TẠP GHI
|
Đỉnh Cồn,
Vòng
Đai Xanh, Ngô
Thế Vinh, và tôi
Tôi quen biết Ngô Thế Vinh rất sớm, từ cái thuở
anh còn là
sinh viên ở cư xá Minh Mạng. Anh học y khoa, chữa bệnh cho từng con
người. Anh
làm báo Tình Thương, toan tính chữa bệnh cho một thời đại. Anh viết
văn, mơ
tưởng chuyện chữa bệnh cho một dân tộc. Nhân làm báo Tình Thương, với
tư cách
một phóng viên, anh khám phá ra một cuộc chiến trong một cuộc chiến:
Cuộc chiến
của những đồng bào Thượng. Độc giả đọc Vòng Đai Xanh, có thể coi đây là
một ân
sủng, đối với tác giả. Ông đã tìm ra cái cõi của riêng ông. Trong cõi
đó, không
chỉ có văn chương mà còn có những đứa con của núi rừng.
Đó
là lần gặp gỡ đầu tiên, và cuối cùng của hai đứa tại Việt Nam.
Chúng tôi xa thật xa mà cũng gần thật gần. Tôi xa anh thì đúng hơn. Anh
vẫn
thường xuyên theo dõi những bài viết của tôi. Tôi còn nhớ có một lần,
khi tôi
phụ trách trang Văn học Nghệ Thuật cho báo Tiền Tuyến, trong một bài
viết, tôi
sử dụng giọng văn khề khà, và tôi nhận được ngay một lời trách cứ của
anh, qua
một người bạn, đại khái như vầy: Bạn chưa già đâu, đừng giở cái giọng
văn
"mệt mỏi" đó ra. Lẽ dĩ nhiên, đây là cách diễn đạt của riêng tôi, về
lời ân cần nhắc nhở của anh. Ai đã từng quen biết Ngô Thế Vinh, đều
biết rõ con
người nhỏ nhẹ từng lời nói, trân trọng từng cử chỉ đó. Tôi chưa hề nói
cho anh
biết tôi đã cảm động và biết ơn anh như thế nào, khi đó, và sau này,
khi tôi bị
cuộc sống cá nhân hành hạ đến trở thành sống dở chết dở, có những lúc
muốn
buông xuôi, nhưng trong tiềm thức, vẫn oái oăm một câu trách cứ của anh
ngày
nào, và tất nhiên của những người thân, của một hồng nhan tri kỷ (cũng
có
thể)... đã khiến tôi đành phải bò dậy.
Tôi
xa anh, xa anh thật. Hồi đó tôi làm UPI, chuyên viên
chuyển vô tuyến viễn ảnh. Máy đặt ngay tại Đài Liên Lạc Vô Tuyến Điện
Thoại
Quốc Tế, tầng lầu trên cùng, tòa nhà số 7 Phan Đình Phùng Sài-gòn. Ở
trên đỉnh
cồn đó, đọc đủ thứ văn chương "viễn mơ", chứng kiến - qua hình ảnh -
cuộc chiến từ khắp nơi, từ khắp các vùng chiến thuật, quen biết, chuyện
trò với
đủ thứ tinh anh hào nhoáng của giới truyền thông Tây-phương, nhìn cuộc
chiến từ
phía hậu trường của nó... tôi vẫn tự cho mình là kẻ thấy hết, hiểu hết:
Tôi đã
đọc Vòng Đai Xanh, như một kẻ chân không chấm đất... như thế đó, khi
cuốn
truyện được xuất bản lần thứ nhất, tại Sài-gòn.
Nói
hết ra: Khi đó tôi không sống, anh sống.
Qua
đây, anh cũng lại là người đầu tiên chú ý đến những bài
viết của tôi. Tôi biết là anh rất mừng khi thấy tôi viết lại. Và anh
gửi cho
tôi, những cuốn sách của anh, những cuốn tôi chưa hề đọc tuy đã từng
được anh
gửi tặng. Hay đúng ra, đã từng đọc, khi không sống. Anh cũng gửi tập
truyện mới
nhất của anh, Mặt Trận ở Sài-gòn.
Như
trong cuộc trả lời phỏng vấn của báo Bách Khoa, nay được
dùng thay cho lời tựa của cuốn Mặt Trận ở Sài-gòn, Ngô Thế Vinh cho
biết, ông
có ý định viết một cuốn sách sưu khảo về cao nguyên, thay vì cuốn tiểu
thuyết
Vòng Đai Xanh. Lý do, theo ông là để tránh kiểm duyệt. Nhưng sau đó,
báo Tình
Thương bị bắt buộc phải đóng cửa, ông có thì giờ tưởng tượng hóa tư
liệu, cho
nó chết đi để rồi sống lại, trong tiểu thuyết.
