Chiều
nay Sài-gòn đổ trận mưa đầu mùa...
Gửi Nguyễn Phước (của Sikiew).
-Sài-gòn
nghĩa là gì?
-Thiếu, nhớ!
NQT
"Hà-nội"
có sẵn trong lòng tôi, trước khi tôi thấy
Hà-nội, cả hai hình như cùng chung một vẻ đẹp, một nét sầu.
Trúc Chi ("Hà-nội" và Hà-nội, Tạp chí Văn Học,
Cali, số tháng Tư, 1999).
Nhân
vật tiểu thuyết là một kẻ vấn nạn (un être
problématique), một gã khùng hay một tên tội phạm, bởi vì luôn tìm kiếm
những
giá trị tuyệt đối dù chẳng biết, sống "chúng" một cách toàn diện
(chính vì vậy) mà không thể tới gần. Một tìm kiếm luôn tiến mà chẳng
tới, một
chuyển động Lukacs định nghĩa bằng công thức: "Con đường tận cùng, cuộc
hành trình bắt đầu".
(Lucien Goldmann: Dẫn vào những bản viết đầu tay của Georges
Lukacs).
Tôi
coi Bérénice (1)... là viên đá mẫu của tuyệt bi trong
văn chương tây phương hiện đại. Một người đàn ông một người đàn bà nói
giã từ.
Thiên thu vĩnh viễn. Trong cơn tận, mọi ánh sáng cùng một lúc được thu
gom để
tắt ngấm. Như trong một viên ngọc, của một mầu đen huyền, tuyệt, tuyệt.
George Steiner, Tuyệt Bi, Absolute Tragedy. (2).
Như
những chuyện thần tiên dành cho tuổi thơ, chuyện tình là
một thể loại văn chương chịu thử thách nặng nề nhất với thời gian, và
cùng với
nó, khiếu thưởng ngoạn của con người, theo tôi. Nếu bất hạnh của chúng
ta, là
đã có một ấu thời, như phía đông vườn địa đàng vĩnh viễn ra khỏi, chẳng
mong
chi một ngày quay về, tương tự, những con người đã lớn, đã khô cằn (yêu
thương
hay gì gì nữa...) biết rõ một điều, hình như đã có lần chúng ta bắt
gặp, hay
thoáng nhìn thấy từ xa: tình yêu.
Bất
hạnh ấu thời: lâu lắm rồi, vẫn chỉ là một cô bé Lọ Lem
(cô Tấm) khóc lóc đằng sau chiếc bóng của một bà mẹ ghẻ độc ác. Nhiều
thầy cô
cho rằng, chỉ kể xong câu chuyện nàng Bạch Tuyết, và giấc ngủ miên man
chờ nụ
hôn vàng, là kể xong văn chương nhi đồng. May ra có thoa thêm chút
va-ni lên
trên chiếc bánh, theo kiểu cho cô bé choàng khăn đỏ sống lại sau khi bị
chó sói
ăn thịt!
Nhưng
hàng rào cấm kỵ ngày càng bị bẻ gẫy. Trẻ em ngày càng
được đối xử một cách rộng rãi hơn: như những con người thực, và được
quyền biết
tới những điều dành cho con người. Updating traditional tales, cập nhật
hóa
những câu chuyện truyền thống, đó là mục đích của những nhà văn viết
chuyện nhi
đồng (và chuyện tình), hiện nay.
Chú
bé Robert ghét môn toán. Nhưng một đêm, chú gặp một con
yêu tinh lưỡi nhọn hoắt hứa sẽ dậy chú. Chắc lại một giấc mơ xấu, chú
nghĩ,
nhưng sau cùng cậu bé bị Con Quỉ Số (The Number Devil) quyến rũ vào thế
giới
toán học. Nhà thơ, nhà tiểu luận người Đức, Hans Magnus Enzensberger,
tác giả
Con Quỉ Số (1997), là một trong rất nhiều tác giả chuyên viết cho cả
nhi đồng
lẫn người lớn. (Ở Miền Nam trước 1975, đa số những người viết cho nhi
đồng, đều
kiêm viết biếm văn, như Duyên Anh/Thương Sinh, Lê Tất Điều/Kiều Phong.
Không
hiểu đây có phải là hiện tượng ông Thiện ông Ác nhập nhằng trong mỗi
con người
chúng ta hay không). Nhà văn người Morocco (Ma-rốc), Tahar Ben Jelloun,
giải
thưởng văn chương Pháp Goncourt 1987, chuyên viết chuyện "hung bạo",
nhưng còn là tác giả Chủ nghĩa phân biệt mầu da được giải thích cho con
gái của
tôi (tên tiếng Anh:Racism explained to my daughter). Có những tác giả
chẳng
thèm đổi "tông", khi chuyển từ chuyện nhi đồng qua chuyện người lớn.
Có một số lại còn cảm thấy "lúng túng" khi viết về người lớn: Tôi cứ
phải kiểm duyệt bớt, chính tôi! (Jasmine Dubé, nhà văn Quebec) (3). Một
Thiên
Sứ hụt: Nhà văn người lớn?
Theo
tôi có một cái gì rất đỗi tương tự, nếu phải so sánh
chuyện con nít, và chuyện tình yêu, và có một sự thực: "tôi" cứ phải
kiểm duyệt bớt "chính tôi", khi viết về người lớn. Và vẫn theo nhà
văn nữ người Quebec, chỉ khi nào trở về với trẻ con, sức tưởng tượng,
trái tim
của bà lại phồng lên, căng cứng đam mê!
Sẽ
có người bực mình: Tình yêu bây giờ là một đề tài
"mở": đâu có gì bị cấm đoán? Đây mới là vấn đề: Chúng ta bị bội thực
vì tình dục, đâu phải vì tình yêu?
Độc
giả, và khán giả Miền Nam (Sài-gòn phần lớn) đã một thời
mê mẩn với phát giác: Yêu có nghĩa là không bao giờ phải nói: Tôi lấy
làm tiếc
(I'm sorry); câu nói trong Chuyện Tình, Love Story (4) (Erich Segal),
phát ra từ
cửa miệng anh chàng nhà giầu người Mẽo, khi phải "lên lớp" ông bố, về
bài học đầu tiên của tình ái. Một chuyện tình "chiến đấu, có được, rồi
mất
mát". Một Romeo và Juliet của nước Mỹ. Một trong những chuyện tình thật
tuyệt vời, thật đau thương nhức nhối. Một trong những phim hay nhất của
điện
ảnh, với cặp tài tử Ali McGraw và Ryan O"Neal.
Hoặc
đã say mê Kim Dung, qua những nhân vật đầy tình yêu và
cũng đầy hận thù ("sống" cuộc chiến trong chưởng phong, trong giả
tưởng?). Nhưng cái chết tự bức tử của Tiêu Phong, một con người ngay
đến họ tên
của mình mà cũng chẳng biết, như A Tử chế nhạo, không biết mình là
giống gì,
Khiết-đan hay Hán, không có một nơi chốn để đi, hay để trở về... đã
tiên đoán
cơn "tuyệt bi" của mỗi chúng ta (đi hay ở đều là những lựa chọn cưỡng
bức, chia lìa và chết chóc, Thanh Tâm Tuyền, trả lời phỏng vấn trong La
Part
d'Exil, về Bếp Lửa và không khí Hà-nội 1954), và cùng với nó, là số
phận nghiệt
ngã của con người: vào đời nghĩa là vào với tra tấn và tử vong (5).
