Truyện ngắn, tình yêu, và chiến tranh
Nhà văn Thảo
Trường có tham vọng, nhét cả một cuộc chiến vào trong một truyện ngắn.
Qua bài phỏng vấn
trên tạp chí Văn, tôi thấy lại, dáng người to con, kềnh càng, nụ cười
hóm hỉnh của ông, những lần tình cờ đụng đầu ở ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Hồng Thập Tự: Tôi từ nhà đi ra, vòng tới trước cư xá Thành Tín, đường
Hồng Thập Tự, kế bên đài Truyền Hình, rồi theo con hẻm sở Điện Lực băng
qua Phan Đình Phùng, tới sở làm. Còn ông đi vô "cục số 8", An Ninh Quân
Đội. Con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm cứ mỗi lần thành phố trở trời là lại
vật mình vật mẩy, rộp lên với những hàng rào kẽm gai. Mấy "chú" lính
thường rảnh rỗi, đọc sách "chữ Tầu" cho qua phiên gác.
Có lần tôi vào thăm ông. Cũng thật nhiêu khê. Tôi cứ lẩn thẩn nghĩ
thầm, tướng tá thì hiền khô, lính tráng thì toàn thứ "trốn quân dịch",
vậy mà tên cơ quan thật dữ dằn. Mà dữ dằn thật! Tôi "nghi" rằng, tham
vọng của ông là từ nụ cười hóm hỉnh mà ra. Tôi tưởng tượng, ông đã có
lần nhìn thấy vị thần khổng lồ bị ông thuyền chài tinh quái bắt chui
vào chai, để ông trả lại biển cả. Có thể ông "lựa chọn" văn chương, là
cũng chỉ để thực hiện giấc mơ "tiềm ẩn" từ thuở nào: nhét cả cuộc chiến
vào trong một truyện ngắn, rồi làm ông chài, vừa buông lưới, vừa
"canh", vừa "cảnh tỉnh" nhân loại, như thể đây là "cuộc chiến cuối
cùng"... Rồi tôi lại lẩn thẩn, tham vọng của ông đã có ai thực hiện
được chưa. Họa sĩ Choé, trong một bức hí họa, vẽ cảnh cả nước Mỹ, - và
nếu hiểu rộng ra, cả nhân loại - hì hục kéo một anh GI ra khỏi cái
chai, như muốn nói lên cùng tham vọng, nhưng có bề ngoài ngược lại: kéo
lương tâm nhân loại ra khỏi một cuộc chiến mà nó nghĩ là "bẩn thỉu".
Liệu chúng ta có thể coi, bức họa của ông, như một "truyện" cực, cực
ngắn, chỉ còn một chữ ký, "Choé", một vài nét vẽ ? Khi Milovan Djilas
mất, tờ Guardian thì phải, viết, ông có lẽ là người duy nhất, ở phía
bên kia, mà phía bên này đau thương ngậm ngùi, vì nỗi mất mát lớn lao.
Ông sinh năm 1911, tại Montenegro. Nhà văn, nhà lãnh đạo chính trị Nam
Tư, đảng viên đảng Cộng Sản (1932), đã từng giúp đỡ Josip Broz Tito
thành lập đội quân chí nguyện chiến đấu trong cuộc nội chiến Tây Ban
Nha. Hoạt động trong lực lượng kháng chiến Nam Tư, thời Đệ Nhị Chiến.
Chiến tranh chấm dứt, trở thành nhân vật quan trọng trong đảng, và
trong chính quyền. Là cố vấn chính trị của Tito, ông lên tiếng tố cáo
mọi toan tính của Kremlin, nhằm đưa Nam Tư vào quỹ đạo Xô-viết. Được
coi là người kế vị Tito; nhưng tới năm 1954, ông đột nhiên bị truất
khỏi chính quyền. Do ủng hộ cuộc cách mạng Hungary nên đi tù 1956, kéo
dài tới 1957 vì sự xuất hiện, tại phương Tây, tác phẩm "Giai Cấp Mới:
Một Nghiên Cứu Hệ Thống Cộng Sản". (Cuốn này đã từng gây sôi nổi tại
Miền Nam, trước 1975). Được thả 1961, bị bắt lại 1962, và sau cùng được
tự do, 1966. Tác phẩm: Miền Đất Không Công Lý, Chuyện trò với Stalin,
Xã Hội Bất Hoàn Hảo, Dưới Những Sắc Mầu (tiểu thuyết), Hồi Ký Của Một
Người Cách Mạng. Ông cũng viết truyện ngắn. Một, có nhan đề "Chiến
Tranh", tả hai ông bà già, lụm cụm kéo một chiếc áo quan từ tiền tuyến
về quê. Trên đường, giữa những dân quê cùng đi, có kẻ nghi ngờ - không
phải những giọt nước mắt, những lời khóc than của ông bà già, về người
con trai tử trận - mà là chiếc quan tài. Tới trạm gác, người đó tố cáo
với lính canh. Mở ra, quả có anh lính "đào ngũ". Thể theo đúng nguyện
vọng, đưa xác con về quê nhà mai táng, người lính gác đã "đòm" một
phát.
