TẠP GHI
|
Thư
bạn
Anh...
thân mến,
Nhân dịp sắp hết năm cũ và bước sang năm mới, kính chúc anh và gia đình
được an lạc, công việc sáng tác được phát triển như ý và càng ngày càng
có thêm nhiều bạn tốt.
Hai ngày vừa qua, tôi có dịp đọc hết cuốn sách anh tặng (tôi rất ít đọc
sách xuất bản ở đây, ngoài những sách đã nổi cộm (như Đêm Giữa Ban
Ngày). Tôi cũng đã đọc truyện Mộ Tuyết trong tập sách đã in trước đây.
Qua đó tôi hiểu thêm về anh hơn. Anh có nỗi buồn xa quê hương yêu dấu
(Hà-nội), gia đình phân ly, tan tác. Tôi cũng có đứa em duy nhất, nó đã
tử trận sau hiệp định Paris. Cho nên tôi chia sẻ được phần nào nỗi đau,
mất mát của anh.
Tôi cũng rất kính phục anh có kiến thức rất rộng về văn học, triết học
của Tây phương hiện đại. Thuở mới đến..., từ một chàng trai nhà nghèo
bước vào xứ giầu có và nhiều thông tin, tôi cũng đam mê nền văn minh
phương Tây. Vì vậy thay vì chú tâm học (ngành chuyên môn (2) tôi dùng
thì giờ đọc tất cả những loại sách triết, văn chương, nghệ thuật, hội
họa, âm nhạc... Khi đi theo phong trào... (tôi) mới chuyển sang đọc cái
khác. Vì vậy, khi không còn hoạt động gì nữa, tôi tìm lại được cái thú
đã mất gần 20 năm, là nghe nhạc cổ điển, đọc sách văn chương thế giới.
Và từ vài năm nay, là quay về cội nguồn, tìm hiểu phương Đông, và nhất
là về đạo Phật. Dài dòng như thế là để muốn nói, tôi hiểu anh và mình
có nhiều điểm khá giống nhau.
Ngoài ra, đã là bạn với nhau, anh cho phép tôi nói luôn hai ý nghĩ khác.
Thứ nhất là qua văn chương của anh, tôi thấy anh còn quá "cay cú" (hay
nói theo nhà Phật, còn "quá chấp"), về cái xấu của chủ nghĩa Cộng sản.
Vì vậy mà anh rất nhậy cảm với cái dở, cái xấu của nó, và cũng vì thế,
nhiều khi anh thấy không trọn, không hết mà có lúc, không đúng. Anh (và
cũng có nhiều người khác giống như anh) quá "độ lượng", về chế độ
Sài-gòn, về người Mỹ. Tôi hy vọng là anh tiếp tục mở rộng quan hệ
(.....) thì những cái chấp "vô lý" đó sẽ lần lần tự xóa đi, và anh sẽ
thanh thản hơn, nhìn Hà-nội, nhìn các con người như Văn Cao, Nguyễn
Tuân... với con mắt thông cảm hơn. Dù không phải là người Hà-nội, tôi
rất yêu thành phố này, và rất quí nhiều bè bạn (....) mà anh có nói qua.
Thứ hai, hiểu biết của anh về văn học phương Tây khá sắc, nói ít, gọn
mà sắc sảo. Nhưng anh mê nó quá, lúc nào cũng lởn vởn ở trong óc anh,
nên anh kể hết về người này lại nhắc đến câu chuyện khác. Giá mà, với
vốn kiến thức ấy, anh tập trung, giới thiệu mổ xẻ, đào sâu, so sánh,
thì chắc độc giả bình thường sẽ hấp thụ được nhiều hơn. Những tác phẩm,
những con người mà anh lướt qua (lướt qua chứ không hẳn là giới thiệu)
rất đáng được giới thiệu đánh giá (phần được, phần chưa được, phần thất
bại) kỹ hơn. Trong một mức độ nào đó, Việt nam rất hiếm, nếu không nói
là không có một nhà phê bình văn học có tầm cỡ (kiến thức rộng, cả Tây
lẫn Đông). (Một người như thế) mới (vừa) đánh giá vừa giúp cho độc giả
thấy được giá trị và giới hạn, qua đó cũng đốc thúc những người sáng
tác thực sự kiểm điểm lại mình và từ đó có tiến bộ. Công việc phê bình
của anh, qua cái nhìn chủ quan của tôi, có lẽ mới làm được phần "mua
vui".