Thạch
trong Ung Thư, trước khi bỏ Hà-nội, đã cố tìm gặp
Liên, người yêu cùng chia sẻ thời thơ ấu, thất lạc đâu đó trong Hà-nội.
Ngồi
trên phi cơ anh văng tục: Merde! Nhưng văng tục "vẫn" có nghĩa là còn
mong được yêu thương, tha thứ. Còn mong muốn được trở về. (Tôi nhớ hoài
cảnh
Thạch một mình trong đêm khuya, lặn lội tìm người yêu, trong Hà-nội
trước giờ
ly biệt, trước "bước ngoặt của lịch sử" - anh muốn kéo Liên ra khỏi
một thành phố, một miền đất, nhưng không thể - thay cho những lời nói
giã từ,
anh gào tên Liên...).
Trong
bài phỏng vấn kể trên, Thanh Tâm Tuyền cho biết, Ung
Thư tiếp nối Bếp Lửa, nhưng nó chẳng bao giờ được in ra.
Tại
sao, chúng ta tự hỏi...
Theo
tôi, Ung Thư là một cuốn tiểu thuyết bị "kết án
phải lãng quên", như Việt Nam chẳng bao giờ có tác phẩm lớn: Tôi cứ
phải
kiểm duyệt, chính tôi!
*
L'aventure n'a pas de place dans la profession
d'ethnographe.
(Phiêu lưu không có chỗ trong nghề nhân chủng).
Claude Lévi-Strauss (Nhiệt Đới Buồn, Tristes Tropiques).
Người ta thường
tự
hỏi: tại sao một cuộc chiến như thế, làm nhức nhối lương tâm toàn thể
nhân
loại, lại không đẻ ra được một tác phẩm lớn nào; không phải chỉ văn
chương bản
địa mà luôn cả văn chương thế giới?
Tại sao, sau một
cuộc bỏ nước ra đi như thế, làm nhức nhối lương tâm toàn thể nhân loại,
văn
chương hải ngoại không đẻ ra được một tác phẩm lớn nào?
Liệu một câu hỏi
như thế - tác phẩm lớn - đã trở nên vô nghĩa? Đây là giả-vấn đề? Hoặc
vẫn có
tác phẩm lớn, nhưng nó không giống như quan niệm cũ về nó?
Hoặc
có tác phẩm lớn, nhưng người ta bỏ quên nó, không nhận
ra, hoặc "từ chối" nó?
Phiêu
lưu không có chỗ, trong nghề nhân chủng; chúng ta có
thể lập lại câu nói của Lévi-Strauss: phiêu lưu không có chỗ, trong
nghề văn.
Nhà văn cần đi (thực tế), thèm giang hồ, để lấy chất liệu sống. Nhưng
(có lẽ)
nên tránh phiêu lưu như tránh... bệnh hủi! Sự thất bại của những nhà
văn Việt
Nam, (có thể) là do lầm lẫn này: Chiến tranh Việt Nam không cần một
André
Malraux.
Hay
rõ hơn, chiến tranh Việt Nam không cần một nhà văn - như
một nhà phiêu lưu.
Thanh Tâm Tuyền,
trong lời tựa Bếp Lửa, lần in thứ hai (1965), đã nhận ra sự thực, khi
ông chiêm
nghiệm cuộc chiến qua cái chết của một người bạn:
Người
được đề tặng sách này đã chết.
Hắn
tên Vũ Đạo Ánh, chết vào một buổi sáng chủ nhật đầu
tháng 9 năm 1964, tại một khu rừng tỉnh Bình Dương, một viên đạn xuyên
ngang
ngực năm mới ngoài ba mươi tuổi. Vào một buổi chiều tháng tám, hắn còn
đứng
trước một căn nhà trong hẻm ngoại ô, nhìn qua cửa sổ, đèn trong nhà
thắp sáng
nhưng mọi người đi vắng, cất tiếng gọi. Như những ngày mùa thu, mùa
đông nơi
thành phố xa khuất cũng hơi ngửa đầu lên cao liếc mầu trời xẫm mau, hắn
gọi đứa
bạn của thời niên thiếu nghèo khốn, gọi những giấc mộng phiêu lưu đã bị
nghiền
nát cùng tuổi trẻ như một Thiên Đường cửa đóng. Hắn lủi thủi trở về như
kẻ bị
bỏ rơi, chạy qua thành phố Sài-gòn buổi tối còn ngơ ngác những âm vang
của mấy
ngày hỗn loạn. Có lẽ hắn nhớ tới thành phố của tuổi trẻ, như nhớ tới
đứa bạn,
hắn đã chạy cuồng trong đó trên chiếc xe đạp tồi tàn giữa những ngày
tháng rách
bươm, mơ ước cơ hội kết tập được ngày tháng tan rã thành một đời ý
nghĩa....
cuốn sách vợ hắn mang liệm theo xác như một kỷ niệm hắn muốn mang đi...
Hắn
chết gục bên gốc cây, mau lẹ, không đau đớn. Hắn nằm đó,
đầu ngoẹo sang một bên, gối lên cỏ như một người ngủ mệt sau đoạn đường
hiểm
trở của Định Mệnh - Định Mệnh của một thế hệ, những người còn sống là
kẻ sống
sót. Hắn đã đi từ tuổi trẻ bị tước đoạt, tới nằm đó trong khu rừng giữa
cuộc
chiến phơi mình làm một sự thật thô sơ: ở đây, trong xứ sở khốn nạn
này, cuộc
chiến phải chấp nhận không phải là lối phiêu lưu trốn chạy ngông cuồng.
Cái
chết của hắn không phải là một huyền thoại Rimbaud, một huyền thoại
Lawrence,
tên bạn hắn hiểu được như vậy.
"Cuộc
chiến phải chấp nhận", thực vậy không, với
những người viết Miền Nam? (6).
Thanh
Tâm Tuyền có rất nhiều tác phẩm bỏ dở, "bị bỏ
quên" bởi chính tác giả. Ung Thư , thí dụ vậy, chẳng bao giờ được in
ra,
dù đã hoàn tất.
Nhân
vật Đạo (phải chăng là từ Vũ Đạo Ánh?), một sĩ quan
đóng quân tại một địa phương, phải đối đầu với một tay biệt động nổi
tiếng xuất
quỷ nhập thần, một tên "giết hàng loạt người" (serial killer) mà nạn
nhân là những người dân địa phương có cảm tình, hoặc hợp tác với
"nguỵ", qua những chức vụ như xã trưởng, nghĩa quân... Đạo
"thề" phải hạ được tay này.
