bến đò chia đôi hai bờ âm
dương
thì phải làm sao, ăn bát cháo lú như thế nào, gặp những linh hồn vất
vưởng
không ai hương khói thì làm gì, gặp quỉ dữ thì sao...
Chuyến
viễn du cuối cùng. Chết
là hết. Dặn dò làm gì?
Không
đâu! Sống gửi, chết về.
Về
để làm gì?
Để
đi nữa.
Đối
với người Việt, thấm nhuần
Phật Giáo, tắm đẫm không gian Mục Kiều Liên, chết chỉ là một cuộc hẹn
(appointment) với Diêm Vương, để 'thương lượng' (deal) với Ngài. Để
được tái
sinh. Làm giống gì chưa biết. Thường ra là lại làm người, có lẽ vậy.
Tôi
không còn nhớ một chút nào
về bài kể này. Một cách nào đó, sau này tôi "viết văn" là để tìm lại
riêng cho mình một bài kể như thế.
Tương
tự như một anh chàng mê
đọc, vào thư viện, tính kiếm một cuốn sách. Không thấy, anh bèn viết
một cuốn!
Nhận
xét về Lê Lựu và Thời Xa
Vắng, theo một bạn văn (LMH, qua mạn đàm email), cái hay nhất của nó,
vẫn là
những đoạn viết về một anh cu Sài nhà quê Bắc Kỳ. Kỹ thuật viết: Rút
ruột ra để
viết. Viết bằng trực cảm. Thiếu tính khái quát... Hầu hết những tác
phẩm có giá
trị của Miền Bắc, đều có chung một điểm thành công đó: cái thời người
viết chưa
bị thần Đỏ cướp mất hồn vía. Nguyễn Huy Thiệp, hay nhất là thời gian an
thân
trong một bản Mường Mèo miền núi, hít ngọn gió Hu Tát. Sau này, chống
lại ông
thần Đỏ, lòi ra Tướng Về Hưu, Kiếm Sắc, Không Có Vua: đc, ác. (Không
độc,
không
ác làm sao chống lại được mấy ông thần này?)
Liệu
chúng ta có thể coi, giấc
mơ văn chương Miền Bắc, là đi tìm lại (à la recherche)... cái tay nải
của bà mẹ
già?
Bởi
vì Chân Dung và Đối thoại,
và sự thành công của nó cho thấy: Trần Đăng Khoa là một người kể chuyện
có
duyên. Hãy tạm gác những "lý do tiềm ẩn", những "ý đồ" của
tác giả khi viết nó, khi hạ bệ một số thần tượng. (Nên nhớ Nguyễn Tuân
được
Miền Nam yêu nhiều hơn là Miền Bắc, nhất là đám nghệ sĩ di cư: họ tưởng
tượng
và đo lường chính họ, trước ông, nếu ở lại. Văn nghệ sĩ Miền Bắc sợ
ông, thì
đúng hơn: họ sợ cả tiếng ba-toong của ông, như những tiếng nhắc nhở, về
một
thời vang bóng nhưng vẫn còn hiện diện).
Nếu
nói về ý đồ của cuốn sách,
chúng ta có thể coi Chân Dung và Đối Thoại như: một cú Bravo I đối với
Nhà
nước, Bravo II là của đc giả, khi đọc nó.
(Xin
nhắc lại một giai đoạn
lịch sử liên quan tới Bravo I và II: Khi bị chống đối, qua vụ Phật
Giáo, ông Diệm
kêu những tướng lãnh thân tín làm một cú đảo chính dởm, nhân đó quơ hết
đám
phản đng. Mấy ông tướng thân tín, nhân đó chơi đòn "gậy ông đập lưng
ông", Bravo II, biến dởm thành thực, và thịt ông).
Với
Chân Dung và Đối Thoại,
chúng ta cứ giả dụ câu chuyện xẩy ra như thế này: Trần Đăng Khoa được
lệnh viết
một cuốn sách, hạ bệ một số thần tượng, giả đò "chơi" nhà nước, qua
những nhận xét phê bình, tố cáo... Anh nào "ngu", tưởng đây là một
dịp "cởi trói", tuyên bố hung hăng con bọ xít, Đảng nhân đó tóm gọn.
Nhưng kết quả dân chúng ào ào đọc nó, biến giả thành thực. Không lẽ bắt
bỏ tù
tất cả, thú nhận đây là đòn độc của nhà nước?
Hay
là coi cuốn sách như là một
diễn tập (rehearsal), một thực tại lịch sử ở trong tương lai, như
trường hợp
những dòng thơ phịa "loa dậy đất, đuốc đỏ làng" đưa đến cuộc đấu tố
khủng khiếp diễn ra trên toàn Miền Bắc thời gian 1954, đưa đến vụ Nhân
Văn Giai
Phẩm. Nhìn theo cách thế đó, có thể coi Chân Dung và Đối Thoại là một
đòn...
tổng công kích Mậu Thân ngay trong lòng chế độ: thành công của cuốn
sách, là phá
sản của chủ nghĩa Cộng Sản!
Bạn
có thể nghĩ, người viết
tưởng tượng hơi lố, nhưng chuyện tương tự như trên đã xẩy ra, với Trần
Độ, khi
ông làm MC trong một cuc gặp gỡ báo chí, mời chào món hàng đổi mới, và
đã bị
phản ứng ngược, như qua bài viết của Văn Thanh, trên báo Cánh Én số 92,
tháng
7-99, mà người viết xin phép được trích dẫn sau đây:
'Tôi
(Văn Thanh) nhớ ngày ấy
Nguyễn Văn Linh đưa ra chủ trương mới (...) tuyên bố 'Cởi Trói cho văn
nghệ
sĩ(...) Trung Ương Đảng cử Trần Độ (...) tổ chức buổi hội thảo tại Đài
Truyền
Hình thành phố Hồ Chí Minh. Có khoảng 300 người tới dự (...) thuc lực
lượng
sáng tác hàng đầu của Sài Gòn. (..) Tưởng cũng nên nhắc lại một chi
tiết nhỏ
nhưng quan trọng lắm. Ấy là cái địa điểm của buổi hội thảo. Số là ban
đầu Đảng
dự định làm tại Hà Nội (...) Nhưng ông Trần Độ đề nghị làm khác đi.
Trần
Độ nhận
xét: (..) Hà Nội đã từng bị tới hàng trăm quả lừa, còn mấy ai tin tưởng
hưởng
ứng?'
Kết
quả, theo Văn Thanh: cánh
Miền Nam non trẻ mà có vẻ khôn ngoan và dữ tợn hơn cả cánh Nhân Văn
Giai
Phẩm... Ông Linh (người giao việc cho Trần Độ) đã bị mất chức Tổng Bí
Thư qua vụ
này... Buổi hội thảo chưa kết thúc mà cả hai bên đã bừng bừng nóng mặt,
như sắp
sửa đánh nhau!
Nhưng
thôi, hãy trở lại với văn
chương, với thú đọc sách: Đừng đọc Chân Dung và Đối Thoại như một cuốn
sách phê
bình. Đọc nó như đọc những câu chuyện. Những giai thoại văn chương vốn
rất được
độc giả ái mộ. Nó thỏa mãn tính tò mò thiên thu bất tận của con người.
Vượt
lên trên tất cả những giai
thoại ở trong Chân Dung và Đối Thoại là lời dặn dò của một bà mẹ, khi
Trần Đăng
Khoa kể lại chuyến viếng thăm đầu tiên của Xuân Diệu: "Theo lời mẹ tôi
kể,
thì bác 'nhà báó đã mượn cây đèn bão, xách ra vườn, soi từng giàn trầu,
gốc
cau, luống mía và mấy cây bưởi. Xuân Diệu tìm gặp những 'nhân vật' thân
thuộc
của tôi. 'Bác ấy kiểm tra xem mày có nói đúng không. Khổ, có thế nào
thì cứ nói
như thế, đừng đặt điều thêm ra, kẻo lại mang tiếng là mình ăn ở không
thật thà.
