*

TẠP GHI




Hồi ức thủng lỗ
 

'Lẽ dĩ nhiên, một cách nào đó, con đường từ St. Petersburg tới Stockholm đi qua địa ngục, nhưng một con người với nghề nghiệp như tôi, ý niệm đường thẳng - con đường ngắn nhất nối hai điểm - đã mất hết sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.' (Joseph Brodsky, Diễn văn nhận Nobel văn chương) 

Di dân, kẻ lưu đầy, người xa xứ, gã tị nạn, tay suốt đời lang thang, người của mọi nơi... ý nghĩa những từ cứ thế thay đổi, nhưng chúng đều chỉ một trạng thái chung: không (ở) nhà, hoặc đâu cũng là nhà; hai mặt của một đồng tiền. Trong hầu hết trường hợp, nó có nghĩa: có một khoảng cách với tiếng nói mẹ đẻ.

Như vậy thì sao? Không còn cơ hội 'đi thực tế', để 'viết'? Hay ngược lại, đây là kích thích tố sáng tạo, như Hannah Arendt khẳng định, trong 'Chúng tôi, Những người tị nạn': Để xây dựng lại cuộc sống, người ta phải mạnh, và lạc quan. Do đó, chúng tôi rất lạc quan. Sự lạc quan của chúng tôi thật đáng mến, ngay cả khi chúng tôi chỉ rì rầm với nhau, về chuyện đó.' Dù nhăn nhó, dù chua chát cỡ nào, đây là một con dao hai lưỡi: 'Lưu vong thật hấp dẫn, một cách kỳ cục, khi nghĩ tới, nhưng thật khủng khiếp, khi (phải) kinh nghiệm.' (Edward Said). Rồi ông tiếp tục hỏi: 'Nếu lưu vong thực sự, là: thôi rồi chẳng còn chi, ra đi là hết rồi; tại sao nó biến thành 'motif' giầu có, đầy hấp lực, của văn hóa hiện đại?... Văn hóa Tây phương Hiện đại, một phần lớn tác phẩm là của những lưu đầy, di dân, tị nạn. Và ông kết luận: lưu vong có cái thú riêng của nó. (Cứ bật cái computer lên, là đã thấy ở nhà rồi. Phạm Thị Hoài, Gió Đông 3). Ở đây, theo Said, là ý nghĩa đặc biệt, về thành tựu, cống hiến, mà con người có được, theo kiểu 'viết như chẳng có gì xẩy ra, làm như vẫn ở nhà'!

 Tôi không là di dân, mà cũng chẳng bị tống xuất.

Thế giới bị huỷ diệt không phải của tôi. Tôi chẳng hề biết nó.

(I neither emigrated nor was deported.

The world that was destroyed was not mine. I never knew it.

Henri Raczymow, 'Memory Shot through with Holes').

 

Đối với 'hậu duệ' của những kẻ sống sót từ Lò Thiêu, chúng là những lưu vong từ một thế giới không còn hiện hữu, đã bị xóa, erased, deleted; một thế giới chúng chẳng hề nhìn thấy, sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy. Ở đây, lại là một ước muốn khác, không chỉ cảm, và hiểu, mà còn là 're-member', tái dựng, tái nhập, thay thế, sửa chữa (re-build, re-incarnate, replace, repair). Với những kẻ sống sót từ một thế giới điêu tàn, hồi ức không chỉ là một hành động nhớ lại, mà còn là tưởng niệm, một tưởng niệm với đầy đau thương, giận dữ, chán chường. Cho dù như vậy, mối nối vẫn còn. Với con cái của họ, đứt đoạn hoàn toàn, hết mong xây cầu, bắc nhịp. Hồi ức của chúng là ở bậc nhì, hồi ức 'hậu-hồi ức'.

Hậu hồi ức của lưu đầy xứ người, là một hình thức thật mãnh liệt, bởi vì nối kết của nó với đối tượng, hay cội nguồn, không được suy nghiệm thông qua nhặt nhạnh (recollection), nhưng qua đầu tư tưởng tượng, và sáng tạo. Hậu hồi ức Holocaust toan tính chuyện xây cầu, không chỉ cho một chia lìa nhất thời (temporal divide). 'Nhà' đối với những hậu duệ này, luôn luôn là ở đâu đó, bất cứ đâu, chẳng đâu; ngay cả khi họ có dịp trở về Vienne, Berlin, Paris... bởi vì những thành phố mà họ có thể trở về đó, không còn là những thành phố cha mẹ họ đã sống, như 'nhà' Do-thái trước diệt chủng; thay vì vậy, những thành phố, nơi diệt chủng đã xẩy ra, từ đó, hồi ức của chúng bị tống xuất.