Đêm
hôm đó, anh và lính nằm chờ trong vườn cây. Bên trong
căn nhà, là tên biệt động nằm vùng. Đã mấy lần, lính dưới quyền xin ra
lệnh,
nhưng Đạo lắc đầu. Anh đã cho kẻ thù một đặc ân: sống một đêm cuối cùng
với vợ
con, trước khi ra lệnh nổ súng.
Tác
giả bỏ dở tác phẩm, tuy mới mở ra nhưng đã hé cho thấy,
đây là một truyện dài, về một cuộc chiến "phải chấp nhận."
Trong
một truyện bỏ dở khác, là nhân vật "ông
già", do lệnh tổng động viên, nên đã trình diện cùng với lớp thanh niên
trẻ hơn ông. Biệt hiệu "ông già" là do đám trẻ gọi. Một nhân vật lụm
cụm, lóng cóng, vụng về... với tất cả những nghi lễ, quân trang, quân
kỷ, với
những buổi tập dượt tại quân trường. Đây có lẽ là chân dung tác giả.
Những
tác phẩm như Tiếng Động, Mù Khơi, Tạp Ghi... thật ra
chỉ là những tác phẩm "tạm" theo tôi, trong khi chờ đợi tác phẩm
"chính", chẳng bao giờ có.
Chúng
muốn gì? Người chết cho kẻ khác sống sót. Chúng muốn
gì?
Những
nhà phê bình ở Hà-nội đã gọi các nhân vật trong sách
này là bọn tôi mọi nô lệ, họ hỏi: trong khi họ xây dựng xã hội chủ
nghĩa, bọn
này đi đâu? Những người ở Hà-nội không khi nào tự đặt câu hỏi với mình,
những
câu họ thường đặt cho kẻ địch...(Tựa, lần in thứ hai, 1965)
Trong
Tựa, lần in thứ tư (1973), ông viết:
Malraux
có viết: "Người ta không thể nào viết lại một
cuốn tiểu thuyết".
Tôi
không tin như thế. Trong nhiều năm sau khi cuốn sách này
được xuất bản, dường như tôi đã hì hục viết một Bếp Lửa khác. Mỗi lần
sửa lỗi
ấn loát để cho tái bản, tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả bây giờ sau
mười bảy
năm.
Đây
không phải là cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi. (*)
Quyển
đầu tay được một nhà xuất bản nhận in năm 1955, vào
phút chót tôi đổi ý...
Được
viết một hơi - khoảng đâu hai ba tháng - được in ngay
sau khi viết - không có một quãng cách nào để kịp lùi, nhìn lại - quyển
Bếp Lửa
là quyển duy nhất của tôi chỉ có một lần bản thảo...
Sách
được in lần đầu ba ngàn cuốn, chẳng rõ bán được bao
nhiêu, chỉ biết ít lâu sau, sách đuợc mang bán son. Có hai bài viết về
quyển
sách: một trên nhật báo Tự Do tại Sài-gòn (7), một trên tuần báo Văn
Nghệ của
Hội Nhà Văn miền Bắc ở Hà-nội...
Tiếc
là tôi không có thói quen lưu giữ tài liệu để có thể in
kèm vào sách khi tái bản.
Đại
cương cả hai bài viết đều là lời chê trách giống nhau:
quyển sách bi quan, tiêu cực.
Bài
trên tờ Văn Nghệ ở Hà Nội chỉ là một cột điểm sách ngắn
vài mươi giòng nhưng bấy giờ đã mang đến cho tôi hãnh diện và sung
sướng. Hãnh
diện là thứ có ngày nghĩ lại khiến thẹn thùng. Nhưng sung sướng lúc nào
cũng
vẫn là sung sướng, dù cùng với thời gian có thể lẫn vẻ bùi ngùi.
Tôi
sung sướng nghĩ các bạn tôi ở Hà-nội đọc cột báo ấy,
biết được tôi vẫn nhớ đến họ... Họ có thể tức tối căm giận, nhưng chắc
họ cũng
cảm động bồi hồi.
Mười
bẩy năm đã qua.
Kinh
nghiệm dạy cho tôi là lời của Malraux đúng. Tôi đã loay
hoay quá lâu với một cuốn sách. Lần này tôi quyết định đề là ấn bản
chung
quyết.
Tôi
hiểu đã đến lúc nên viết những quyển sách khác.
(Tháng
3-73, Thanh Tâm Tuyền).
Như
trên đã viết, những quyển sách khác, có, nhưng theo tôi,
đều là "tạm", trong khi chờ một cuốn sách đích thực. Một cuốn sách
đúng như phát giác của tác giả về cuộc chiến, nhân cái chết của người
bạn: ở
đây, trong xứ sở khốn nạn này, cuộc chiến phải chấp nhận không phải là
lối
phiêu lưu, trốn chạy ngông cuồng...
Bếp
Lửa là cuốn sách gối đầu giường, của một người, của
nhiều người, của một thời. Như Thanh Tâm Tuyền là người thầy, người anh
của một
thời. Cùng với ông, còn có Nguyễn Đức Quỳnh, thí dụ vậy.
[
Trong Văn Học Tổng Quan, Võ Phiến nhắc tới Nguyễn Đức
Quỳnh ở cuối cuốn sách, có thể vì coi ông như một tác giả tiền chiến
(với những
tác phẩm như Thằng Kình, Thằng Cu So.... (8). Anh đã đọc Thằng Kình
chưa? là
tên bài viết tưởng niệm, khi ông mất, của Thanh Tâm Tuyền). Theo như
tôi được
biết, Nguyễn Đức Quỳnh sau 1954 có viết, có tác phẩm xuất bản, dưới bút
hiệu
Hoài Đồng Vọng. Tên tác phẩm: Ai Có Qua Cầu. Tôi không còn nhớ gì về
cuốn sách,
tuy đọc cùng thời với Bếp Lửa. Người có "thẩm quyền" nhất để viết về
ông, là một người nào đó đã từng thân cận với ông, hoặc đã từ "lò"
Nguyễn Đức Quỳnh mà ra. Hy vọng sau này văn học Miền Nam (phải) được bổ
túc,
sửa chữa những phần thiếu xót. Võ Phiến khi đó ở ngoài Trung, có thể
không biết
nhiều về Nguyễn Đức Quỳnh và những buổi Đàm Trường của ông, cũng như
ảnh hưởng
của chủ nhân đối với lớp trẻ kế cận 1954 ].
Phiêu
lưu, trốn chạy ngông cuồng... Trong Mấy Ghi Nhận Về
Bếp Lửa, bài viết trang cuối, ấn bản chung quyết, Huỳnh Phan Anh đã cảm
nhận,
về một "tác phẩm chính" của bất cứ một nhà văn:
Nhà
văn là kẻ bất công với chính mình: bất công với những gì
hắn đã viết ra... Với hắn dường như tác phẩm thực sự là tác phẩm hắn
đang viết,
sẽ viết, đang hoàn tất, sẽ không bao giờ hoàn tất. Trong khi cuốn sách
đầu
tiên, đối với hắn, chỉ là những bước chân dọ dẫm, những âm vang ngơ
ngác của
một thời: thời mới lớn. Dường như tác phẩm đầu tay của một nhà văn luôn
luôn
gắn bó vào chính cái thời mới lớn... thời ngu ngơ bất trắc... (một) cái
gì nhất
thiết phải được vượt qua, một cách nào đó, phải được chối bỏ.... Nó là
một lỗi
lầm mà nhà văn muốn quên đi như một nỗi thất bại...