Thấy bác ấy kiểm tra, tao lo quá. Thế có làm sao không, hả con? Mà
thôi, đừng
có thơ phú gì nữa, cho rắc rối ra. Cứ đi cày như bố mày là yên
chuyện'".
(Bài Xuân Diệu).
Thế
có làm sao không, hở con?
Tôi không hiểu, Trần Đăng Khoa có còn nhớ nỗi lo sợ của bà mẹ, khi viết
Chân
Dung và Đối Thoại?
Chúng
ta lại thấy nỗi lo của bà
mẹ, qua câu nói của Tố Hữu, trong bài "Người trong cuộc...", trên báo
"An Ninh Thế Giới" đã dẫn ở trên:
- Cháu là
công an hả, phải thổi
còi cho Khoa thôi. Nhưng đừng để cho nó giật mình, ngã xe nhé!
Ôi viết
văn mà cứ phải có người
thổi còi, lo mình ngã xe, thì thảm thật!
Ra đến
nước ngoài vẫn còn bị ám
ảnh bởi tiếng còi, vẫn cảm thấy như là mình... có đuôi; soi gương cứ
như thấy
một ông công an ở đằng sau tấm gương. Viết, vẫn như dưới ánh sáng
của... Đảng:
Liệu liệu mà viết. Còn bà con, họ hàng của mi ở đây, đấy nhá!
Thảm thật!
III
Văn
chương
sám hối?
Trong bài
trước (chân dung Tố
Hữu và Nguyễn Tuân), người viết có đưa ra đề nghị: coi Chân Dung Tự Họa
của họ
Trần như điểm qui chiếu của tác phẩm, và chi tiết - "Giang viết sai
thành
Dang, rồi sau đó được nhà báo sửa (Dang) thành Đăng (Trần Đăng Khoa) -
là
"ẩn dụ" (metaphor) chuyên chở những chân dung và đối thoại.
Xin ghi
lại Chân Dung Tự Họa,
để độc giả tiện bề theo dõi:
"Trần Đăng
Khoa sinh ngày
26.4.1958, là con thứ ba trong gia đình bần nông ở làng Điền Trì, xã
Quốc Tuấn,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, bên vùng (hay bên bờ?) sông Kinh Thày.
Thuở bé,
y từng mơ ước trở thành kỹ sư nông nghiệp và suốt đời làm thơ về làng
quê, cảnh
quê, những vui buồn của người dân quê ở nơi xóm mạc. Nhưng rồi, cũng
như nhiều
thợ cày ở làng, y lên đường nhập ngũ vào những tháng cuối cùng của cuộc
kháng
chiến chống Mỹ cứu nước và trở thành nhà thơ khoác áo lính.
Đối với
Trần Đăng Khoa, thơ hay
là thơ giản dị, xúc động, và ám ảnh. Suốt đời, y luôn có ý thức vươn
tới loại
thơ đó. Nhưng để làm được điều ấy, một phần do y, một phần khác còn
do... ông
giời! Nhưng ông giời ở đâu, mặt mũi và tính khí ông ta như thế nào thì
suốt
đời, y cũng không sao hiểu được.
Bài thơ
đầu tiên của Trần Đăng
Khoa được in trên báo Văn nghệ vào năm 1966. Khi đó, y tám tuổi, đang
học ở kỳ
hai lớp Một trường làng. Năm 1968, tròn 10 tuổi, tập thơ Góc sân và
khoảng trời
của y ra đời. Lúc ấy, người làm thơ còn ít, trẻ con làm thơ lại càng
ít, nên
nghiễm nhiên, y thành của hiếm, thành đặc sản. Nhiều người tò mò, lặn
lội hàng
trăm cây số bom đạn, tìm đến nhà y, chỉ cốt để xem... xem y như xem...
ma quỉ
hiện hình. Có người còn bắt y xòe tay nom đường chỉ, vạch tóc ngó xoáy
đầu, rồi
lặng lẽ ra đi với gương mặt rất là bí hiểm.
Bây giờ
thì y đã già và dứt
khoát không phải kẻ đắc đạo, vậy mà y vẫn phải còng lưng, ỳ ạch vác cây
thánh
giá của lứa tuổi trẻ con.
Những năm
gần đây, ngoài làm
thơ, Trần Đăng Khoa còn viết văn, viết báo, viết chân dung và đối
thoại, bình
luận văn chương. Ngoài những trang viết mà ở đấy thường là y dồn hết
tâm lực,
còn ngoài đời, y là tay nhạt nhẽo và tầm phào.
Y chẳng
đam mê gì, và nói
chung, y là một gã vô tích sự."
*
Người
viết xin đưa ra một vài
gợi ý trước khi cùng độc giả đọc (ngắm) những chân dung qua nét vẽ của
họ Trần:
Những ý
niệm (đao phủ) ngồi
thiền (Bùi Minh Quốc), đắc đạo, vác thánh giá... hiện nay rất phổ
thông, trong
giới viết lách ở trong nước. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã từng viết về
một cô
bạn hiện ở nước ngoài, gửi thuốc men cho ông, kèm lời hỏi thăm: vẫn còn
vác
thánh giá? Ông cũng coi Văn Cao, một nghệ sĩ lớn đã tự chọn cho mình
một bi
kịch (thánh giá?) lớn.
Theo tôi,
đây là một phản ứng
ngược, trước cuộc đời, trước thất bại của chiến thắng Miền Nam.
Cũng có
thể giải thích theo
tinh thần Phật giáo: cứ buông dao xuống, là (có thể) trở thành Phật!
Trong Chữ
và Vật, M. Foucault
coi Don Quichotte "lang thang phiêu lãng" (erre à l'aventure), giữa
chữ viết và sự vật, một khi mà những "tương tự" (analogies) chỉ đem
lại thất vọng: "Trong phần hai cuốn tiểu thuyết, Don Quichotte gặp
những
nhân vật đã đọc phần đầu, họ nhận ra anh, một con người thực, như là
nhân vật
của một cuốn tiểu thuyết. Bản văn của Cevantes tự gập đôi... Don
Quichotte (bắt
buộc) phải trung thành với cuốn sách: anh ta đã thực sự trở thành cuốn
sách
đó... Nhưng cuốn sách, Don Quichotte đâu có đọc, làm sao đọc được, bởi
vì nó là
xương là thịt của chính anh...".
Nhìn theo
cách thế đó, chúng ta
"có thể" coi Trần Đăng Khoa là một... Don Quichotte, trong xã hội
hậu-chiến tranh ở Việt Nam.
Hãy tưởng
tượng phần đầu cuốn
sách: cuộc chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước. Phần hai gập lại trên
chính nó,
hay nói như Foucault: anh ta (Don Quichotte) có nhiệm vụ phải chống đỡ
cho cuốn
sách, về những lỗi lầm, thêm thắt những chi tiết còn thiếu, bị bỏ đi
(thí dụ
như chi tiết về Võ Nguyên Giáp trong thơ Tố Hữu). Anh ta có nhiệm vụ
phải giữ
gìn (maintenir) sự thực...
Nhưng cũng
như Don Quichotte,
số phận của họ Trần sẽ "lang thang phiêu lãng" giữa những chữ (phịa
như thật), và sự vật (sự thực), giữa sự thực (chẳng bao giờ có), và
"thất
bại của sự thực".