Lâu nay, tôi chưa hề góp ý điều gì, nay mạo muội nói mấy điều với anh,
chỉ muốn thể hiện cái tình bạn sơ giao với nhau. Nếu có sai thì anh bỏ
qua cho (đừng chấp!)
.....
Thân
mến,
II.
Tiếng nói, từ miền lạnh
Tôi
rời Hà-nội vừa lúc mới lớn, chớm yêu thành phố. Chớm nhận ra những vẻ
đẹp của nó. Khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn (1965), trí tưởng tôi vẫn còn
tràn ngập những kỷ niệm về Hà-nội.
Rồi tới những tác phẩm của Miền Bắc, đọc sau 1975. Tôi cố tìm một
Hà-nội của tôi ở trong đó. Cố tìm một Hà-nội đẹp như mơ bỏ lại. Những
bè bạn bỏ lại.
Không thấy.
Cho tới khi đọc Lê Minh Hà.
Phải nói, tôi đã chờ hoài một tác phẩm như vậy.
Trong
bài viết Nhà văn và chủ nghĩa Cộng sản (3), khi điểm cuốn Văn chương và
Cách mạng (Literatur und Revolution) của Jurgen Ruhle - một trong những
nhà văn, trí thức đã chủ trì, và kinh nghiệm mùi vị chủ nghĩa Cộng-sản
và sau đó từ bỏ thực tại Stalinist, rồi chọn Đức quốc làm nơi trú ẩn -
George Steiner coi Văn chương và Cách mạng có tầm vóc một cuốn lịch sử
về nhà văn và chủ nghĩa Cộng-sản trên toàn thế giới. Về định mệnh văn
chương Nga duới thời Lenin, và về bộ ba cách mạng Blok, Yessenin,
Mayakovsky: Bên dưới những câu chuyện kể về người và việc, vọng lên
thanh âm rền rĩ, về căn do của (những hành động) lưu đầy, hành quyết và
tự sát (4).
Tới Pasternak, Steiner cho rằng, Ruhle đã nhận ra ở tác giả này, tiếng
nói đích thực của Nga, và cùng với nó, viễn ảnh vượt lên mọi oan khiên
tàn bạo của nhất thời; và đồng ý với Edmund Wilson (5) khi tìm thấy ở
trong nhân vật Lara và Zhivago một thách đố không thể trả lời, đối với
chủ nghĩa duy lịch sử, và định mệnh thuyết chối từ cuộc đời của ý thức
hệ Cộng-sản. Thật hiển nhiên, nếu Pasternak có thể giữ riêng cho mình
một tình yêu nổi loạn, riêng tư ngay trong lúc ăn nằm với Liên-bang
Xô-viết, điều này chứng tỏ tinh thần Nga vẫn còn sống ở bên dưới lớp
băng là kỷ luật Đảng.
Như một đứa con của Hà-nội, từ lâu, tôi vẫn cố tìm cho được cái tình
yêu riêng tư, nổi loạn, ngay trong lúc ăn nằm với chế độ toàn trị, của
cái gọi là "tinh thần Hà-nội."
Sau này tôi thấy ở hai người, Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà.
G.