Trong một truyện khác, một bà mẹ, trên một chuyến xe, hãnh diện nói về
những thành tích, chiến công của người con, và khi người bên cạnh nhẹ
nhàng nhắc nhở, thế cậu đó đâu, bà khóc oà.
"Thiên hạ chỉ có ba bồ chữ", cho nên sáng tạo, theo Koestler, là "tài
sản riêng" của ba nhà: Bác học, Nghệ sĩ, và Hề sĩ. Trong cuốn Hành vi
Sáng tạo, The Act of Creation, ông cho thấy sự tương tự, trong tiến
trình sáng tác nghệ thuật, khám phá khoa học, và hứng cười. Tiếng cười
bật ra khi hai mặt phẳng luận lý tưởng chừng như đối nghịch, "đụng"
nhau. Một ông chồng về nhà, thấy cha tinh thần đang quan hệ mật thiết
với bà vợ, bèn đi ra bao lơn, nơi tín đồ đang tụ tập. "Anh làm gì vậy?"
"Thì người làm 'việc' của anh, anh làm 'việc' của người."
Một người mua xe cũ, than với người bán xe (dealer), cái xe ẹ quá, bộ
phận nào cũng kêu, trừ cái còi. Một anh cán bộ giải thích, chế độ Cộng
Sản và tư bản đối nghịch hẳn nhau; học viên hỏi, chế độ tư bản là gì?
Người bóc lột người. Chế độ Cộng Sản?...
Picasso, một bữa có một tay dealer đưa bức tranh, ký tên ông, ông lắc
đầu, giả. Mấy bữa sau, cũng vậy. "Bữa trước chính mắt tôi trông thấy
ông vẽ nó?" "Tôi thường vẽ tranh giả." (Cái trước là đồ mạo hóa, cái
sau: đâu phải bức tranh nào của tôi cũng đạt tới "đỉnh cao nghệ
thuật").
Một định luật khoa học, cũng là giao điểm của hai mặt phẳng luận lý,
hai khung qui chiếu. Định lý Archimedes (287-212 B.C, toán học gia Hy
lạp): Vật bỏ vô - nước dềnh lên, hai hiện tượng vật lý không liên quan
gì đến nhau. Rồi "eureka", luật tỉ trọng ra đời, vật bỏ vô bị nước đẩy
lên, sức đẩy tương đương trọng lượng khối nước bị vật choán chỗ.
Trước Einstein, khối lượng và năng lượng khác biệt, rồi công thức E =
mc (bình phương) cho thấy, năng lượng là một dạng của vật chất.
Truyện ngắn, nói chung, phải đạt được sự sắc bén, gọn nhẹ, cô đọng.
Ngay cả những truyện không có truyện, vẫn bàng bạc trong đó chất bi,
chất hài. Bi dẫn tới tẩy uế, thanh hóa. Hài dẫn tới tiếng cười. Bi hài
nhiều khi cũng khó phân biệt. Kịch của Chekhov, bao lâu vẫn được hiểu
như bi kịch. Khi đưa ra ý niệm "thời tính" - kịch Chekhov "xoáy" vào
những giai đoạn đen tối nhất của lịch sử, và mỗi lần lịch sử "sang
trang" như thế, nhân loại vẫn muốn từ giã nó, bằng tiếng cười - Vialar
(?) đã đổi thành hài, lúc đó, chất bi mới đạt hết độ "thanh hóa". Nền
Đệ Nhất Cộng Hòa của Miền Nam, chấm dứt bằng cái chết đau thương của ba
anh em ông Diệm, nhưng "lịch sử sang trang" bằng tiếng cười Bravo I,
Bravo II.
"Con người suy nghĩ, Thượng đế cười"; gợi hứng từ câu châm ngôn đáng
yêu của người Do-thái, Kundera tưởng tượng, Francois Rabelais đã có lần
nghe được tiếng cười của Thượng Đế, và cuốn tiểu thuyết lớn lao đầu
tiên của Âu châu đã ra đời. "Tôi hài lòng khi nghĩ rằng nghệ thuật tiểu
thuyết đã đến thế gian, như là âm vang (echo) tiếng cười của Thượng
Đế."(Kundera, Nghệ thuật tiểu thuyết).