Nhắc
lại nhận xét của Thanh Tâm Tuyền, về đứa con tinh thần
đầu tay của ông: "Cuốn sách mỏng mảnh, non nớt và chưa thành hình dáng
này
của một người mới lớn", Huỳnh Phan Anh tự hỏi: tác giả muốn nói gì với
chúng ta qua lời thú nhận đó?
"Lúc
hắn viết cuốn sách này, hắn chưa phải là một nhà
văn. Hắn chưa biết mình muốn gì vì hắn muốn tất cả" (Thanh Tâm Tuyền,
Huỳnh Phan Anh trích dẫn).
Lạ
một điều, "tất cả" ở đây, giống như một từ của
"định mệnh": trong Bếp Lửa đã manh nha tâm trạng lưu vong, không phải
như một cuộc "trốn chạy ngông cuồng" mà là số phận bi thảm của cả một
dân tộc.
(Bếp
Lửa còn tiên đoán số phận văn chương của Miền Nam: tái
sinh từ những lớp tro than, bụi đường, khi chính nó được đem bán son,
để rồi
sống lại).
Ở
cuối truyện, khi Tâm bỏ Hà-nội, xuống Cảng (Hải-phòng)
thăm bạn, Ngọc đã đi theo một chuyến tàu biển được hai hôm, để lại lá
thư:
Tâm
ơi,
Thế
là tao đã đi rồi... Còn bao giờ trở lại mảnh đất này
không? Không biết, mặc. Tao đi không mang theo hành lý, chỉ có hình ảnh
mẹ, các
em và chúng mày... Thế là quá nặng cho một người...
Tôi
không biết nên bắt đầu như thế nào buổi chiều này.
Ra
khỏi nơi Ngọc ở, tôi đứng trước một khúc phố rộng nhưng
xơ xác chạy tới phía nhà ga hiu quạnh. Bên kia đường vài gian nhà đang
xây dở.
Tôi
đi mãi trong phố đông người và rẽ vào một rạp chiếu
bóng. Tôi dẫn một đứa bé lem luốc ở cửa rạp cùng vào. Tôi trở ra khi
buổi chiều
lặng lẽ xuống. Những người đi làm về. Tôi gặp những toán lao động trai
gái. Tôi
cứ cảm tưởng Ngọc lẫn đâu trong ấy và trêu cợt tôi.
Dần
dần tôi đến khu nhà Tây vắng vẻ. Tôi mong gặp một người
quen.
Ngồi
bên kè đá tôi nhìn mặt nước rộng, nước cuộn chảy. Những
chiếc thuyền và những thân tàu... Chiều xuống thấp mãi gần mặt nước.
Tôi
đứng lên, đèn đã thắp. Cây cao tối như trong vườn nhà
thương.
Tôi
về trải chiếu trên căn gác ọp ẹp Ngọc đã ở. Hắn đi thật
rồi, như ông Chính đã chết, như Đại đã đi... Chưa bao giờ tôi cảm nỗi
tuyệt
vọng ghê gớm đến như thế. Tôi có thể tự tử được. Nhưng tôi tự nhủ: Cũng
thế
thôi, phải, cũng thế thôi.
(Nhân
vật nữ trong Bếp Lửa, Thanh, là một tiếng hát. Là một
bài hát: Trở về mái nhà. Xưa. Phải chăng đây cũng là định mệnh của một
tiếng
nói, và cũng là định mệnh của hồi nhớ, về biết bao con người? (Thanh
Tâm Tuyền,
Thơ giữa chiến tranh và Trại tù) (9).
Câu
văn kết thúc Bếp Lửa:
"Anh
yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng".
Như
những nhà văn của "cùng một thời: thời đọa
đầy", Huỳnh Phan Anh cảm nhận nỗi bi đát của những đứa con tư sinh (chữ
của Thanh Tâm Tuyền) của một miền đất, và cơn hoảng sợ bỏ chạy tán loạn
của
chúng. Anh lập lại những lời nói của Tâm, với Ngọc: "Đi đâu cũng vẫn
chỉ
là mày - đau khổ và nhục nhã. Mà nào riêng có đất này hổ nhục thôi đâu,
mọi nơi
mắt mày cũng chỉ nhìn thấy như vậy. Không trốn được đâu, trừ phi trốn
được lòng
mày". Và Huỳnh Phan Anh tự hỏi, liệu còn có cách kết thúc nào khác cho
một
câu chuyện như thế:
"Tôi
có thể tự tử được". Tưởng tượng nhân vật Bếp
Lửa đã thốt câu đó với tất cả sự sung sướng của tâm hồn. Tưởng tượng đó
cũng là
câu văn hồn nhiên trong sáng nhất của Bếp Lửa.
Hồn
nhiên, trong sáng, như một lời... chúc dữ! Huỳnh Phan
Anh đã nhận ra căn phần của những bạn bè đến từ một miền đất khác.
Bởi
vì Ngọc đã trở lại, (dù đã tự nhủ, "đi không trở về
cái đất nước nhục nhã này, đi tìm một cái chết nơi hải cảng, trong quán
rượu xa
lạ...". Bếp Lửa, ấn bản chung quyết, nhà xb Kẻ Sĩ, Sài-gòn, 1973), và
đã
chọn lựa cái chết "lãng nhách", qua nhân vật Kiệt trong Một Chủ Nhật
Khác, cuốn tiểu thuyết "đích thực" của Thanh Tâm Tuyền, viết trước
1975, trong những ngày Miền Nam sắp sửa thất trận. Ung Thư có thể
"không
bao giờ" được in ra, nhưng cái chết của Kiệt đã khép kín nó lại.
Trong
những tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền, theo tôi, chỉ có
Một Chủ Nhật Khác, là đúng nghĩa: một cuốn tiểu thuyết.
Ở
đây cần phân biệt giữa nhà văn, và tiểu thuyết gia. Và từ
đó, có thể chúng ta hiểu được nguyên nhân tại sao chúng ta không có tác
phẩm
lớn.
Bỏ
qua những phân biệt giữa nhà văn, écrivain, và người dùng
văn, écrivant, của Roland Barthes, từ đó, là cả một cuộc chiến "không
người thắng" giữa văn chương dấn thân hay nghệ thuật chỉ vì nghệ thuật;
ở
đây chúng ta hãy "cùng cười" với Milan Kundera. Trong Nghệ thuật tiểu
thuyết, ông đưa ra một bảng định nghĩa 63 từ, nhân câu chuyện tác phẩm
của ông
được dịch ra nhiều thứ tiếng, và cùng với nó là những nỗi bực mình của
ông:
"Thời
gian 1968-1969 Chuyện Giễu được dịch ra tất cả
những ngôn ngữ tây phương. Nhưng thật hết sức ngỡ ngàng! Ở Pháp, dịch
giả đã
viết lại cuốn tiểu thuyết bằng cách kết hoa (en ornementant) cho văn
phong của
tôi. Tại Anh, nhà xuất bản đã cắt những đoạn suy tưởng, huỷ những
chương về âm
nhạc, thay đổi trật tự những chương, tái tạo (récomposer) cuốn tiểu
thuyết. Tại
một xứ khác. Tôi gặp người dịch: ông ta không biết một chữ Tiệp nào.