Thật
kỳ cục, đọc Vòng Đai Xanh, tôi vẫn có cảm giác đây là
một cuốn biên khảo, một thứ khảo cổ học (1). Ở đây là khảo cổ học về
nguồn gốc
một cuộc chiến (trong một cuộc chiến). Hoặc có thể coi đây là chương mở
đầu của
một trường thiên tiểu thuyết về cuộc chiến Việt Nam.
Là
những kẻ sống sót, tuy do những lý do hoàn toàn khác
biệt, một kẻ chui rúc trên đỉnh cồn, đọc, ngốn bất cứ thứ gì vướng vào
mắt, như
loài trâu bò, để mong rằng sau này nhai lại, nếu sống sót, hoặc mang đi
sang
thế giới bên kia, như những kỷ niệm tức tưởi về một đời "lầm lỡ đầu
thai", "hết thuốc chữa"; còn một kẻ, đã từng mường tượng ra thế
giới (Miền Nam) sẽ phân ba: Những đứa con của núi rừng, những người CS
miền
Bắc, những người quốc gia ở miền Nam, ngay từ khi còn ở trong "lều
cỏ" là khu cư xá sinh viên Minh Mạng. Đã từng là y sĩ trưởng của Liên
Đoàn
81 Biệt Cách Dù, "chẳng bao giờ sai hẹn, như chu kỳ hàng năm, cứ vào
đầu
mùa mưa, chúng tôi cùng những đơn vị bạn từ vùng đồng bằng châu thổ, ùn
ùn kéo
lên Cao nguyên (Tây Thục, người viết thêm vô), để tao ngộ với những đại
đơn vị
địch quân - để tranh nhau một vài ngọn đồi trơ trụi hay giành giựt một
khúc lộ
trống... Rồi Mùa Mưa cũng phải qua đi, không hẹn mà định, chiến cuộc
điên cuồng
lại tạm ngưng nghỉ khi thời tiết bắt đầu mùa khô ráo... chúng tôi trở
về đồng
bằng -với những chiếc xe trống trải hơn, cùng những người lính mỏi mệt
xác xơ
hơn nhưng may mắn còn được sống sót." (Mặt Trận ở Sài-gòn). Hai cái
sống
sót thật khác xa nhau. Nhưng cuộc gặp gỡ qua điện thoại giữa hai đứa
chúng tôi
gần như bắt thời gian quay ngược lại, cùng với lần gặp gỡ tại cư xá
Minh Mạng.
Anh có giấc mộng năm 2000. Còn tôi, hầu như chẳng có gì. Nếu có chăng,
vẫn là
lời nhắn nhủ của anh ngày nào: Bạn chưa già đâu...
Hy
vọng được như vậy.
(1) Từ "khảo cổ học" (archeology) ở đây, được sử
dụng theo nghĩa của Michel Foucault, không họ hàng gì với địa chất học
(geology), hoặc phả hệ học (genealogy), và chỉ là phân tích bản văn/nói
trong
dạng thức thư khố của nó (it's the analysis of discourse in its
modality of
archive). M. Foucault cho biết, ông luôn bị "săn đuổi" bởi một cơn ác
mộng từ hồi còn nhỏ: Dưới mắt ông là một văn bản mà ông không làm sao
đọc được,
hoặc chỉ một phần rất nhỏ của bản văn có thể được "giải mã";
"Tôi làm bộ như đang đọc nó, nhưng tôi biết là tôi đang bịa đặt; rồi
bản
văn bỗng nhiên mờ hẳn đi. Tôi không còn đọc được gì nữa, ngay cả bịa
đặt cũng
không, cổ họng tôi thắt nghẹn, và tôi tỉnh dậy..." (M. Foucault, The
Discourse of History, Foucault Live, nhà xb Columbia University, 1989).
Chúng
ta (những độc giả của Ngô Thế Vinh) cứ "giả dụ" rằng, ông cũng bị một
bản cổ văn (cuộc chiến trong một cuộc chiến) ám ảnh, và chỉ một phần
rất nhỏ
của nó được giải mã (Vòng Đai Xanh, Mặt Trận ở Sài-gòn...), và ông cũng
làm bộ
đọc nó, mà sự thực là đang bịa đặt...
NQT
|