Tatyana Tolstaya, đọc "Tái sinh: Chiến Đấu cho một nước Nga Mới", của
David Remnick, coi đây - một cuốn sách nghiên cứu - là một cuốn "tiểu
thuyết châm biếm, theo tinh thần Gogol". Nhân đó, bà kể thêm, về chuyến
thăm bà cụ thân sinh ở Petersburg, và ngỡ ngàng khi nhìn thấy, bao lơn
nhà nào cũng bị đập phá nham nhở. Hỏi ra, đã xẩy ra trường hợp, một bộ
hành bị bao lơn rớt trúng đầu. Vì không có ngân sách tu bổ, và để tránh
tai nạn tương tự, nhà nước ra lệnh triệt hạ mọi bao lơn.
D. Remnick là một nhà báo. Cuốn trước, Ngôi Mộ của Lênin, một nghiên
cứu Liên-xô, vào buổi đêm trước ngày phân rã. Cuốn này, bà mẹ Nga cố
thu vén từ những đổ nát hoang tàn, ăn cắp, ăn trộm, hy vọng, tuyệt
vọng; cố hình dung diện mạo của bà, nơi chốn bà sẽ phải đi tới. Tác giả
cho thấy, nước Nga bây giờ được cai trị bởi những trùm băng đảng tội
ác. Họ nắm giữ, kiểm soát tất cả thị trường, từ những phi cảng, cho tới
những điếu thuốc lá. Chiến dịch tranh cử của Yeltsin là do họ bỏ tiền,
đổi lấy ghế tại Kremlin, những giấy phép (licenses) phát thanh, truyền
hình... Lạ một điều, tất cả những gì chính trị gia nhúng tay vào đều
trở nên tồi tệ, để cho mấy ông trùm mafia lo liệu, tất cả đều êm ru!
Tác giả tự hỏi, nước Nga sẽ trở nên khá hơn, nếu hai bên thay vì chống
đối, hợp tác ngay từ năm 1991. Nhờ sự hợp tác, cho nên, "không còn biên
giới, giữa hợp pháp và bất hợp pháp", và theo một nghĩa chung chung, ở
Nga hiện nay, không còn một người nào được coi là lương thiện.
T. Tolstaya chỉ hài lòng, "có một nửa" với D. Remnick, về những nhận
định của ông, đối với hai nhân vật "trung tâm", Solzhenitsyn và
Gorbachev. Cả hai có những điểm tương đồng - những thành tựu khổng lồ
trong quá khứ, mà cho tới nay vẫn không được "tán thưởng"; quan điểm
ngây thơ về những vấn đề của Nga-xô; và sự "tự tin, tự mãn" quá mức về
chính họ, và điều này đã huỷ hoại cả hai - Tuy nhiên, bà chỉ có cảm
tình với Gorbachev, một người theo bà, ngoài những thành tựu khổng lồ,
tiềm năng chính trị vẫn chưa "cạn". Bà bất bình, phải nói là "quá chán"
Solzhenitsyn; về sự "thiếu khiêm nhường", vốn liếng "hạn chế" - như là
một nhà văn - của ông: Chui rúc 18 năm ở dưới những vùng đáy sâu của
Vermont để viết "Bánh Xe Đỏ", một cuốn sách to kềnh, nhàm chán - nhằm
cố gắng giải thích nguyên nhân Cách Mạng Nga - một việc làm vào cuối
thế kỷ thứ 20; khi thế giới đã biến chuyển quá nhanh, và quá xa, tính
từ cái năm 1917; khi mà văn chương thế kỷ 20 - ngay cả ở trong "Một
Ngày trong đời Ivan Denisovich" - đã chứng tỏ một điều: Chỉ cần một vài
trang "cho ra hồn", còn giá trị hơn cả một cuốn sách khổmg lồ. Kinh
nghiệm Solzhenitsyn rất đáng cho chúng ta suy ngẫm, nếu có ai đó vẫn
còn cảm thấy, cần phải có một tác phẩm đồ sộ, về cuộc chiến vừa qua.
Gorbachev lại là chuyện khác. Sự thật, chẳng ai thèm bỏ phiếu cho ông,
vì biết rõ, ông chẳng có một chút cơ may, nhưng họ thích ông ta hơn một
Boris say sưa, phàm tục. "Biết làm sao bây giờ. Đời dậy chúng tôi phải
thực tế." Theo đúng truyền thống Nga, sau khi đã vét những đồng xu cuối
cùng, cho một chai vodka, vào dịp cuối tuần, họ ngồi xúm quanh tại xó
bếp, chỉ trích đủ thứ, đủ người, ca cẩm về đời mình; và rồi: "Nào, bây
giờ chúng ta uống mừng Gorbachev." Tất cả mọi người, cả tôi (T.