'Làm sao
ông dịch?'. 'Với trái tim của tôí, và chìa ra tấm hình của tôi, lấy từ
chiếc
bóp sau túi quần. Ông ta dễ thương đến độ tôi tin rằng, người ta có thể
dịch,
nhờ nhân điện phát ra từ trái tim!"
Ông
đã cố gắng "sửa sai" tình trạng đó, và cảm
thấy "như chạy theo cơ man con chữ, giống như bầy cừu hoang; một khuôn
mặt
buồn thảm, với mình, và tức cười, với người khác". Người bạn, Pierre
Nora,
như nhận ra tình trạng dở khóc dở cười của ông, đã đưa ra lời khuyên:
"hãy
quên đi những nỗi bực mình và hãy viết một cuốn từ điển cá nhân cho
riêng
bạn".
Và
sau đây là định nghĩa về tiểu thuyết gia, nhà văn:
Tiểu
thuyết: Hình thức lớn của thơ xuôi (La grande forme de
la prose), tác giả qua những cái tôi - des egos expérimentals - (những
nhân
vật, personnages) truy xét tới cùng một số đề tài của hiện hữu.
Tiểu
thuyết (và thơ). 1857: Năm lớn lao nhất của thế kỷ. Ác
Hoa, Les Fleurs du Mal: thơ trữ tình khám phá ra mảnh đất riêng của nó,
yếu
tính của nó. Bà Bovary: lần đầu tiên, tiểu thuyết sẵn sàng đảm nhận
những đòi
hỏi của thi ca (toan tính "tìm kiếm vượt lên trên mọi cái đẹp"; sự
quan trọng của từng từ đặc thù; giai điệu thê thiết của bản văn; tính
quyết
đoán của nguyên bản được áp dụng cho từng chi tiết). Từ 1857, lịch sử
tiểu
thuyết trở thành lịch sử của "tiểu thuyết trở thành thi ca" (roman
devenu poésie) (10). Nhưng đảm nhận những đòi hỏi của thi ca không có
nghĩa là
trữ tình hóa (lyriser) tiểu thuyết (từ chối sự diễu cợt, tính hài hước
thiết
yếu của nó, quay lưng với thế giới bên ngoài, biến tiểu thuyết thành
bản thú
tội cá nhân, tô điểm vẽ vời quá cho nó). Những tiểu thuyết gia lớn
trong số
những "tiểu thuyết gia trở thành nhà thơ" đều chống-trữ tình một cách
thật dũng mãnh: Flaubert, Joyce, Kafka, Gombrowicz. Tiểu thuyết = thơ
chống-trữ
tình (antilyrique).
Tiểu
thuyết (Âu châu): Lịch sử (sự tiến triển đồng nhất và
liên tục) của tiểu thuyết (của tất cả cái mà người ta gọi là tiểu
thuyết) không
có. Chỉ có "những" lịch sử của tiểu thuyết: của tiểu thuyết
Trung-hoa, Hy-La, Nhật-bản, Trung-cổ, vân vân... Tiểu thuyết mà tôi gọi
là
Âu-châu thành lập vào buổi trưa của Âu-châu, lúc rạng đông của những
Thời hiện
đại, tiêu biểu một thực thể nội tại mang tính lịch sử, và sau đó lan
rộng ra
quá khỏi Âu châu (tại Mỹ chẳng hạn). Do giầu có về hình thức, do chú
trọng đến
tiến triển, vai trò xã hội, tiểu thuyết Âu-châu "không giống ai", nếu
phải so với bất cứ một nền văn minh nào khác.
Tiểu
thuyết gia (và nhà văn): Tôi đọc lại tiểu luận ngắn của
Sartre " Viết là gì?". Không một lần, ông ta dùng những từ tiểu
thuyết, tiểu thuyết gia. Ông chỉ nói về nhà văn của thơ xuôi. Một phân
biệt
đúng:
Nhà
văn có những tư tưởng, ý nghĩ nguyên thuỷ (originales),
và một tiếng nói (une voix) không thể bắt chước. Ông ta có thể sử dụng
bất cứ
hình thức nào (kể cả tiểu thuyết) và tất cả những gì ông viết ra - mang
dấu vết
tư tưởng, tiếng nói đó, là thuộc tác phẩm của ông. Rousseau, Goethe,
Chateaubriand, Gide, Camus, Malraux.
Tiểu
thuyết gia không cần lắm đến cái gọi là tư tưởng. Ông
ta là một kẻ khám phá, trong khi mầy mò, cố phát hiện một sắc thái xa
lạ, chưa
biết (inconnu), của hiện hữu. Ông ta không bị hớp hồn bởi tiếng nói của
mình,
nhưng mà bởi một hình thức mà ông ta theo đuổi, và chỉ những hình thức
thỏa
đáng đòi hỏi của cơn mộng (của ông) mới thuộc về tác phẩm. Fielding,
Sterne,
Flaubert, Proust, Faulkner, Céline.
Tiểu
thuyết gia (và cuộc đời của ông ta): "Nghệ sĩ phải
làm cho hậu thế tin rằng ông ta đã không sống." (L'artiste doit faire
croire à la postérité qúil n'a pas vécu), Flaubert nói. Maupassant ngăn
cấm mọi
chân dung của ông (có ở) trong loại sách về những nhà văn nổi tiếng:
"Cuộc
sống riêng tư của một con người, và bộ mặt của người đó không thuộc về
công chúng".
Hermann Broch, về ông, về Musil, và về Kafka: "Cả ba chúng tôi đều
không
có tiểu sử thực sự." Điều này không có nghĩa cuộc đời của họ nghèo nàn
những biến động, nhưng nó không cần phân biệt, công bố, để trở thành
tiểu sử
(bio-graphie). Người ta hỏi Karel Capek tại sao không làm thơ, ông trả
lời:
"Bởi vì tôi ghét nói về chính tôi". Nét chính yếu cho thấy, một tiểu
thuyết gia: một người không thích nói về mình. "Tôi ghét dí mũi vào
cuộc
đời quí giá của mấy ông nhà văn lớn, và chẳng bao giờ cái gọi là tiểu
sử lấy ra
được cái gì từ đời tư của tôi.", Nabokov nói. Italo Calvino cảnh cáo:
Đừng
nói cho bất cứ ai, dù một từ thực, về cuộc đời riêng của mình." Và
Faulkner mong muốn "chỉ là một con người bị huỷ, được lịch sử xoá sổ
(annulé, supprimé par l'histoire), chẳng để lại một dấu vết, ngoài
những cuốn
sách được in ra (hãy gạch đít: sách, được in ra, livres, imprimés, như
vậy là
không có những bản thảo dở dang, những thư từ, những nhật ký). Theo một
ngụ
ngôn nổi tiếng, tiểu thuyết gia phá căn nhà đời mình (la maison de sa
vie) để,
với những viên gạch, xây dựng một căn nhà khác: cuốn tiểu thuyết của
ông. Từ đó
suy ra: những cuốn tiểu sử phá huỷ những gì tiểu thuyết gia làm được.