Cũng có
thể coi phần hai của
cuốn sách: họ Trần đi gặp những người đã từng tới... xem y như xem...
ma quỉ
hiện hình, và bây giờ, tới lượt anh xem họ như... những ông Phật (Tố
Hữu),
những kẻ vác thánh giá, những người tự chọn cho mình bi kịch lớn...
Trong
bài
viết về trường hợp
bài thơ Hoan hô Chiến Thắng Điện Biên, của Tố Hữu, người viết có cho
rằng, phải
nhìn thấy, đằng sau những chi tiết phịa, có một giấc mơ của cả một miền
đất...
và giấc mơ đó đã không trở thành hiện thực.
Đúng ra,
giấc mơ đã trở thành
hiện thực. Một hiện thực khủng khiếp, ghê rợn, mà những người nào đã
sống qua
thời kỳ đấu tố ở ngoài Bắc đều còn nhớ "như in" ở trước mắt. Loa dậy
đất, đuốc đỏ làng, tiếng người la hét ("Lôi cổ nó ra đây!"), tiếng
chân người...
"Balzac mô
tả một cái nón,
là bởi vì có một người đang đội nó" (G. Steiner). Trần Dần "chỉ thấy
mưa sa trên mầu cờ đỏ", là bởi vì có "một" đứa trẻ đang bị cả
một miền đất bỏ đói, có "người" thương hại muốn cho cháu ăn, nhưng
chỉ dám đứng nhìn...
Những chi
tiết đó, còn đầy rẫy
trong những vần thơ, những bài văn của thời kỳ này.
Câu hỏi: Liệu có
thể coi sự kiện,
Tố Hữu
xác nhận bài thơ là phịa, là để xin lỗi, để sám hối?...
Liệu có
thể coi Chân Dung &
Đối Thoại như "chim báo bão" về một dòng văn chương: sám hối? Văn
chương của sự thực, từ những lời dối trá?
Có thể
Trần Đăng Khoa (được
trang bị đủ các quan điểm nghệ thuật của Đảng, như trong Lời nói đầu)
không
nhìn ra phản ứng ngược như trên (hiện tượng ăn khách, đi vào cuộc sống
từng
ngày của cuốn sách). Đối với ông, khi viết nó, vẫn nghĩ mình đang vác
cây thánh
giá thần đồng hồi nào, như "một lời nguyền rủa", và chỉ muốn hất bỏ
nó đi, để làm một gã "vô tích sự", như ông hằng mong mỏi, trong Chân
Dung Tự Họa.
Tôi
nghi, Trần Đăng Khoa đã được
gợi hứng
bởi Xuân Sách, và bởi vì ông là nhà thơ, lại là thần đồng, cho nên, nếu
Xuân
Sách đã chấm phá chân dung những thế gia vọng tộc (élites), của một chế
độ bằng
một vài nét "nghịch", ta thử vẽ, theo kiểu "thuận" - nghĩa
là, dưới ánh sáng của Đảng (hay Dang, hay Giang?). Vô hình chung, ông
rớt ngay
vào nét họa của Xuân Sách:
Khi khôn lớn lại
hồn nhiên đi giữa
"Biển một bên và
em một bên"
So sánh Trần Đăng Khoa với một
nhân vật tuyệt vời, xả thân vì đại nghĩa, chiến đấu với cối xay gió, vì
tưởng
là khổng lồ, là quái vật... thật khiêm cưỡng. Nhưng hai nhân vật đều
được trời
cho "tính hồn nhiên", đúng như Xuân Sách đã nhận ra:
Chú dế góc
sân hồn nhiên ca hát
Hát thành
thơ như nước triều
lên
Đấy
là phần đầu của một cuộc
đời. Của một miền đất. Của một hy vọng. Của một giấc mơ. Phần sau gập
lại trên
chính nó: khi khôn lớn lại hồn nhiên... đi giữa.
Một cách nào đó, Chân Dung và Đối
Thoại, là
một phiên bản của Chân Dung Nhà Văn, của Xuân Sách. Bạn không thể đọc
một, bỏ
một. Chúng bổ túc cho nhau một cách thật tài tình, như môn Lưỡng Nghi
kiếm
pháp, một âm, một dương của một môn phái võ học trong Kim Dung. Cái độc
đẻ ra
thiên tài văn chương, là ở Xuân Sách. Cái độc đẻ ra thảm họa, là ở Trần
Đăng
Khoa, bởi vì đi giữa, nghĩa là chẳng thuộc về bên nào: thái độ khôn
ngoan này
không chỉ một mình ông là người lựa chọn. Ngay Nguyễn Huy Thiệp mà còn
tự khoe:
tôi khôn hơn Dương Thu Hương.
Vả chăng
"đi giữa"
thực sự chỉ là "mặt nổi" của hiện tượng Trần Đăng Khoa qua cuốn Chân
Dung và Đối Thoại.
Trong
những số tới, chúng ta sẽ
đi tìm "mặt chìm" của nó.
IV
Xuân Diệu:
Phượng Hoàng đậu
chốn cheo leo...
Ẩn dụ, ám dụ, hoán dụ... là
những hình tượng (figures) tu từ. Nói nôm na, chúng đều là chuyện ví
von, nói
gần nói xa, nói bóng nói gió, mơ mơ hồ hồ, về một sự kiện, một sự thật
nào đó -
con người chưa biết, hoặc là biết nhưng lại không thể nói thẳng ra.
Không có tu
từ là không có văn chương.
Con người,
và nhân loại, ở vào
thời trẻ thơ của nó, ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật. Đây là thời
đại
hoàng kim của những "nhà văn không văn chương" (écrivain sans
littérature). Nhưng dần dà (già), trở nên trơ ra, bị "lão hóa", hết
còn ngạc nhiên vì chuyện "tự nhiên". Văn chương bắt đầu bằng những từ
"hình như", "như là", "giống như"...
Nabokov,
nhà văn Nga, dùng một
ẩn dụ để diễn tả cùng một sự thực. Trong bài "Độc giả tốt và nhà văn
tốt" ("Bon lecteurs et bon écrivains", trong Văn Chương I,
Littérature I, nhà xb Gallimard, tủ sách essais, loại bỏ túi), ông
viết: "Văn
chương không bắt đầu vào cái ngày, một đứa trẻ chạy trối chết từ một
cánh rừng
ra, và chạy và la "chó sói, chó sói", và một con chó sói bén gót chú
bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn "chó sói, chó sói", và
đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào. Chuyện chú bé lập đi lập lại
một lời
dối trá, và sau cùng bị chó sói ăn thịt chỉ phụ thuộc, nhưng điều quan
trọng ở
đây là: giữa con sói ở góc rừng và con sói ở góc trang sách, có một mắt
xích
lóng lánh. Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn chương."
Vẫn theo
ông, trong bài đã dẫn:
"Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là... giả tưởng. Gọi một câu chuyện
là
"chuyện thật, lịch sử thật", là làm "nhục" cả nghệ thuật
lẫn sự thực." Hãy bám hiện thực. Hãy viết dưới ánh sáng của hiện thực
xã
hội chủ nghĩa... phiền một nỗi, Thiên Nhiên, bà mẹ đẻ ra hiện thực chủ
nghĩa,
vốn luôn luôn đánh lừa. Một nghệ sĩ lớn đúng ra là nên đi theo vết chân
của bà,
thay vì trung thành với chủ nghĩa hiện thực!
Tu từ là con dao hai lưỡi. Nước
đẩy thuyền đi, nhưng nước cũng làm lật thuyền; đây cũng là nguyên lý
văn
chương: nó chết, khi bội thực tu từ. Nói nôm na: thùng rỗng kêu to.