Steiner nhận xét về tác phẩm đã một thời làm say mê cả một Miền Nam
Việt Nam - như một tác phẩm chống Cộng: Do ở xa nước Nga, Ruhle đã
"không nhận ra, thế giới, hình ảnh, cảm nghĩ của đôi tình nhân
Lara-Zhivago đối với thế hệ trẻ hơn họ. Chính đám cầm quyền, đám già đã
sợ hãi cuốn sách, và tìm đủ mọi cách để cho nó im luôn." Và ông "tự
hỏi, không biết những người trẻ tuổi có tìm ra được một điều gì trong
Bác sĩ Zhivago (6), nhưng chắc họ chỉ coi đây là một câu chuyện thần
tiên làm mủi lòng độc giả hay một mẩu giả tưởng về lịch sử, xa xưa như
Anna Karerina."
Nhưng
quan trọng hơn hết, Steiner cho rằng, "người ta không thể nào
nhìn ra tác phẩm (Bác sĩ Zhivago) thường xuyên tự mâu thuẫn, mang tính
suy tư và tản mạn này, nếu không nhận ra một điều: tác giả của nó đã
đắm đuối chết chìm trong những đau thương và hoài vọng về cách mạng
Nga. Trong nhiều chiều hướng, cuốn tiểu thuyết là một biện minh, một
cái cớ cho cách mạng: một cuộc cách mạng hướng nội, toàn diện hơn cả
cuộc cách mạng đưa đến xã hội Xô-viết."
Đọc
những nhà văn thuộc dòng "phản kháng" ("ly khai" đúng hơn, theo
tôi) ở trong nước như Dương Thu Hương chẳng hạn (7), họ cố vẽ ra một
cuộc cách mạng tưởng tượng như thế, khi chống Đảng, nhưng vẫn tin vào
chủ nghĩa Cộng-sản.
Ở
Vũ Thư Hiên, trong Đêm Giữa Ban Ngày, có vẻ như ông vẫn đắm đuối
trong những đau thương và hoài vọng như vậy. Ở Lê Minh Hà, không. Bà
như muốn một điều khác. Trong tập truyện đầu tay, Trăng Góa (nhà xuất
bản Thanh Văn, 1998), người ta đã nhận ra một giọng nói, tuy mệt mỏi,
chán chường - thí dụ giọng nói của vầng trăng goá, tự nhủ lòng mình,
lần này lấy chồng, sự thực là kiếm cha cho đứa nhỏ - nhưng không thể bị
bẻ gẫy.
Vả
chăng có sự khác biệt giữa hai người viết, về tuổi tác, về "gia thế"
- người Cộng-sản gọi là lý lịch giai cấp. Với Lê Minh Hà, độc giả chỉ
có thể mường tượng ra, qua những nhân vật nữ trong truyện. Còn với Vũ
Thư Hiên, chúng ta đều biết thân phụ ông là người thân cận với Hồ Chí
Minh, và vụ án chống lại Đảng gia đình ông là nạn nhân, vốn chỉ là
thanh trừng lẫn nhau giữa những người Cộng-sản. Nạn nhân của Cộng-sản ở
đây là những người Cộng-sản, và vì là nạn nhân, họ tin rằng họ trung
thành với chủ nghĩa hơn là những kẻ thắng thế đang nắm quyền.
Hơn
nữa, còn khoảng cách giữa hai thế hệ - mà Phạm Thị Hoài tin tưởng
vào nó, khi viết về vị thủ lãnh trong bóng tối, Trần Dần. Chính khoảng
cách này đã phân chia những người như Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà. Nó
cũng đã khiến Phạm Thị Hoài cay đắng chua chát, "dù có rũ bụi tôi cũng
không dám làm quen" (8). Ở đây, là vấn đề tầm nhìn. Là vấn đề anh hay
tôi có thiết tha với nó hay là không: chủ nghĩa Cộng sản. Hãy bỏ qua
những cơ hội chủ nghĩa, với những người Cộng-sản Miền Bắc, tin vào chủ
nghĩa là tin vào chiến thắng miền Nam, vào thế tất thắng của chủ nghĩa
bách chiến bách thắng.