Việc làm
của nó (tiểu sử) hoàn toàn tiêu cực, nhìn theo quan điểm nghệ thuật, vì
chẳng chiếu
sáng giá trị cũng như ý nghĩa một cuốn tiểu thuyết; may ra nó "chỉ
ra" (identifier) được mấy viên gạch. Vào lúc mà Kafka được quan tâm
tới,
hơn (nhân vật) Joseph K., khi đó tiến trình của hậu-cái chết (mort
posthume)
của Kafka bắt đầu (11).
Tôi
trích dịch một số định nghĩa của Kundera, là để chúng ta
cùng dựa vào đó, đi tìm một tác phẩm lớn của Việt Nam, lấy trường hợp
Thanh Tâm
Tuyền làm một thí dụ. Thứ nhất: ông là một nhà thơ viết văn, viết tạp
bút...
Thứ nhì: đề tài "đắc ý nhất" của ông, theo tôi: tình yêu.
Nếu
trí nhớ của tôi không phản bội, Thanh Tâm Tuyền đã yêu
cầu Huỳnh Phan Anh viết lời bạt Mấy ghi nhận về Bếp Lửa, cho ấn bản
chung
quyết. Tôi nghĩ, ông muốn chủ nhà có vài lời về "the" man who came in
from the cold. (12).
(Đó
là thời gian, Thanh Tâm Tuyền cũng lây cái bệnh của đám
"tiểu thuyết mới" chúng tôi; ngồi quán Cái Chùa mỗi sáng, trước khi
ghé sở).
Chữ
viết không là một ý niệm trừu tượng, nhưng không thể
tách lìa cuốn sách vàụ ở bên trong mối tương quan có thực (vécu), giữa
những
con người ở trên đời, cái đó gọi là ý thức hệ, theo Althusser. Tương
quan giữa
người và chữ luôn luôn là xung đột, nếu không chữ trùng với ý thức hệ.
Khi
thiếu vắng xung đột, khi đó có văn chương hạ cấp (sous-littérature)
(13).
Tôi
thực sự không tin, Thanh Tâm Tuyền có bạn, như một người
hiểu ông, từ nhóm Sáng Tạo. Ông trẻ quá so với tất cả. Tây-phương quá
so với
tất cả. Trí thức quá, vẫn so với tất cả. Với công chúng thưởng ngoạn,
Mai Thảo
là người "đại diện", nhưng thật ra tinh thần "xung đột" của
nhóm Sáng Tạo, phần lớn nếu không là tất cả, ở Thanh Tâm Tuyền. Và nó
mang
"khí hậu" miền Bắc. (Làm thế nào ở giữa một xã hội hư hỏng như thế
này, bị tước đoạt hết khí giới, bị ném vào vũng bùn... Bỏ ra ngoài cũng
là một
thứ đánh đĩ, đánh đĩ tinh thần mình... Bếp Lửa). Sự xung đột (khí hậu)
đó đưa
đến chủ nghĩa Cộng-sản, như "giấc mơ đầu tiên và cuối cùng" của một
miền đất. Đây cũng còn là thế giới tiểu thuyết tiền chiến, ở những Nam
Cao,
Nguyên Hồng, Vũ trọng Phụng... Một cách nào đó, nó còn tiên đoán cuộc
tù dòng
dã của một Nguyễn Chí Thiện, cuộc bỏ chạy "tán loạn" của những Phạm
Thị Hoài, sự xuất hiện "mảng" văn chương "Âu-châu" với
những người viết như Lê Minh Hà, cùng một số khác trên những tạp chí
văn học
tại khu vực này như Gió Đông...)
Tiểu
thuyết là hình thức nam tính chín mùi; tác giả của nó
không còn có thể tin tưởng, bằng niềm tin rạng ngời vốn là niềm tin của
mọi thi
ca, rằng số mệnh (destin) và tình cảm (sentiment) tuy hai từ mà là một
sự vật,
cùng một ý niệm độc nhất... từ đó mọc rễ ở trong tiểu thuyết gia: nhu
cầu thách
đố, đối lập với cuộc đời, một cách đau thương tức tưởi (14): đây là
không khí
Bếp Lửa, những ngày 1954, trong cơn hấp hối của một thành phố. Lạ một
điều, như
một nhà tiên tri, Thanh Tâm Tuyền mường tượng ra, tiếng hát (của
Thanh), và bài
hát nàng ưa thích (Trở về mái nhà. Xưa) là mặc khải, là cứu rỗi. Là hồi
nhớ.
Bếp
Lửa là một cuốn tiểu thuyết "hỏng", theo như
định nghĩa của Kundera ở trên. Tác giả của nó muốn nhiều quá. Hơn tất
cả, muốn
làm một nhà văn. Muốn, tiểu thuyết=tổng số những tri thức của cả một
thời đại.
Cuối
tháng ba bước sang tháng tư, trận chiến bùng nổ qui mô
khốc liệt tại các vùng giới tuyến. Quảng Trị mất, Kontum, Bình Long bị
uy hiếp.
Đầu tháng năm ấy hòa đàm Ba Lê lại đình hoãn vô hạn định. Hoa Kỳ tái
oanh tạc
miền Bắc, dội bom Hà Nội, Hải Phòng, thả mìn phong tỏa các hải cảng Bắc
Việt...
(Một chủ nhật khác).
Trong
không khí của mùa hè nóng bỏng chiến tranh, trên thành
phố cao rực rỡ rét mướt, là câu chuyện tình của Kiệt. Tình đắm say,
tình thảng thốt.
Tình đầu và tình cuối. Tình sống và tình chết. Thơ mộng và tàn ác như
rừng rú,
núi non.
(Lời
giới thiệu trang bìa Một chủ nhật khác, cơ sở Văn tái
bản, Hoa Kỳ, 1983).
Kiệt
và Thùy gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của
Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ
qua khỏi
nhưng lại bị bán thân bất toại và giữ Thùy ở nhà. Thùy gọi Kiệt về.
Kiệt chần
chừ: về làm gì? Làm gì ở đấy? Em nhìn chung quanh em xem. Sang đây với
anh.
Thùy đáp: Em không thể bỏ má; anh không thể bỏ em; không phải anh chọn
lý tưởng
hay tổ quốc hay bất cứ thứ gì, anh chỉ chọn em, một mình em và đứa con
sắp chào
đời của chúng ta. Anh không nghe tiếng kêu xốn xang của em sao?
Kiệt
nghe tiếng kêu xốn xang của Thùy. Chàng trở về.
Họ
không nhận ra nhau.
Cuốn
tiểu thuyết mở ra bằng không khí cao nguyên, bằng một
đám cháy rừng:
Kiệt
đứng như trời trồng.
Chàng
thật cô đơn.