Theo ý
nghĩa đó, những câu thơ
"thần" thường rất đỗi tự nhiên như... một lời nói. Thơ là lời nói, là
bề mặt cuộc sống, theo nghĩa, những băn khoăn, thắc mắc siêu hình, "gây
ám
ảnh" đều phải ngoi lên đó để mà thở. Thơ là lời nói để mà quên đi, thay
vì
nhớ hoài, bởi vì có nhớ cũng không thể được. (Ôi, anh đâu có nhớ những
lời em
nói khi từ biệt, và sau này anh bịa đặt, tưởng tượng ra chúng, tưởng
tượng ra
em...)
Thơ, là để
quên đi, chứ không
phải để nhớ mãi. Chính vì quên, nên anh tưởng tượng ra em. Chính vì
quên mà
chúng ta đọc. (It is precisely because I forget that I read. Roland
Barthes:
Reading, Forgetting; S/Z; bản dịch tiếng Anh).
Một hình
ảnh thơ thuộc loại quí
hiếm thường không viện dẫn đến những hình thức tu từ. Gaston Bachelard
coi thi
ảnh, "image poétique" khác với ẩn dụ thơ (métaphore poétique) là vậy.
Khi dùng bóng hồng để chỉ giai nhân, cánh buồm để chỉ con thuyền, tang
thương
dâu bể... chúng là những ẩn dụ thơ. Nhưng những câu văn như sau đây
chẳng hạn,
là những hình ảnh thơ; chúng không cần đến tri thức, không viện dẫn tu
từ:
"Cây cầu
kêu dưới bánh xe
với tiếng nước xoáy lạnh dưới chân cầu trong buổi chiều ngất ngư chưa
muốn
ngã". (Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa)
"Trên chòi
canh, hai con
mắt nguời lính gác tối đen nhìn qua núi". (TTT, sđd).
Quá chút
nữa, ẩn dụ trở thành
viễn dụ (vision): con sói trong mê cung của Kafka ngày càng nhập một
với con
sói của cuộc đời.
Theo nghĩa
đó, chúng ta có thể
hiểu được tại sao Xuân Diệu coi việc làm thơ giống như chuyện cháy nhà.
Và đây
là một viễn dụ, theo tôi.
Trong
"Chân Dung và Đối
Thoại", Trần Đăng Khoa kể lại lần gặp gỡ nhà thơ Xuân Diệu:
"Còn nhớ
dạo ông tặng tôi
tuyển tập thơ, tôi đọc và quả thật, rất kính phục. Khi gặp ông, tôi thú
thực:
- Trong
này có mấy bài thơ tứ
tuyệt, cháu thuộc từ đời nảo đời nào, thuộc thơ, rồi lại quên mất tác
giả, lại
tưởng thơ Đường, cứ đinh ninh thơ Đường mới chết chứ!
Xuân Diệu
cười, tỏ ra rất tâm
đắc (...). Thấy ông vui, tôi lại càng chân thật:
- Cháu rất
thích tập thơ này.
Nhưng không hiểu sao, vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có nhiều bài dở, chú
ạ.
- Ơ, cái
cậu này hay chửa? -
Xuân Diệu trợn mắt lên - Thế cậu tưởng đây là tuyển thơ à? Còn phải
sàng sảy
chán. Đời sau người ta sẽ tuyển lại chứ. Còn bây giờ có cái gì, cứ phải
quăng
ra đã. Nhà đang cháy thì cái thúng, cái mẹt, cái váy đụp gì thì cũng
vứt ra,
rồi sau sẽ nhặt nhạnh (...). Nhà cậu đang cháy, mà cậu còn ngồi nhặt
nhạnh của
nả hả?
Tôi im tịt
chẳng nói được gì.
Đầu óc dường như mụ lị. Đúng thật. Sao mình lại ngu thế nhỉ. Ai lại
chọn lọc
của cải khi mà nhà đang cháy. Mãi đến lúc thoát ra khỏi cái mê cung của
Xuân
Diệu rồi, đạp xe đi một quãng xa rồi, tôi mới sực tỉnh, mới nhận ra một
điều quá
ư là đơn giản: in thơ tập, và cháy nhà là hai việc rất khác nhau."
Như trên
đã nói, văn chương bắt
đầu bằng những từ: "là" (Em là gió, là mây...), "hình như"
(là tình yêu), "như" ("sáng nay Nga như một con mèo ngái
ngủ...", "buổi sáng sớm tinh sương như một vết thương mới lên da
non"...). Tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, thậm xưng, cường điệu....) đề
nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Chúng ta tự hỏi: tại sao Xuân Diệu
lại so
sánh chuyện cháy nhà với chuyện làm thơ? Và cảm giác "mụ lị" của Trần
Đăng Khoa, và thái độ "phản tỉnh" (tự kiểm thảo?) sau đó, có thể hiểu
như thế nào?
Liệu có
thể có một nối kết giữa
con sói ở góc rừng, nỗi sợ của cậu bé, chuyện cháy nhà (chiến tranh,
B.52, chủ
nghĩa toàn trị sẽ phần thư tất cả, chỉ để lại những câu vè...), nỗi sợ
của Xuân
Diệu, con sói giả tưởng của ông... Cả hai nhà thơ, Xuân Diệu và Trần
Đăng Khoa
đều nhận ra một sự thực: có những câu thơ của Xuân Diệu đã vươn tới cõi
thơ
Đường, đã trở thành tự nhiên như cây cối, như sỏi đá, người đọc mê
luôn, và
chẳng cần biết tác giả là ai. Nhưng để cho những câu thơ tồn tại, phải
quăng
vào đó, một mớ váy đụp... Như một nhà thơ, Xuân Diệu biết rõ, thời gian
qua đi,
chủ nghĩa toàn trị sẽ qua đi, sẽ bị huỷ diệt, tới lúc đó, nàng công
chúa sau
giấc ngủ dài, rũ khỏi lớp váy đụp, vươn vai tỉnh dậy...
Là thi sĩ,
làm sao ông không
biết bài ca dao vịnh Phượng Hoàng:
Phượng
hoàng đậu chốn cheo leo,
Sa cơ thất
thế phải theo đàn
gà.
Bao giờ
mưa thuận gió hòa,
Rũ lông,
rũ cánh, lại ra phượng
hoàng.
(Tôi viết
lại theo trí nhớ).
Chen Yun (Trần Vân), kinh tế gia,
thuộc
đảng bộ Bắc Kinh, trước khi mất vào tháng Tư, 1995, đã so sánh chính
sách kinh
tế Thị Trường Mới (New Market economy) của Trung Quốc như một con chim
tư bản
lớn lên ở bên trong cái chuồng xã hội chủ nghĩa (a capitalist bird
growing up
inside a socialist cage). Liệu đã tới lúc con phượng hoàng thơ vỗ cánh
thoát ra
khỏi cái chuồng giam giữ nó?
-----------
Lời người
viết: Bài ca dao vịnh
Phượng Hoàng, qua một bạn văn cho biết, còn được truyền tụng như sau:
Phượng Hoàng đậu núi cheo leo,
Sa cơ thất thế
phải theo đàn gà.
Bao giờ trời nổi
can qua,
Thay lông đổi
cánh, lại ra Phượng
Hoàng.
Vẫn theo anh bạn văn, phượng hoàng
theo
truyền thuyết, là một con chim lửa, không bao giờ chết, theo nghĩa, mỗi
lần
muốn tái sinh, là phải lao vào lửa. Nhà văn Đức, Heinrich Boll
(1917-85), Nobel
văn chương (1972), khi nói về văn chương Đức sau Lò Thiêu Holocaust, đã
tự hỏi:
Làm thế nào con phượng hoàng thò được cái mỏ của nó ra khỏi biển lửa?...