Hậu hồi ức có nhiều dạng, nhiều tên gọi: hồi ức trống (absent memory), hồi ức thủng lỗ (mémoire trouée, bị bắn thủng, memory shot through with holes). Cuộc sống diasporic của những thế hệ hậu-chiến là một 'diaspora des cendres'.1 Với nhà văn nữ Nadine Fresco, hồi ức trống này có nghĩa: nơi nguồn cội chỉ còn là tro than (the place of origine has been reduced to ashes). Không có trở về, (làm sao có chuyện một nghĩa như nhau?). Nhà văn người Pháp, Henri Raczymow nhấn mạnh: sự thiếu, trống đó là điều kiện phải được gìn giữ, và đừng bao giờ 'xây cầú: 'Trong việc làm của tôi, một trống vắng như thế có thể khả hữu, do hồi ức thủng lỗ mà tôi đã nói tới. Với tôi đây là động cơ viết. Những cuốn sách của tôi không phải để lấp đầy sự trống vắng, khâu vá những lỗ thủng - Tôi đâu có tầm thường như vậy: viết để chống lại sự quên lãng; nhưng mà là để trình bầy nó, đúng như một trống vắng'. Ở đây, ông mượn ý niệm thời gian mang tính không gian (spatial conception of time) của Kafka (những năm 1920): Nếu trái đất quay về bên phải..., tôi phải quay về bên trái, để bắt kịp quá khứ. 'Si la terre tourne à droite..., je dois tourner à gauche pour rattraper le passé'). Do-thái Âu-châu hậu chiến quay về trái hoài hoài, nhưng chẳng bao giờ bắt kịp quá khứ.

'... quá khứ của chúng tôi là một xứ lạ mà chẳng bao giờ chúng tôi hy vọng thăm viếng.'

'Tôi không phải là một di dân, tôi chẳng hể bị tống xuất, cái thế giới bị huỷ diệt không phải của tôi... Nhưng tôi, như cả lũ chúng tôi, là những đứa trẻ mồ côi của thế giới.'

 

Tôi là tên già, còn anh là kẻ truy tìm quá khứ.

 Tôi chẳng biết gì về Konsk. Ai có thể nói với tôi về Konsk, một cái bóng của những cái bóng, và không có mồ?

Tên của những người đã chết không phải là để giỡn chơi, Simon?

(Raczymow: Những câu chuyện Lưu đầy, và Lãng quên).

 Thời kỳ những đợt sóng di dân đầu tiên từ Đông Âu qua Tây phương, tiếp theo những vụ làm cỏ Do-thái đầu thế kỷ, có một truyền thống giữa những cộng đồng diasporic, dựa trên những tập tục tưởng niệm xa xưa, và thời trung cổ, cốt cho con cháu họ đừng quên nguồn gốc, qua yizker bikher, những cuốn sách tưởng niệm. Do-thái sống sót sau Lò Thiêu cũng tiếp nối truyền thống đó (Có cỡ chừng trên 400 cuốn sách như vậy, chỉ riêng của cộng đồng Ba-lan). Chúng chứa đựng những dữ kiện lịch sử, cuộc sống cộng đồng trước khi bị huỷ diệt, và những chi tiết về tội ác diệt chủng nhằm xoá sạch họ; những hình ảnh, từng người, từng nhóm, như muốn khơi dậy cuộc sống, trước đó. Những cố gắng tìm kiếm tro cốt những người thân trong gia đình, mong sao có ngày nắm tro than được chôn cất đàng hoàng, với những lời cầu siêu tưởng niệm dành cho người đã chết. Đây là một cố gắng, nói theo Raczymow: tạo mồ mả, cho những người không có mồ (thay take the place of graves for those who had no graves). Cuốn Những câu chuyện Lưu đầy và Lãng quên (Contes d'exil et d'oubli) của ông cũng tương tự, nhưng nó có một hình thức hoàn toàn khác biệt, khắc hoạ sự khác biệt giữa hồi ức và hậu hồi ức. Trong khi những cuốn yizker chứa đựng những chứng tích, hồi tưởng, làm sống lại, những câu chuyện của Raczymow là những tái cấu trúc, chúng không giả đò giấu diếm, nguỵ trang, về một liên hệ với quá khứ 'vô danh' unknown: Tôi chẳng biết gì về Konsk, nhân vật Mathieu Schriftlich, một sử gia nhấn mạnh. Trong khi Simon kể chuyện, Mathieu để mặc cho mình trôi vào trống vắng hồi ức.

Cuốn sách của ông không có hình ảnh, chỉ là lời nói, lời viết. Không có những bức hình về con người, đường phố Konsk:

Làm sao người ta có thể hoài hương, từ những bức hình như thế, đó chỉ là dơ dáy, buồn rầu, nghèo đói? (Comment peut-on avoir la nostalgie de ce que représentent ces photos, c'est à dire saleté, tristesse, pauvreté?)

 (Từ bài viết của Susan Rubin Suleiman, Dẫn nhập, và của Marianne Hirsch, Past Lives: Postmemories in exile, trong Exile and Creativity, nhà xb Duke University Press, 1998)

1 Diaspora của tro than. Diaspora: Do-thái lưu vong kể từ năm 538 trước Công nguyên.

 

 Nguyễn Quốc Trụ