Kiệt
sống lại đêm tháng sáu Bắc Âu, đêm mùa hè của miền lạnh
lẽo với mặt trời cháy suốt đêm trên đầu núi. Người ta kéo ra đồng, ăn
uống, ca
hát, khiêu vũ ngắm mặt trời đêm nguyên hình một khối lửa đỏ ối. Năm ấy
Thùy đã
tốt nghiệp... cả hai người đều còn trẻ... họ nằm bên đống rơm, ngây
ngất trước
khối lửa lạ lùng... đó là đêm tân hôn:
Flamme
seule, je suis seul (15).
Đêm
nay, chàng sống lại nỗi cô đơn, trong cảnh trơ trọi.
Còn
Thùy? Dường như nàng đã quên bặt khối lửa đêm ấy, hoặc
nàng chỉ nhìn thấy chiếc bóng của nó ghi trong ký ức...
Kiệt
bị gọi vào Thủ Đức. Ra trường về quân nhu. Chàng đã có
lần soay sở để được đi tu nghiệp - như chuyên viên kinh tế tại sở cũ -
nhưng
phút cuối, khi được phép rời đất nước, chàng đổi ý.
Rồi
Đà Lạt, và Oanh, và Ly.
Kiệt
không ngờ tên thật của Ly là Hiền. Chàng quen gọi nàng
là Ly hoặc Ly Ly - Hello - hoặc những lúc đùa nghịch gọi là Ly Ty, Vy
Ty, Ty Ty
và đôi khi đùa nhả gọi là Ky Ky.
Và
Tình: Rực rỡ, như khối lửa định mệnh, ở chốn lưu đầy
(thiên đàng) đã mất.
Tình
đầu, có lẽ là Hiền:
Hồi
ấy khi không Kiệt thấy bóng cảnh sát là sợ rúm người.
Nguyên nhân có lẽ vì rượu. Suốt một năm sau ngày mẹ chết, Kiệt bén mùi
rượu đêm
nào cũng la cà bét nhè rồi về đập cửa phòng Tân. Ly mỗi dịp nghỉ từ
Luân Đôn
sang chơi với ông anh đều phải mở cửa cho chàng...
Chưa
từng bao giờ Kiệt nói yêu Ly, chàng không nghĩ tới.
Nhưng một hôm say mứa được Ly săn sóc, chàng đã cầm tay Ly bảo: Em
giống như mẹ
anh, anh thề sẽ lấy em. Rồi chàng khóc rưng rức. Ngày hôm sau, mặc dù
gần Giáng
Sinh, Ly bỏ về Luân Đôn không báo cho Tân hay. Kiệt đã viết thư xin lỗi
và nhận
được câu trả lời: Em cũng thề không bao giờ làm vợ một kẻ say sưa (16).
Đà
Lạt.
"Tại
sao ông lên trên này?"
"Cũng
có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi.
Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi... Cái ông bác sĩ tìm ra thành
phố này
là một con bệnh, ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái..."
"Loài
voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết
thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ...".
Ngoài
những giờ trong quân trường, Kiệt phụ trách một môn
học tại viện Đại Học. Oanh là một sinh viên trong lớp.
Sinh
viên tiếp tục ra khỏi giảng đường. Một cô bé thường ngồi
ở hàng ghế sau tiến trên lối giữa, gương mặt ngỏ ý muốn gặp chàng. Kiệt
rời
khỏi bục. Rồi chàng cùng bước song song với cô ra cửa.
-Em
muốn được hỏi thầy vài điều..
-Thầy
cho gặp riêng...
-Em
xin lại thăm thầy ở nhà...
"Anh
có thật? Ngày chủ nhật kia có thật? Ngôi chùa lộng
gió có thật? Ngôi nhà trong đêm thơ mộng khủng khiếp nhớ đời có thật?
Em hỏi
hoài... Những tiếng nổ ở phi trường buổi sáng em đi thì chắc chắn có
thật.
Chúng nổ inh trong tai em, gây rung chuyển hết thẩy. Những nụ hôn chia
biệt cũng
có thật, còn hằn rát bên má em, không biết bao giờ phai...
Chiều
nay Saigon đổ trận mưa đầu mùa. Trên ấy mưa chưa? Anh
vẫn ngồi quán cà phê buổi chiều? Anh có lên uống rượu ở P.? Anh có trở
lại quán
S., với ai lần nào không? Sắp đến kỳ thi. Năm nay em không có mặt để
nhìn trộm
anh đi đi lại lại trong phòng, mặc quân phục đeo súng một cách kỳ cục.
Anh có
đội thêm nón sắt không? Năm đầu tiên em gọi anh là con Gấu. Hỗn như
Gấu, đối
với nữ sinh viên. Em có ngờ đâu anh là Yêu Râu Xanh...
-Anh
giống Yêu râu Xanh thiệt.
-Rốt
cuộc Yêu Râu Xanh thất bại.
-Anh
có biết tại sao em đến tìm anh không?
Kiệt
khó chịu vì câu hỏi. Chàng nín thinh.
-Em
tìm để từ biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng của Kiệt -
Trước khi không còn được gặp anh, em muốn...
Kiệt
lặng người.... Oanh cúi mặt như người phạm lỗi...
-Về
già nghĩ đến những lúc này mình có kỷ niệm đẹp biết là
chừng nào..
-Em
nghĩ thiệt giỏi. Kiệt chua chát, ngấm ngầm, cay đắng...
-Anh
coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi
em sẽ hiểu, nên để cho người ta coi thường mình. Kiệt
trở giọng giận giữ - Mình là cái quái gì. Anh chỉ mong mọi người coi
thường
anh. Được coi thường, thường hết, dễ sống...
Kiệt
lầm bầm, đều đặn. Chàng nói với Oanh nhưng dường như
chàng cũng còn nói với bóng hình khác không phải nàng. Rồi chàng bỗng
hát nho
nhỏ: Trời đêm xưa gió lộng gọi mùa sang...
Oanh
mường tượng những ngày rét mướt sắp tới ở nơi Kiệt cũng
như nơi nàng đến. Nàng nghe tiếng gió hú gào qua đồi núi, trong các
thung lũng,
lòng chảo. Khắp một vùng run rẩy trong hơi giá lạnh của những trận mưa
dầm lạnh
lẽo.
Nàng
như hiểu thấu lòng Kiệt nhưng rồi nàng chẳng hiểu được
gì.
-Em
có thể đi một mình.
Người
bị xe tuần tiễu bắn hồi ba giờ sáng ở rừng thông bên
kia đường ra sân bắn là Kiệt. Tại sao trung uý Kiệt lại lần mò ở đấy?
Ông ta
bệnh nằm cả tháng nay bên tiểu khu mà.
Trời
đêm xưa gió lộng gọi mùa sang.
Rượu
cạn ly uống say tình còn giá
Lá
trên cành một chiếc lá bay ngang.
Kiệt
không hát. Chàng thủ thỉ đọc. Oanh lạnh mình.
-Anh
nhớ trật rồi. Không đúng như thế. Nhưng rồi sao?