V
Cái độc,
cái ác trong văn
chương
Trong bài
viết mở đầu, người
viết có đưa ra một nhận xét: Cái độc không thể thiếu vắng ở trong văn
chương.
Cái độc, cái ác là "thức ăn" của thiên tài. Không độc không trượng
phu!
Nhưng độc, ở đâu
ra?
Cái độc cái ác
trong văn chương,
là từ...
chi tiết mà người viết đem từ đời sống vô. Hoặc lấy ra từ ... dưng
không (...
dưng không trồi lên sự thực, Thanh Tâm Tuyền, Cát Lầy). Từ tưởng tượng,
hoặc hư
tưởng - hư tưởng theo nghĩa của thi sĩ người Pháp, St.-John Perse,
Nobel văn
chương 1960: nhà văn là tâm thức bất bình, hư tưởng, mauvaise
conscience, của
thời đại.
Nói theo
sinh học, chi tiết
(detail) là ADN của văn chương.
Kundera đọc Kafka
và nhặt ra những
chi tiết
cực kỳ thơ trong một thế giới cực kỳ không thơ: thế giới mê cung trong
Tòa Lâu
Đài. Theo chân ông, người viết đã lần tìm những chi tiết độc, đẹp trong
truyện
ngắn của Lê Minh Hà. Một cô gái đưa tiễn người bạn trai vào Nam chiến
đấu, tại
ga Hàng Cỏ, Hà Nội; và cô chỉ ngửi thấy chỗ nào cũng sặc mùi nước đái.
Bởi vì
chỉ có nó (mùi nước đái) mới giải tỏa được một phần nào, nỗi đau nỗi
hận của
cô, về cái chết của một cô bạn (bị lưỡi bom B.52 liếm!). Từ những chi
tiết độc
và đẹp đó, chúng ta hiểu một điều: Nếu không phải Thượng Đế, thì chính
là quỉ,
nằm ở trong chi tiết (G. Steiner trích dẫn Bearsley, trong Errata:...
if not
God, the devil lies in the detail).
"Đứng
trước một đứa trẻ
chết đói, cuốn Buồn Nôn, La Nausée, chẳng có ký lô nào", Sartre đã từng
tuyên bố. "Người Nghệ Sĩ Đói" được giới phê bình đánh giá là "truyện
ngắn độc ác nhất" của Kafka. Công chúng phải trả tiền để vào xem người
nghệ sĩ đói, để mân mê thân hình trơ xương của anh. Người ta cũng đã
từng nói
tới những chi tiết tàn nhẫn, cái ác trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Tại sao
lại có những chi tiết tàn nhẫn như thế? Bởi vì trong "thực tế" (đẻ ra
tác phẩm của ông), ông đã "thực tế" cái điều: Đứng trước một đứa trẻ
chết đói...
Câu nói
của Sartre được đưa ra
"mổ xẻ", như chúng ta đang "mổ xẻ" (cuốn Chân Dung và Đối
thoại), trong một cuộc hội thảo mang tựa đề "Văn chương có thể (làm)
được
gì"; và một nhà văn khác - hình như Yves Berger (?) - đã "bực
mình" trả lời, đại khái: đứa trẻ chết đói đó ở đâu, Mr. Sartre có cần
tôi
tiếp tay, cứ ới một tiếng; nhưng sau đó, Mr. Sartre cho tôi tiếp tục
viết
(văn)!
Câu trả
lời cho thấy một điều,
chuyện viết văn và chuyện cuộc đời có cái gì đó "không liên can" gì
tới nhau. Rằng, chúng ta vẫn phải chiến đấu với cái ác, ở trong cuộc
đời, và
chúng ta vẫn tiếp tục viết - nghĩa là chống lại cái ác, (hoặc bênh vực
nó?) - ở
trong văn chương.
Cũng theo
ý nghĩa đó, khi Miss
Thackeray ngồi đọc tiểu thuyết vào những buổi sáng chúa nhật, là "bởi
vì
tôi - Anne Thackeray Rithchie, trưởng nữ của Thackeray - không nghĩ
việc này
sai trái". (Virginia Woolf, The Enchanted Organ, trong Collected
Essays.
Volume VI).
Tại sao
lại "mặc cảm"
như thế?
Là bởi vì,
trong lúc bà đọc
tiểu thuyết, người ta "phải đi" nhà thờ!
Là bởi vì
"mọi người đều
đúng và không ai biết gì hết". (That everybody is right and nobody
knows
anything).
Để trả lời
những "vấn
nạn" nêu trên: Tại sao cả nước xúm nhau vào đọc một cuốn sách, tại sao
nó
được bán kèm với những vật dụng chẳng ăn nhậu gì tới văn chương như tờ
An Ninh
Thế Giới... có lẽ đành phải trở về với câu nói của nhà thơ nữ người Nga
Akhmatova: Chỉ người nào sống ở Nga, nghe đài mỗi ngày... mới hiểu được
chủ
nghĩa Cộng sản là gì.
VI
Lê Lựu
đại
náo Huê Kỳ
Người đã
đi Mỹ hai lần
Biết rồi
khổ lắm nói mãi
Xuân Sách
(Chân Dung Lê Lựu)
"Nhà thơ
nhà nước"
(poète d'état) Yevtushenko - trong một cuộc họp báo ở Mỹ, khi được hỏi,
tại sao
ở Nga có hiện tượng "làm vua suốt đời" như Stalin, trong khi ở Mỹ cứ
bốn năm là phải bầu lại tổng thống - đã trả lời, đại khái: Nga là một
nước cổ,
lâu đời, "vợ chồng" lấy nhau một lần và chẳng nghĩ đến chuyện li dị,
trong khi Mỹ là một nước mới lập, cứ thay đổi người tình xoành xoạch!
Đọc Chân
Dung và Đối Thoại,
đoạn họ Trần kể lại cách ứng xử của Lê Lựu khi được mời qua Mỹ, bỗng
nhiên tôi
nhớ tới câu trả lời thật "thông minh, dí dỏm" và cũng thật "khôn
ngoan, láu cá" của nhà thơ đàn anh của ông.
"Khi hỏi
cảm giác của anh
tới Liên Xô và Mỹ, anh cười: 'Tôi rất ngạc nhiên. Ngạc nhiên đến kinh
ngạc. Ở
Liên Xô tôi lại tưởng Liên Xô là Mỹ, và khi ở Mỹ thì tôi cứ nghĩ Mỹ là
Liên Xô.
Còn hỏi về chuyến đi Mỹ của anh thì anh cười hề hề: 'Chẳng có gì to
tát, và
nghiêm trọng cả. Mình với Mỹ như hai anh láng giềng, có một thời xích
mích, gây
ra cãi cọ, dẫn tới choảng nhau, rồi thì rào kín cổng ngõ, không thèm
nhìn mặt.
Bây giờ cơn nóng giận đã qua rồi, cả hai đều muốn ngồi lại với nhau,
nhưng anh
nào cũng sĩ diện, không muốn làm lành trước, đành nghĩ ra cái mẹo, là
xua chó
gà sang nhà nhau, rồi lấy cớ ấy mà hỏi qua hàng rào: 'Này bác ơi, bác
có thấy
con gà, con chó nhà tôi chạy qua bên đó không?' Ấy thế rồi nói chuyện
được với
nhau đấy. Tôi sang Mỹ là cũng để làm con gà con chó thôi. Có gì ghê gớm
đâu cơ
chứ".
Nhưng chi
tiết sau đây mới thật
"tuyệt", theo tôi:
"Có một
lần Lê Lựu đến dự
cuộc gặp gỡ, trao đổi với các nhà văn cựu chiến binh, trong một biệt
thự sang
trọng. Anh ăn mặc lịch sự như một chính khách. Cuộc gặp gỡ được hai bên
chuẩn
bị chu đáo, nhưng Lê Lựu vẫn băn khoăn, vẫn thấy có một cái gì đó chưa
thật ổn
thỏa. Anh vội bí mật nhìn trước nhìn sau, xem có ai tò mò để ý đến mình
không
rồi thì thật bất ngờ, anh vắt cả cái chân còn nguyên tất lên mũi và...
ngửi.