Tolstaya) cũng sẽ làm như vậy. Vào cái thời vô liêm sỉ như thời đại của
chúng tôi, ông ta đã trở thành "chàng ngốc" của những chuyện tiếu lâm,
một "thánh khùng", một gã hề "lụm cụm"; một người, cho dù trời sập, vẫn
cứ lẩm bẩm với những ý nghĩ của riêng mình, nói hoài nói huỷ: lắng nghe
thật gần, có thể ông ta đang nói sự thực, nhưng sự thực vốn "quá quắt",
và bạn ơi, tụi mình chỉ cần ăn trộm, ăn cắp! Gorbachev đã trở thành
nhân vật của dân ca, ông có vẻ dễ thương, vô hại, safe - toàn những của
hiếm, quí ở cõi đời với những tội ác đầy rẫy. Có lẽ ông ta không muốn
từ giã lịch sử theo kiểu đó. Nhưng "Thượng Đế cười, và đưa lộn gói quà,
không đúng thứ ông ta đòi hỏi." Cả một lịch sử Vương Quốc Ma Quỷ được
"sang trang" bằng bóng dáng của ông thánh khùng, vậy cũng được rồi. Dân
Nga cũng có truyền thống, khi đưa người nào ra diễu cợt là "vẫn còn
thương". Solzhenitsyn không còn được "ân huệ" này. Người Việt chúng ta,
khi làm thơ "Bút Tre" về ông Hồ, hoặc như Kim Hạnh, khi muốn đưa ông
trở lại làm người, "cũng biết yêu đương, cũng dẫn bồ đi coi ciné, đi sở
thú", nhà nước đã không muốn như vậy. Cũng theo nghĩa đó, nhà nước đã
phản bội di chúc của ông. "Thượng Đế cười, đưa lộn gói quà", quà thì
lúc nào cũng có sẵn, nhưng Cách Mạng Nga phải chờ đợi trên 70 năm, mới
"phát", mới "kết tụ" nổi, một ông thánh khùng, liệu quá sớm chăng, khi
mong mỏi một điều tương tự, tại Việt Nam?
Truyện ngắn "ngoạm" một miếng vào cuộc sống, xoáy vào một thời điểm,
rồi "lóc ra" một miếng xương, trần trụi như là một ẩn dụ, một công án
thiền; và người đọc tha hồ làm đầy, bằng sức tưởng tượng, bằng kinh
nghiệm riêng tư, có khi còn phải nhờ tới "cơ duyên". Được bảo vệ bởi
bóng tối "tiền kiếp" (huyền thoại, truyền thuyết, đồng dao...), truyện
ngắn thường gây "rối", cho người đọc, gây "nhiễu", cho một thời. Cho
nhiều thời. Những truyện ngắn của Kafka, chẳng hạn. Sartre đã từng cười
ngất, khi đọc cho S. de Beauvoir, một đoạn trong số báo nrf, theo đó,
ba nhà văn lớn lao nhất của thế kỷ là Proust, Joyce, Kafka. "Cái tên
nhà văn 'baroque' cũng làm tôi mắc cười. Nếu tay Kafka này thực sự là
một nhà văn lớn, chúng tôi đã phải biết tới." (S. de Beauvoir, La force
de l'âge, p.128).
Trên nói tới cơ duyên, bởi vì để giải mã" một truyện
ngắn, chúng ta phải rị mọ, có khi phải liều, hoặc phải "giơ đầu chịu
đấm", như Claude Lévi-Strauss, chẳng hạn. Trong bài mở đầu cuốn "Chuyện
Mèo Rừng" (Histoire de Lynx, nhà xb Plon), ông coi việc nghiên cứu
huyền thoại giống như chơi cờ tướng; nhiều khi phải lập lại một khởi
đầu (ouverture) đã được chơi, hoặc đã biết rồi. Ván cờ kết liễu, khi
chiến thuật của ông lấn lướt chiến thuật của địch thủ.