-Anh
ngã xuống như một chiếc lá. Anh chết vì những câu hát
vô tình. Thật thế. Giờ này anh mới nghĩ ra. Trong khi nằm nhà thương,
anh nghe
hoài âm vang rền lộng lúc ấy. Anh ngã xuống rồi tiếng hát mới bay tới
hay anh
nghe xong mới ngã, anh chẳng rõ... Điều bí ẩn là giọng hát, không phải
cơn gió.
Gió đưa tiếng hát bay. Điều bí ẩn của Trương Chi là ở giọng hát của
anh. Chỉ có
vậy...
Oanh
vụt hiểu: Bắt đầu không phải như thế, đấy là giới hạn
của nàng.
-Anh
đã nói điều bí ẩn chính là tiếng hát. Mà tiếng hát có
gì bí ẩn. Nó cất lên, ngân nga rồi tắt..."
Nguyễn
Quốc Trụ
Chú
thích:
1.
Tác giả Racine (Jean, 1639-99), nhà viết kịch người Pháp.
Hầu hết những bi kịch của ông, nhân vật là nữ, như Andromaque (1667),
Phèdre
(1677).
2.
Bản chuyển ngữ đã đăng trên VHNT E-Magazine, và trên Hợp
Lưu, số tháng 4&5, 1999.
3.
Một số dữ kiện lấy từ bài viết Children's books come of
age, tác giả Iglesias Kuntz, trên Le Courrier de l' UNESCO.
4.
Đã được Phan Lệ Thanh chuyển ngữ.
5.
To come into the world was to come into torture and
death. G. Steiner, Absolute Tragedy.
6.
Khi anh bỏ chạy biến động, chúng sẽ không bao giờ tha thứ
cho anh, và khi anh trở về, chẳng ai mất công hiểu anh. (You are
running away
from events and these events will never forgive you, when you return
you will
not be unsderstood): Câu nói của viên bộ trưởng Văn hóa Nga, với nhà
soạn nhạc
lừng danh Sergei Prokofiev khi ông này từ nước ngoài trở về (1927).
Cuộc chiến
phải chấp nhận, thực vậy không...?
7.
Nếu trí nhớ của người viết không lầm lẫn, bài điểm sách
trên nhật báo Tự Do (Sài-gòn), là của Hà Thượng Nhân. Người điểm sách
chỉ trích
một vài chi tiết trong truyện, như đoạn tả cô con gái (Thịnh), trong
lúc hạ
huyệt ông Chính, đã "lăn lộn trên cỏ như một con chó điên, tóc tai rũ
rượi, tay chân cào cấu". Hà Thượng Nhân (và cùng với ông, tờ Tự Do) đã
đả
kích thơ tự do thậm tệ, khi nó vừa mới xuất hiện.
8.
Nguyễn Đức Quỳnh. Bút hiệu Hà Việt Phương. Sinh ngày
23-11 năm Kỷ Dậu (1909) tạỉi Hưng Yên. Di cư vào Nam trước hiệp định
Genève.
Trông coi tòa soạn Đời Mới (của Trần Văn Ân). Tổ chức những buổi họp
"Đàm
Trường Viễn Kiến". Đã nổi tiếng từ thời tiền chiến. Không có tác phẩm
xuất
bản sau 1954. Qua đời tại Sài-gòn ngày 21-6-1974. (Võ Phiến, Văn Học
Tổng Quan,
mục Tác giả và Tác phẩm). Theo như một người có quen biết ông, bút hiệu
Hà Việt
Phương có nghĩa là "chạy phương nào nữa đây", diễn tả tâm trạng rời
bỏ đất Bắc vào Nam. "Ai có qua cầu" - chủ nghĩa CS - mới hiểu được,
và có thể "giải" được (bài toán Việt Nam?), theo kiểu "cởi
chuông phải là người buộc chuông". Đàm trường thay cho Đấu trường, Viễn
kiến thay vì Cận kiến...
9.
Bài phỏng vấn đăng trong La Part d'Exil (nhà xb Đại học
Provence Pháp, 1995); người viết đã chuyển ngữ, từ bản tiếng Pháp của
Lê Hữu
Khóa, in trong Lần Cuối, Sài-gòn (nhà xb Văn Mới, Hoa Kỳ, 1998).
10.
Ở đây, xin đưa thêm nhận định của Phạm Thị Hoài, trong
bài phỏng vấn do Phạm Việt Cường ghi trên Hợp Lưu số báo đã dẫn (...
Chị có
nhận thấy văn chương của chị có nhiều chất thơ không?): Tiếng Việt cho
tới cuối
thế kỷ mười chín là ngôn ngữ của thơ và văn vần, nó có ít kinh nghiệm
về văn
xuôi... Chất thơ, như anh gọi, trong văn của tôi, không hẳn là công lao
của cá
nhân tôi, có thể coi đó là di sản của lịch sử văn học Việt Nam...
11.
Nghệ thuật tiểu thuyết, L'art du roman. Milan Kundera
(nhà xb Gallimard, tủ sách Folio, 1995).
12.
Mô phỏng tên tác phẩm của John Le Carré: The Spy who
came in from the cold (Gián điệp từ miền lạnh).
13.
Henri Meschonic, Thi tính, Pour la Poétique, essai (nhà
xb Gallimard, tủ sách Chemin, 1970).
14.
Le roman est la forme de la vérilité murie; son auteur
ne peut plus croire... Georges Lukacs, Lý thuyết tiểu thuyết, La
Théorie du
roman, trang 81, (nhà xb Gonthier, tủ sách Méditations, 1963, ấn bản
tiếng
Pháp).
15.
Ngọn lửa cô đơn, tôi cô đơn.
16.
Người mẹ ở đây, chắc vẫn chỉ là một biểu tượng. Kiệt
sống ở ngoại quốc trên mười năm. Mười tám tuổi đậu tú tài, ông bố vận
động...
ông không muốn con trai ông đi lính... Là con một Kiệt chỉ sống quẩn
bên gấu
mẹ... việc học hành tuân theo sự chỉ dẫn của ông bố... nếu được lựa
chọn chắc
Kiệt đã học Canh Nông và Âm Nhạc. Trong những năm tản cư chạy loạn
chàng thích
đời sống rẫy bái. Còn Âm Nhạc là mối đam mê suốt thời thơ ấu mà chàng
phải giấu
ông bố.... Ngày Kiệt đang ở Đức, mẹ chàng mất. Chàng chỉ biết sau đó.
Ngày ấy
nơi xứ người, lần đầu trong đời, Kiệt một mình đến quán rượu uống say
bí tỉ,
khóc mẹ. Cũng lần đầu, trong cơn say, Kiệt thù hận những lo toan, tính
toán quá
sáng suốt lạnh lùng của ông bố. Đáng lẽ Kiệt phải tức tốc bay về dù đã
trễ
muộn. Sau khi mẹ chết, Kiệt quyết định vĩnh viễn không về nước. Thuỳ
làm chàng
thay đổi quyết định.
*
Bếp Lửa, với số trang trên trăm, chỉ là một truyện vừa
(une nouvelle), chưa được coi là một cuốn tiểu thuyết.
Nguyễn
Quốc Trụ