(Không biết ông có bị "ảnh hưởng" bởi Khrushchev, khi tháo giầy đập
lên bàn hội nghị Liên Hiệp Quốc, và ông vua kinh dị Hitchcock đã nhìn
thấy tất
của ngài Bí thư có lỗ thủng to tổ bố...? NQT). Cử chỉ lạ lùng, quái đản
này
không lọt qua được mắt các nhà văn Mỹ, đã từng là lính trinh sát trong
cuộc
chiến tranh ở Việt Nam, họ 'mế Lê Lựu ngay từ cái cử chỉ dị mọ rất...
Lê Lựu
này. Cử chỉ ấy, nếu ở người khác, có thể gây nên sự khó chịu, nhưng ở
Lê Lựu,
người ta lại thấy đáng yêu, vì nó xuề xòa, tự nhiên và hợp lý như sự
sắp đặt
của Chúa..."
Lẽ dĩ
nhiên, chúng ta nhìn ra
"chính chúng ta" - người Việt xấu xí - ở trong đó: Láu cá vặt. Như
những chuyện tiếu lâm về Trạng Quỳnh, Bà Thị Điểm... đối đáp với xứ
Tầu. Chuyện
ông Trạng xé bỏ bức tranh, vì lầm chim trong tranh là thật: Sẻ làm sao
đậu trên
cành trúc? Kẻ tiểu nhân làm sao đứng bên người quân tử? Chuyện chọi
trâu...
Cũng có
thể dựa vào "hiện
thực", để bắt bẻ: Cuộc chiến Việt Nam không đơn giản chỉ là chuyện hai
ông
láng giềng cãi cọ. Bởi vì muốn tránh né nó, hoặc không dám đối đầu, (vì
dốt
nát, mặc cảm tự ti...?).
Hãy nói
qua về phương pháp phê
bình (vẽ chân dung) một tác giả, của Trần Đăng Khoa. Họ Trần thường đưa
một
người lên, trong khi hạ một người khác xuống. Phê bình Nguyễn Tuân, có
ngay một
Vũ Bằng. Cũng vậy với Lê Lựu: có ngay một Nguyễn Mạnh Tuấn. Theo tôi,
là như
thế này: Vấn đề đặt ra trong Cù Lao Tràm là có thực: nhu cầu đổi mới
trong văn
chương, trong đời sống, trong đạo đức, trong quan hệ giữa người và
người. Nhưng
Nguyễn Mạnh Tuấn chỉ mới khua động nó lên. Ngoài ra còn tài năng, can
đảm của
người viết. Với họ Nguyễn: cuốn sách vẫn được viết dưới ánh sáng của
Đảng, của
chủ nghĩa hiện thực vào thời điểm "đọa đầy" nhất của nó, báo trước sự
xuất hiện Chuyện Thằng Cuội, một tác phẩm cũng của Lê Lựu, mà theo như
dư luận,
và Trần Đăng Khoa đánh giá: "Hỏng! Một cuốn sách phản động. Bôi nhọ xã
hội. Thật bậy bạ quá mức... Không ngờ lão (Lê Lựu) đổ đốn thế... Ấy là
lối viết
tự nhiên chủ nghĩa, nhiều chỗ tuột khỏi văn chương, trượt sang phạm trù
mất vệ
sinh, khiến người đọc cảm thấy ghê sợ vì nó cứ bẩn bẩn thế nào..."
Trong Thời
Xa Vắng, người đọc
chỉ có thể mường tượng ra, chân dung một tác phẩm lớn: một cá nhân -
một anh
chàng nông dân Bắc Kỳ, trước hai cuộc đổi đời vĩ đại: chống Mỹ cứu
nước, thống
nhất hai miền thoát khỏi ngoại bang, và thoát khỏi... cô vợ: cái cùm do
Đảng đè
lên đầu lên cổ anh. (Đảng ở đây, còn mang tính truyền thống, dân tộc:
ngày xưa
cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy, bây giờ Đảng bắt lấy ai, phải chịu phép!)
Bởi
vậy, Trần Đăng Khoa đã không hiểu được thái độ của Lê Lựu là vậy:
"Thằng
Sài ghét vợ nó đã đành, vì nó lấy phải người nó không yêu, nó quẫn nên
mới đâm
lẩn thẩn, tàn nhẫn như thế, chứ còn bác thì có gì mà bác cũng căm thù
vợ Sài
đến như vậy? Cô ấy có tội tình gì?"
Hận thù ở
đây không mang tính
cá nhân, vợ chồng.
Hiểu theo
một nghĩa nào đó, cô
vợ còn là một điểm chỉ viên, của Đảng.
"Tất cả
những nhà văn sáng
suốt (đều) diễn tả một trận đánh, và công thức của Kafka - 'Thượng Đế
không
muốn tôi viết, nhưng tôi, tôi phải (viết) - có thể dùng làm khẩu hiệu
của họ
(Tous les écrivains lucides décrivent un combat, et la formule de
Kafka:
"Dieu ne veut pas que j'écrive, mais moi je dois", pourrait leur
servir de devise. Philippe Sollers: L'écriture au combat, bài giới
thiệu một
tập gồm những truyện chưa từng in ấn của Hemingway).
Trong
Thời
Xa Vắng có một trận
đánh, nhưng không phải cuộc chiến mà chúng ta nghĩ: xâm lăng Miền Nam.
Vì không
có trong tay văn bản, lại đọc nó từ một thuở xa xưa nào ở quê hương,
người viết
không thể có một cái nhìn thật chính xác về tác phẩm này. Nhưng qua tóm
tắt của
Trần Đăng Khoa:
"Lại còn
một lớp phụ nữa
không kém phần rôm rả, thú vị. Ấy là cảnh chiến tranh, ồn ào khói lửa,
súng
ống. Người đọc được sống lại những năm tháng hào hùng sôi động. Những
năm ấy,
người ta có thể xé bỏ giấy triệu tập đi học nước ngoài, lấy máu viết
đơn (xin)
ra mặt trận. Đó là một giai đoạn lãng mạn có thật mà Thời Xa Vắng đã đề
cập đến
một cách khách quan. Nhưng tất cả những ngón trò ấy chỉ là những lớp
phụ".
Cuộc chiến
mà Lê Lựu diễn tả -
đúng như quan niệm của P. Sollers khi định nghĩa văn chương và nhà văn
"sáng suốt" - nằm ngay trong cái tên truyện Thời Xa Vắng theo Trần
Đăng Khoa:
"Thì Lê
Lựu đã nói thẳng
ra thế, nói ngay ở ngoài bìa sách. Đây là một chuyện của một thời mà Lê
Lựu gọi
nó là "Thời Xa Vắng". Xa mà không xa. Nó vẫn ngự trị, vẫn treo lơ
lửng đâu đó ở trên đầu mỗi người như một bóng ma. Nó là nỗi ám ảnh kỳ
quái
nhưng lại có sức mạnh thần linh. Và vì nó tồn tại vô hình, nên người ta
mới sợ.
Sài sợ... Cả ông Hà bí thư, người lãnh đạo cao nhất trong Thời Xa Vắng
cũng sợ
nốt. Ở cái xứ sở kỳ quái ấy, con người dường như chỉ tồn tại mà không
được
sống, không được làm người. Sài đã chiến đấu quyết liệt để giành lại
cho mình
cái quyền làm người, nhưng anh đã thất bại thê thảm."