Trên Hợp Lưu, 6/92, sau khi đọc Mùa Mưa Gai Sắc, của Trần Vũ, và Phẩm
Tiết, của Nguyễn Huy Thiệp, Trương Vũ đã đặt câu hỏi, tại sao phải là
Nguyễn Huệ? "Hai truyện ngắn đó là những sáng tác phong phú, xuất sắc,
cá biệt. Những sáng tác 'không' và 'không thể' "bôi nhọ anh hùng dân
tộc". Người đọc tinh ý thừa sức thấy rõ điều đó. Chẳng những vậy, nhân
vật được gọi tên là Nguyễn Huệ được xây dựng với những nét rất sắc, rất
mạnh, và rất độc. Nhưng người đọc cũng 'táng đởm' vì những nét đó.
Không vì đó là những nhân vật a-b-c của truyện, mà vì đó là một nhân
vật có thật và có như mọi người được biết. Ở đây, người đọc không thấy
được sự công bình cũng như không hiểu được sự gán ghép để có một cách
hư cấu như vậy. Câu hỏi do đó, vẫn là: Tại sao phải là Nguyễn Huệ?"
Đụng vào một nhân vật lịch sử cỡ như Nguyễn Huệ, không phải chuyện
chơi! Ngoài lý do như Trương Vũ đưa ra, "mà vì đó là một nhân vật có
thật, và có như mọi người được biết", còn một lý do liên can đến cả một
thời thơ ấu của mỗi con người. Joseph Brodsky, trong bài viết "Homage
to Marcus Aurelius", kỷ niệm lần đầu ông tới Rome, pho tượng vị hoàng
đế La Mã làm ông nhớ đến cô giáo dậy môn sử, và cùng với cô giáo, những
âm thanh huyền hoặc Caesar, Augustus, Flavius... toàn những âm thanh có
thể đánh thức quỉ sứ dưới địa ngục! Đó là lý do, theo ông, trẻ con mê
môn sử. Một Nguyễn Huệ, áo bào còn đen kịt, sặc mùi thuốc súng, vào
Thăng Long đúng ngày Tết, sông Hồng nghẹt xác giặc, đã ăn sâu vào bộ óc
non nớt của chúng ta, không dễ gì bôi xoá. Và cái trách nhiệm "trồng
người" không dễ dàng, khi cố tình xuyên tạc lịch sử. Cho dù vậy, đây là
"nhiệm vụ" của nhà nước, không phải của nhà văn.
Theo chân C. Lévi-Strauss, người viết xin mượn ý tưởng của T. Tolstaya,
để khai mở "huyền thoại" Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết "Những Thời
Ăn Thịt Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng, Á Châu sống bằng
lịch sử, trong khi Âu Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống bằng lịch sử,
cho nên, những nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được" đội mồ
sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha già dân tộc. Có thể cũng vì
vậy, câu nói "sĩ phu Bắc Hà chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu Chỉnh, và
hình ảnh một Nguyễn Huệ tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa, cung
Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ. Tôi cũng cố tưởng
tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi", và tôi nghe Người vừa lắc đầu, vừa
lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu đền, những ngàn chương sử nay chỉ là
một đống tro tàn: "Ta tìm gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh ra, và
cũng chẳng hề muốn sống ở đó".
Hình như có một tác giả ngoại quốc đã để những truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp kế bên một số truyện của Borges. Trong bài viết "Chuyện Nghề"
(The Writer's Apprenticeship), Borges viết: Nghề văn, nghề thơ, là một
nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần - tất cả mọi
điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có nghĩa
"bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn cần sự
cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần tình yêu,
anh ta được chia, và luôn cả, tình yêu không được chia. Theo một nghĩa
nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt
đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách
nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ
cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc,
trong thực tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của
những giấc mơ". Trường hợp Nguyễn Huy Thiệp, tôi nghĩ, thực tại "thực"
của ông, một "nhân sĩ Bắc Hà", và một trong những thực tại "mộng", của
ông: Nguyễn Huệ. Có thể, theo ông Thiệp, cái cảnh Nguyễn Huệ "nhét" gì
gì đó, rất cần cho sự sống lại của "tinh thần Bắc Hà", không phải theo
kiểu, "chỉ còn có tôi" của Nguyễn Hữu Chỉnh, hoặc "tôi nhét điếu thuốc
vào mồm tên giặc lái", của Nguyễn Tuân. Tại sao lại là Nguyễn Huệ?
Bởi vì còn bao nhiêu kẻ muốn bắt chước ông, "chỉ có một nửa": tới Thăng
Long rồi ở lì lại. Phải chăng, chính vì vậy mà đã xẩy ra cơn xuất huyết
não, hiện tượng chất xám thiên di vào Nam, hoặc ra hải ngoại, theo kiểu
"cái cột đèn đi được nó cũng đi", hoặc, "Tôi ở đâu, văn chương Đức ở
đó", của Thomas Mann, khi bỏ nước Đức qua Hoa Kỳ, hoặc "Nước Nga bây
giờ ở ngoài nước Nga", của Solzhenitsyn, khi bị bắt bí, "Đi thì đi
luôn, đừng trở về", mà nhà nước Xô viết đã từng "hù dọa", và đã thành
công, với Pasternak.
Câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn Huệ chỉ có thể giải đáp, cùng một lúc,
với câu hỏi, tại sao lại là Nguyễn Huy Thiệp? Trong bài viết, "Tác giả
là cái gì?" (bản dịch tiếng Anh: What Is an Author?), M. Foucault, cho
thấy, ý niệm tác giả xuất hiện vào một thời điểm đặc biệt của quá trình
"cá nhân hóa" (individualization), trong lịch sử tư tưởng, tri thức,
văn chương, triết học, và khoa học. Những bản văn, những cuốn sách,
những bài viết/nói bắt đầu có tác giả... khi họ trở thành những mục
tiêu để trừng phạt. Tác giả được nêu tên, khi cần một ai đó, để buộc
tội! Ông viết thêm, trong văn hóa của chúng ta, (và chắc là trong nhiều
văn hoá), thoạt kỳ thủy, bài viết/nói (le discours), không phải là một
sản phẩm, một món hàng, mà thiết yếu là một hành động, được đặt trong
"trường nhị cực" (bipolar field), một đầu là sự thiêng liêng, đầu kia
là sự báng bổ. Theo tính cách lịch sử, đây là một động tác đầy rủi ro.
Nhìn theo quan điểm đó, chúng ta mới thực sự thông cảm, hành động "đầy
rủi ro", của Nguyễn Huy Thiệp. Trong thế giới toàn trị, văn chương bắt
đầu, khi có kẻ dám nói "tôi", thay vì "chúng ta", khi có kẻ dám nghi
ngờ, điều thiêng liêng chưa chắc đã thiêng liêng, và tin rằng, điều
báng bổ có khi thật cần thiết... William Trevor, nhà văn Ái nhĩ lan,
định nghĩa, truyện ngắn, một câu chuyện kể mà sức mạnh của nó hệ tại ở
"cái mà nó lấy ra y hệt như là cái mà nó bỏ vô." Faulkner cho rằng,
viết truyện ngắn là một nghệ thuật "cao, đặc biệt" và chỉ một vài tiểu
thuyết gia có thể "làm tốt"; phần lớn, không. Vẫn theo ông, viết hay,
một truyện ngắn, khó hơn viết hay, một truyện dài. Trong truyện dài,
bạn có thể bỏ vài cọng rác vào trong đó, chẳng sao, người đọc sẵn sàng
bỏ qua.
Chúng ta chưa có những tác phẩm lớn, toàn cảnh, về cuộc chiến, đành
phải tự an ủi với một số hình ảnh, chi tiết, trong một vài truyện ngắn
viết về nó. Người đàn ông lỡ độ đường, không một nơi trú ẩn, giữa đêm
tối, súng nổ ầm ầm, trong Dọc Đường (Thanh Tâm Tuyền): cái bóng cô đơn,
thảm hại của một con người, lom khom với bọc quần áo, khắc lên nền trời
mỗi lần hỏa châu rực sáng. Một nạn nhân - thời kỳ Sài-gòn chiến tranh
đường phố, Phật tử "đụng" Thiên chúa giáo, cảnh sát dã chiến đàn áp
sinh viên biểu tình... - và tất cả bà con lối xóm lăng xăng chạy ngược
chạy xuôi: "Kiếm cho anh ta một lá cờ" (Lê Xuyên). Trong "Bụi than",
của Trần Ngọc Tuấn, (Văn Học, Cali, tháng Sáu, 97) nhân vật Bảo, cựu
đặc công từng được mệnh danh vua chất nổ, từng phá sập bao nhiêu cây
cầu, kho tàng thời chống Mỹ... tưởng đã được "phong kiếm qui ẩn", nhưng
khi vợ chết, do không chồng đủ tiền, cho một ca đẻ khó, "Anh Bảo cột
thuốc nổ vào người, lao vào phòng bác sĩ và điểm hỏa. Cả anh Bảo, gã
bác sĩ thân thể tan tành".