Với thế hệ đi liền theo sau đó, họ nhìn xa hơn: chiến thắng Miền Nam
không biện minh gì hết.
Nếu có, thì là: thắng trận nhục nhã lắm!
III.
Cô Rơm và những người Hà-nội khác
Cô
Rơm (9) là người Hà-nội. Theo như tôi biết, hay tưởng tượng rằng mình
biết, cô có tên mộc mạc này, là do bà mẹ sinh ra cô trên một ổ rơm, khi
gia đình chạy khỏi thành phố Hà-nội, những ngày đầu "Mùa Thu".
Kim Dung cho rằng thiên nhiên khi "bịa đặt" ra một tai ương, thường
cũng bịa đặt ra một phương thuốc chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên
thảm họa. Ông kể về một thứ cỏ chỉ có ở một địa phương lạnh khủng
khiếp, và người dân nghèo đã dùng làm giầy dép. Những người dân quê
miền Bắc chắc không thể quên những ngày đông khắc nghiệt, và để chống
lại nó, có ổ rơm. Tôi nghĩ Trần Mộng Tú tin rằng "rơm" là phương thuốc
hữu hiệu, không chỉ để chống lại cái lạnh của thiên nhiên, mà còn của
con người.
Ít nhất, chúng ta biết được một điều: tác giả đã mang nó tới miền Nam,
rồi ra hải ngoại, tạo thành thứ tiếng nói hiền hậu chuyên chở những câu
chuyện thần tiên.
"Ba mươi năm ở Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập
gia đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20,
19), một căn nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có
lắm.... trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng
với mình quá. Mấy chục năm trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây
giờ Trời lại đền bù. Còn quê hương thì lúc nào cũng thấy ở trong tim,
chắc khó mà mất được..."
Giọng nói đó khác hẳn giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy
của một Lê Minh Hà.
"Sức
khỏe" ngôn ngữ đó - thật thiết yếu, cho một xã hội đang còn sống.
Văn chương là nơi ngôn ngữ luôn bị thách đố, và cần được gìn giữ nhất.
The health of language is essential to the preservation of a living
society. It is in literature that language is most truly challenged and
guarded. G. Steiner, Chủ nghĩa Mác và Phê bình văn học - phải chăng
được Cô Rơm gìn giữ, giùm cho tất cả chúng ta?
Nguyễn
Quốc Trụ
Chú
thích:
1. Những người Hà-nội được nhắc tới ở đây là tác giả Cô Rơm và những
truyện ngắn khác (Trần Mộng Tú), Đêm Giữa Ban Ngày (Vũ Thư Hiên), Trăng
Góa (Lê Minh Hà...).
2. Người viết bỏ đi một số chữ có tính cách riêng tư, và thay bằng
những chữ khác.
3. The Writer and Communism (1961), bản chuyển ngữ đã đăng trên Hợp Lưu.
4. Người dịch nhấn mạnh.
5. Phê bình gia người Mỹ.
6. Hãy để ý đến từ "Bác sĩ".
7. Trong những tác phẩm đầu. Bây giờ có thể họ đã thay đổi.
8. Thủ lĩnh trong bóng tối (Văn Học, Hoa Kỳ).
9. Cô Rơm và những truyện ngắn khác, nhà xb Văn Nghệ (Cali) 1999.
Chú
thích:
Bài này viết, post trên VHNT, trên Tin Văn, cũng đã lâu lắm rồi, nay,
21 Nov, 2005, lôi ra đánh bóng trở lại, có độc giả gửi vài dòng, góp ý.
Trân trọng cám ơn.
Tin Văn
Chúng ta phải học để cùng sống với nhau
như anh em,
Nếu không chúng ta cùng
chết chung với nhau như những đứa ngu.