Đó mới là
cuộc chiến đích thực
của "cu Sài". Cuộc chiến chống lại một Thời Xa Vắng, - nói theo nhà
văn nữ người Nga, T. Tolstaya - nằm đâu đó bên dưới những tầng sâu
hoang vắng
của lịch sử Nga, từ đó nhô lên bông hoa độc: chủ nghĩa toàn trị.
V
Hạt thóc
của Phù Thăng
"Nếu
tính
cách là do hoàn
cảnh tạo ra, thì cần phải làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn."
Marx
"Liệu con
người có hồi
sinh được không, từ những đòn đau ê ẩm của Chekhov?"
Gorki
(Phan Hồng
Giang trích dẫn,
trong giới thiệu tuyển tập truyện ngắn Chekhov, nhà xb Văn Học, hai
tập, 1977).
Trong số
những bài viết của
"Chân Dung và Đối thoại" (Trần Đăng Khoa), được hải ngoại đăng lại,
kèm hoặc không kèm lời bình, "đạt", có: bài viết về (con nai vàng ngơ
ngác của) Lưu Trọng Lư, (đôi tất của) Lê Lựu, (trận cháy của) Xuân
Diệu, và
(hạt thóc của) Phù Thăng.
"Hạt
thóc", là câu
chuyện "về một gã tâm thần. Gã từng là nhà văn, từng làu làu tiếng
Pháp.
Thế rồi chẳng biết do ngộ chữ thế nào đó, gã đâm lẩn thẩn. Gã cứ nghĩ
mình là
hạt thóc bé bỏng tội nghiệp. Và vì thế cứ trông thấy gà qué ở đâu là gã
co cẳng
chạy".
"Thật tội
nghiệp cho gã!
Thà gã cứ nghĩ mình là một cục cứt để rồi mà sợ chó, thì đời gã chẳng
đến nỗi
khổ như vậy."
Bởi vì hạt
thóc, gà... liên
quan tới nhà quê, cho nên Trần Đăng Khoa giải thích cụm từ "thà gã cứ
nghĩ
mình là một cục cứt để mà sợ chó":
"Chó đang
thưa vắng dần. Ở
làng quê bây giờ có bói cũng chẳng tìm thấy bóng dáng một chú chó nhỏ.
Để đề
phòng bệnh dại, người ta đã triệt chó". Nhưng liền đó, là:"Chỉ ở Hà
Nội mới có chó. Rất nhiều chó." (tôi cứ tưởng tượng cái cảnh Trần Đăng
Khoa viết đến đoạn này, khoái quá, rồi sợ quá, ông bèn viết thêm) "Chó
ngào ngạt suốt một rẻo đê Nhật Tân. Nhưng đó là những con chó hòa bình,
chẳng
có gì phải sợ". (Ở đây, loáng thoáng câu tục ngữ: chó chết, hết
chuyện!).
Một truyện
ngắn
"mini", (truyện cực ngắn) như Trần Đăng Khoa cho biết. Ông giải
thích, "có truyện chỉ vài trăm chữ, thậm chí vài chục chữ, mà vẫn
chuyển
tải được tới bạn đọc một vấn đề lớn. Chỉ một dúm chữ, nhưng truyện vẫn
có hồn,
có cốt, có cả nhân vật. Nói tóm lại, nó vẫn là cái truyện nghiêm chỉnh,
chứ
không phải một dạng tiểu phẩm, có tráng qua chút văn chương."
Sau đó
người bệnh được một bác
sĩ tâm thần chữa trị. "....bằng tấm lòng nhân ái ấy, ông bác sĩ tài ba
ấy
đã cứu được gã, đã đưa gã từ cõi mộng mị hoang tưởng về với xứ người.
Ông anh
làm nghề gì? Tớ là nhà văn. Cóc phải! Người ta bảo ông anh là hạt thóc.
Bậy! Tớ
là con người. Cậu nói gì mà lạ thế? Tớ là con người!"
Trong bài
về Xuân Diệu, người
viết có nhắc tới nhà văn Nga, Nabokov. Trong "Độc giả tốt và nhà văn
tốt" ông viết: "Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một đứa trẻ
chạy trối chết từ một cánh rừng ra, và chạy và la: 'chó sói, chó sói!',
và một
con sói bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn 'chó
sói, chó
sói!', và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào.... giữa con sói ở góc
rừng và
con sói ở góc trang sách, có một mắt xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng
kính đó,
là nghệ thuật văn chương".
Ở đây, với
"Hạt Thóc"
của Phù Thăng, có một ẩn dụ, không những liên quan tới văn chương, mà
còn tới
phận người. Chồng chất những nỗi cơ cực ở trong đó.
Qua Trần
Đăng Khoa người đọc
biết, Phù Thăng là một nhà văn bị biếm, may không bị giết, nhờ đã chút
công với
cách mạng. Một cách hết sức tự nhiên, người đọc liên tưởng từ hạt thóc
tới tác
giả của nó: ông là một hạt thóc, bị những đồng chí cách mạng chạy theo
bén gót,
may được "đồng quê" chữa trị. Với tôi, đoạn Trần Đăng Khoa viết về
những ngày bị biếm của Phù Thăng, và một con trâu điên - (bạn hay Phù
Thăng
đích thị?) - là những trang sách đạt nhất của "Chân Dung và Đối
thoại":
"Phù Thăng
làm quần quật
như một nông dân. Chẳng ai biết ông là một nhà văn hào hoa phong nhã
một thời.
Bà bán nước chè xanh ở quán nước đầu xã Cộng Lạc, vốn là một giáo viên
nghỉ hưu
tỏ ra rất am tường: 'Các bác muốn tìm ông Thăng mà hỏi nhà văn Phù
Thăng thì
chẳng ai biết đâu. Cứ hỏi ông Thăng có con trâu sứt tai, hoặc gọi tắt
là ông
Thăng sứt, thì cả làng này ai cũng biết.... Mà kể cũng lạ... ông lão
người cứ
quắt như gốc sắn khô, mà trị được con trâu to vật. Con trâu ấy dữ lắm,
trẻ con
đứa nào cũng hãi. Con điên sứt ấy đã cho mấy ông thợ cày thủng bụng rồi
đấy.
Vậy mà nó chịu ông Thăng...'
"Vậy đó.
Con điên. Con
điên sứt. Những biệt hiệu đầu gấu sặc mùi đao búa của con trâu ương
ngạnh, ai
ngờ lại là đặc điểm, là chứng chỉ để người ta nhận diện một nhà văn...
Thực
tình Phù Thăng đâu đã bỏ văn, để rồi phải núp sau cái tai sứt của con
trâu điên
khùng. Ông vẫn viết cần mẫn. Ngày cày ruộng quần quật, đêm lại chong
ngọn đèn
dầu, cặm cụi 'cày' trên cánh đồng giấy trắng rợn, trắng đến sởn cả da
gà. Bà vợ
hơn ông hai tuổi lại rên rẩm:'Thôi, tôi lạy ông! Đừng viết nữa. Khổ đến
thế còn
chưa đủ sao? Nhất nhỡ lại sa sẩy nữa thì sống sao nổi. Ông già rồi...'
Nhưng
Phù Thăng làm sao bỏ viết được. Cái nghiệp văn chương nó thế. Không
phải ông
chọn văn chương mà chính văn chương đã chọn ông để đầy đọa, để hành hạ
ông
trong cõi người này.... Chồng bản thảo mỗi ngày dầy thêm. Phù Thăng gói
bản
thảo thành từng bó, quấn giấy xi măng, rồi cho vào chum ủ lá xoan tươi.