Ở đây có một cuộc chiến được nhét vào chai, và một cuộc chiến khác,
được bật ngòi. Chắc cũng còn nhiều. Lần ngược lịch sử, cuộc đánh chiếm
Hà-nội, và mấy tỉnh Miền Bắc được thu gọn vào một tiếng cười, qua bài
văn tế viên tướng Pháp Francis Garnier, của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Ở
Miền Nam, ngọn lửa Hỏa Hồng Nhật Tảo càng rực rỡ thêm, nhờ những giai
thoại về Nguyễn Trung Trực. Khi bị tướng Pháp hỏi, ngươi có biết ta là
ai không, ông quay qua nói với anh em, thằng này khùng, đến tên nó, nó
còn không biết. Hoặc, mi phải biết đến ta là Nguyễn Trung Trực, tại sao
ta phải biết đến mi? Nghe nói, hồi mới "giải phóng", Lê Duẩn cũng đã
hỏi một cháu ngoan bác Hồ Miền Nam câu tương tự, sau đó mọi hình Bác Hồ
trên tường lớp học được thay thế, hoặc được kèm theo hình bác Duẩn.
Có khi, chỉ cần một vài chi tiết, mà cả một thời đại được thông tỏ. Hãy
quên đi cuộc chém giết đã được bỏ vào chai, thử coi đây là cuộc chiến
ngôn ngữ, giữa những "trực thăng", và "máy bay lên thẳng", "thuỷ quân
lục chiến" và "lính thuỷ đánh bộ", những "tháng thịt sống thanh niên",
hoặc giản dị hơn, "tháng thanh niên"; chúng ta mới thấy "ý nghĩa" của
trận "đụng độ" giữa "phù thuỷ chữ nghĩa", và một nhà văn nữ Miền Nam,
khi bà được ân cần thăm hỏi về tình trạng học tập cải tạo của chồng: Đi
tù thì nói đi tù... (Nhã Ca, Hồi Ký Mất Ngày Tháng).
Có thể có người khó tính bắt bẻ, bất cứ một người Miền Nam nào cũng nói
được câu đó, đâu cần đến một nhà văn; nhưng ít ai có một dịp may như
vậy. Có thể có người nhẹ nhàng nhắc nhở, đã bỏ vô chai, tại sao còn
"buồn phiền, cay đắng"; nhưng biết làm sao được, đành phải an ủi bằng
một câu, yêu bảo yêu, ghét nói ghét; buồn nói buồn, vui bảo mình vui,
hay là, "người nào không cảm thấy trái tim của mình đập, hoặc bằng nỗi
buồn, hoặc bằng niềm vui, người đó không "thực" là người" (Selma
Lagerlof, The Emperor of Portugallia).
Mi có biết ta là ai không? Tzvetan Todorov, trong bài viết "The Labor
of Love" (tạp chí Partisan Review, số 3, 97), khi nhận định về một
trong những cuốn tiểu thuyết đẹp nhất của thế kỷ 20, cuốn của Lagerlof
kể trên, đã nhắc tới Alexandre Kojève, một triết gia trẻ, di dân Nga
sống ở Paris, vào những năm 30. Trong một buổi nói chuyện, ông giải
thích ý nghĩa "biện chứng chủ tớ" nổi tiếng của Hegel (dialectic of
master and servant), trong Hiện tượng luận về Tinh thần. Sau chiến
tranh, một thính giả của buổi nói chuyện, nhà văn Pháp Raymond Queneau,
đã cho xuất bản tác phẩm "Đọc Hegel: Một Dẫn Nhập". Cuốn này có một ảnh
hưởng lớn lao ở nhiều tác giả đương thời. Trái ngược hẳn với "biện
chứng vui buồn" của Lagerlof, Kojève tin rằng sự khác biệt giữa con
người và loài vật: Loài vật hành động theo bản năng sinh tồn; con người
cũng hành động như vậy, nhưng không ngưng ở đó. Nó còn đòi "kẻ khác"
thừa nhận giá trị của mình. Đòi hỏi mang tính sinh lý, do sinh tồn đưa
đến đòi hỏi mang tính người: Mi có biết ta là ai không? Kojève kết
luận, "hiện hữu con người, đóng rễ vào lịch sử, tự ý thức về chính nó,
chỉ có thể khả hữu khi có những cuộc chiến đổ máu, chết người, những
cuộc chiến vì uy thế" (wars of prestige). (Trịnh Nguyễn phân tranh, một
cuộc chiến vì uy thế "gia trưởng". Lúc đó chưa có chiêu bài "nước Việt
Nam là một", vì phần đất miền Nam mới "xí phần" từ Chiêm Thành, từ biển
cả). Chiến tranh, chứ không phải tình yêu, đã làm cho con người "đặc
biệt" là người. Marx đã giản lược ý niệm trên, như là cuộc đấu tranh
giai cấp. Merleau Ponty, trong di cảo mới xb, Notes de cours,
Gallimard, 1997, cho rằng Marx thực chất vẫn là một "hégélien"; con
đường từ những bản viết khi còn trẻ cho tới Capital "y hệt" con đường
từ Hiện tượng luận tới Luận lý, và Marx thất bại khi toan tính nối kết
triết học và phi-triết học. Điều này, giáo sư Trần Văn Toàn cũng đã chỉ
ra, trong cuốn sách tuy mỏng, nhưng là một tài liệu quí giá vô cùng,
Hành trình vào triết học Các Mác : Cái bóng của Hegel không những phủ
kín Marx, và còn kéo dài ra mãi.