Martin Luther King
Diễn văn 31-03-1968
Anh bạn... thân mến,
Hôm nay trời khá lạnh, tôi đọc Thư Bạn, Tiếng Nói Từ Miền Lạnh, tôi
cũng thuộc loại độc giả thinh lặng – nếu không muốn nói là câm như hến
– biết ơn người viết mà không mở miệng ra, không đánh trên phím hai
chữ Cám Ơn. Tiếng Cám Ơn đã ở trong đáy tim, lôi nó ra khó quá.
Bạn ạ, mới ban đầu tôi cũng ngạc nhiên với cái mũi khoan của bác Gấu
nhưng dần dần tôi cảm nhận chẳng có mũi khoan nào đủ mạnh, đủ cứng để
khoan bật cho được hết cái ác độc của chế độ toàn trị, một chế độ toàn
trị nói chung chứ không cứ gì chế độ nhà mình.
Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ Quốc, Anh Quốc, Đức Quốc, Tư Bản Quốc họ cũng có
những cái xấu xa, những cái độc nhưng họ không ngu.
Dựng lên một nhân vật giả tưởng như bác Hồ, như Mao chủ tịch là siêu
ngu. Họ thắng trận nhờ hình tượng đó nhưng họ làm cho tiềm thức hậu thế
bị mờ đục. Không gì khổ cho hậu thế khi không rõ về gia phả, khi gia
phả của mình không trong sạch.
May cho VNCH có được ông Diệm, ông Thiệu; tuy không cứu được nước nhưng
cứu được cái tiềm thức.
Bạn ạ, công việc của bác Gấu là công việc của người dẫn đường. Bác lướt
qua, bác không dừng lại được, bác cũng chẳng còn bao nhiêu thì giờ để
dừng. Bác lướt qua để lại chút hương hoa trên đường đi, công việc của
mình là ngừng lại và đào sâu, nếu có sức và có thì giờ.
Xin cám ơn bạn,
Hồng Trần
Thư Bạn, đăng
VHNT trên net, do PCL chủ biên, và Hợp Lưu, từ đời tám hoánh nào rồi.
Một bữa, lục ra,
đăng lại trên Tin Văn. Một độc giả viết thêm một đoạn, đoạn trên.
Hỏi,
để tên gì. Tên gì cũng được.
Bây giờ, viết
về TMT, lôi ra, một độc giả gửi mail, hỏi, ủa, ai, mà sao
viết giống hệt tui?
Thú vị
nữa là, chính Gấu này cũng không nhớ độc giả/tác giả này là ai, vì cái
tên phịa ra đó, lạ hoắc.
Phải đến nửa tiếng đồng hồ Gấu mới nhớ ra.
Và bồi hồi cảm động, cũng chừng nửa giờ đồng hồ nữa !
*
-Hong Tran la ai ma viet giong tui viet rua?
-Tui cũng
không ngờ tui đọc ở đâu cái ý con người sống phải
có tổ có tông, có lý lịch trong sáng đàng hoàng, không ai sống trong
cảnh mập
mờ được. Các trẻ em sinh với lý lịch “cha mẹ X- cha mẹ không biết” lớn
lên để
cả đời đi tìm cha mẹ bio của mình dù được cha mẹ nuôi yêu thương dạy
dỗ. Ở bên
Pháp có tổ chức giúp cho các người này truy tìm nguồn gốc đến cùng. Một
lý lịch
mập mờ thần tượng hư hư ảo ảo, tốt xấu không rõ ràng thì khổ thật.
*
Đúng như thế. Thời "Không Mặt", "Ẩn Mặt", "Bịt Mặt", "Khuất Mặt" (1) là
Thời Bị Chúa
Nguyền Rủa. Mi được tạo ra, qua hình ảnh, mặt mũi của Ta. Giờ Mi
chối bỏ, thì cho Mi chết luôn !
Cả cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, của D.M. Thomas, được viết ra theo
dòng mặc khải này, khi nhìn lại thế kỷ hung bạo.
Trân trọng. NQT
(1) Gấu nhớ tới Gió
Tự Thời Khuất Mặt 1 2 3
|