Đấy là
cách phòng chống mối mọt của những nông dân nghèo thời trung cổ. Trong
căn
buồng ẩm thấp, tối sẫm, lúc nào cũng vo ve tiếng muỗi, ngoài chum thóc,
chum
sắn còn có cả một chum văn nữa..."
Đoạn chót
bài viết, là chuyện
chum văn "chết" gặp gỡ những chum văn "sống":
"Thấy
chúng tôi, ông sững
lại, rồi reo òa lên như một đứa trẻ:
-Ối giời,
các ông! - Và rồi,
thật bất ngờ, Phù Thăng sụp xuống. - Tôi lạy ông Khải, tôi lạy ông Lựu,
tôi lạy
ông Khoa!
Ô hay, sao
lại thế này? Lê Lựu
há hốc mồm kinh ngạc. Nguyễn Khải đứng dậy, luống cuống. Xưa nay người
ta chỉ
lễ người chết, chứ mấy ai lễ người sống bao giờ..."
Độc giả
thấy thấp thoáng đoạn
kể, nỗi sợ bất thần của anh chàng tâm thần khi thung thăng ra viện:
"Nhưng
thật oái oăm, chính cái lúc ấy... thì lại vút lên tiếng gà gáy. Thế là
gã co
cẳng chạy.... Ông làm sao thế hả? Con gà... con gà... gã líu lưỡi lại.
Ông anh
có phải là hạt thóc không? Bậy! Tôi không phải là hạt thóc. Tôi là
người. Là
con người.... Nhưng con gà, vâng chính con gà ấy, nó vẫn cứ tưởng tôi
là hạt
thóc, thì sao?"
Tôi là
người nhưng những con gà
nó không chịu cho tôi làm người, thì sao?
Và Trần
Đăng Khoa kết luận:
"câu chuyện mi-ni của ông xưa, lại ám ảnh tôi, chợt làm tôi ớn lạnh.
Bất
giác, tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn.
Chỉ sợ ở
một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sẫm kia, lại bất ngờ cất lên một
tiếng gà
gáy..."
Bạn có
thấy câu văn đóng bài
viết "đạt" không? Trần Đăng Khoa nhập vào nhân vật chính trong chuyện
mini "Hạt Thóc", cũng như Phù Thăng đã nhập vào trước đó. Ở đây, có
tới ba chuyện mini "Hạt Thóc". Ba nhân vật là một nhân vật (anh chàng
bệnh tâm thần; anh chàng "tớ là nhà văn" - Phù Thăng; anh chàng
"tớ là nhà thơ" - Trần Đăng Khoa).
Để giải
thích kinh nghiệm tuyệt
vời này, cho phép tôi được nhắc tới bài tựa thi phẩm "Lá Cỏ" (Leaves
of Grass, của Walt Whitman), của Jorge Luis Borges (trong cuốn Sách
Tựa, Livre
de Préfaces).
Borges
nhắc tới cảm giác bực
bội, của ông và cũng là của nhiều người, khi chuyển từ những dòng thơ
tuyệt vời
trong Lá Cỏ, qua những cuốn viết về tiểu sử tác giả, nhà thơ Walt
Whitman:
người đọc cố tìm nhà thơ lang thang bán-thần, người đã làm nên những
câu thơ
thần trong Lá Cỏ, và ngạc nhiên vì không làm sao tìm ra. Bài Tựa của
ông, là để
giải thích lý do tại sao đó.
Lá Cỏ là
hùng ca về nước Mỹ,
vào thời kỳ lập quốc, và là một trong những biểu tượng về một cõi lý
tưởng,
thiên đàng hạ giới (có thể bây giờ vẫn còn được nhiều người tin như
vậy). Những
hùng ca, với những nhân vật như Achille, Ulysse... đã thuộc về một thế
giới bị
tiêu huỷ, hoặc chúng ta muốn tiêu huỷ: thế giới quý tộc. Thế giới của
tôi
(Whitman) không thể bắt chước những khuôn mẫu đó: nhân vật chính của nó
(hùng
ca) phải ở số nhiều.
Trong tập
thơ, nhân vật chính,
chính là Walt Whitman, ở số nhiều. Không những ở số nhiều mà Whitman
còn muốn,
nó vô tận: ông cộng vào nhân vật chính, một nhân vật thứ ba: độc giả!
Bởi vì,
như Borges giải thích:
Đọc Macbeth, một cách nào đó: là Macbeth.
Bịa ra một
nhân vật, đã khó.
Biến nó thành hai, thành ba, rồi thành vô cùng, làm được như vậy, chỉ
mới có
Whitman.
Đọc
Phù Thăng của Trần Đăng
Khoa, độc giả cũng cảm thấy rờn rợn, vì một tiếng gà gáy bất thình lình
ré
lên...
Một
bài viết thật tuyệt vời,
với riêng tôi.
Theo Trần
Đăng Khoa, Phù Thăng
viết truyện Hạt Thóc khi đã rời bỏ Hà Nội, trở về quê, làm một thợ cầy.
Trước
đó, ông từng là tác giả kịch bản nổi tiếng. Tiểu thuyết Phá Vây dày 500
trang,
viết trực tiếp về cuộc chiến tranh vùng Bắc Bộ. Một cuốn sách ca ngợi
chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, nếu không có vài dòng ông luận về chiến tranh.
Trong đêm,
trước buổi mai một trận đánh lớn, nhìn cậu lính nào cũng trẻ đẹp, sức
trai như
thế kia vào trận mà chết thì uổng quá. Nếu không có chiến tranh, những
sức vóc
ấy mà cho đi phạt bờ, cuốc góc thì sướng biết mấy... Tôi nghĩ Hạt Thóc
đã nẩy
mầm ngay lúc đó. Ông muốn là một hạt thóc của văn chương, thay thế
những hạt
thóc bị phí phạm của cuộc đời. Nói một cách riết ráo, điều mà Phù Thăng
muốn,
là một thứ văn chương của hạt thóc, chứ không phải văn chương của đàn
gà! Cái
đoạn tả ông sụp lạy những đàn anh văn nghệ cho thấy: hãy cứ cho tôi là
(văn
chương của) hạt thóc, đừng săn đuổi tội nghiệp! (Bài viết của Trần Đăng
Khoa có
thể làm độc giả ngộ nhận: Phù Thăng đã trở nên điên khùng như nhân vật
của ông.
Đây là một cách quy chụp, thường xẩy ra cho những nhà trí thức từng
theo Đảng
và sau đó phản tỉnh, như trường hợp Trần Đức Thảo chẳng hạn).
Ngay trong
bút hiệu của ông, đã
có một ước vọng (phù thăng đọc ngược là thằng phu).
Nhưng
cũng có thể, khi Phù
Thăng cho nhân vật nhập vào một hạt thóc, ông còn liên tưởng tới kỷ
niệm thuở
ấu thời. Mấy bà mẹ, mỗi lần thấy đứa nhỏ để vương vãi khi ăn, thường
căn dặn:
hạt thóc, hạt gạo, hột cơm là những hạt ngọc của trời, nhặt lên đi con.
Mấy bà
mẹ làm sao hiểu nổi định luật bảo toàn năng lượng - chẳng có gì sinh
ra, chẳng
có gì mất đi - hạt thóc vương vãi dành cho gà qué, hột cơm vào bụng,
tiêu hóa,
nuôi cơ thể, phần dư thừa biến thành thức ăn của chó, rồi tất cả ngào
ngạt ở Hà
Nội... nhưng ở giữa hạt thóc mà đàn gà săn đuổi, và ao ước giá là một
cục cứt
thì đỡ khổ biết bao nhiêu, là thân phận (hoặc vinh quang của) người
viết: chọn
văn chương hay "được" văn chương chọn lựa...
Nguyễn Quốc Trụ