Sẽ chẳng có con người, nếu không có sự thừa nhận tha nhân, xã hội...
nhưng, "Thưa ông Hamil, người ta có thể sống không tình yêu được
không?", đứa nhỏ Momo, trong "La vie devant soi" (Cuộc đời trước mặt)
của nhà văn Pháp Romain Gary, hỏi. "Được chứ", ông ta trả lời, và "cúi
gục đầu, như tủi nhục." Thế là đứa nhỏ bật lên khóc. Không cần tình
yêu, con người vẫn sống, nhưng thiếu sự thừa nhận, nó hết còn là người.
"Thế nhưng tình yêu, không phải cứ muốn có là được." (Mối Tình Đầu, S.
Beckett). Trên trang bìa bản Việt ngữ, Hoàng Ngọc Biên, người dịch,
viết: Với giọng kể mơ màng, trầm ngâm của một người đàn ông nhân đi
thăm mộ cha ở nghĩa trang thuật lại một câu chuyện tình của mình (gặp
một người con gái trên một cái băng ở công viên, về sống với cô, rồi bỏ
đi khi cô cho ra đời đứa con của anh...). Bỏ đi, nhưng đây là "khởi
điểm" của con người "đặc biệt" là người, nhờ tình yêu, không phải do
chiến tranh. Bởi vì, "Mối Tình Đầu" có thể là khúc dạo đầu cho thế
giới... (Hoàng Ngọc Biên). Nhân vật trong Mối Tình Đầu: nhân vật cuối
cùng. Khúc dạo đầu: khi tất cả đã chết rồi. (Adorno: sau Auschwitz, chỉ
còn Beckett, nhà văn Hậu-Hiện đại cuối cùng).
"Mùi các xác chết, mà tôi ngửi thấy rất rõ dưới mùi cỏ và bùn, tôi
chẳng thấy khó chịu tí nào. Có lẽ nó hơi quá ngọt một chút, hơi nồng
một chút, nhưng thích hơn mùi người sống rất nhiều, hơn cái mùi bốc lên
từ nách, từ bàn chân... Những người sống, họ có tắm rửa cũng vô ích, có
xức nước hoa cũng vô ích luôn, họ vẫn cứ bốc mùi thối... Vâng, nói đến
chỗ đi dạo, hãy dành cho tôi nghĩa trang đi, còn các bạn, các bạn cứ
dạo chơi ở các công viên..."
Con người đó đã tự viết cho mình câu khắc trên bia mộ:
"Nơi đây yên nghỉ con người khật khờ
Chết liên miên tới độ sống mãi tới giờ."
Trong chiến tranh Việt Nam, đã xẩy ra những trường hợp, người bác sĩ
quân y phải thò tay qua một bức tường bằng cát, để gắp ra một viên đạn
M.79 chưa nổ, nằm trong người một người dân quê. Bác sĩ Adam Aziz,
trong Những Đứa Con Giờ Tý, của Rushdie, được gọi tới khám bịnh cho cô
con gái vị chủ đất: giữa ông và bệnh nhân là một tấm khăn trải giường
trắng, ở giữa là một "lỗ nhòm" chừng 7 inches. Trong nhiều năm, ông
tiếp tục khám bệnh theo kiểu đó, và từ những phần đoạn chẩn đoán "loạng
quạng" như vậy, cộng với trí tưởng tượng, ông cố hình dung, người đàn
bà Ấn Độ.
Hình như giữa chúng ta và những tác giả ở trong nước cũng có một bức
màn, không biết do ai dựng nên, hoặc do chúng ta bị "huyễn", tưởng
tượng ra, nhưng cái lỗ hổng thì hoàn toàn do cá nhân người viết, khi
bắt chước "ông thầy", liều lĩnh đi nước cờ đầu.
Vẫn Borges, đã từng than thở: "Bất hạnh của chúng ta, thế giới là thực.
Bất hạnh của tôi, tôi là Borges."
Nguyễn Quốc Trụ