Trước
1975, tôi là một cán sự kỹ thuật Bưu Điện, ra trường khóa đầu tiên,
[hình như là năm 1960], làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến
Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn, chuyên
lo việc sửa chữa máy móc vô tuyến điện từ các đài địa phương gửi về.
Lâu lâu, được phái đi các đài để sửa máy tại chỗ, do không thể chuyển
về Sài Gòn. Sau hai năm, do biết tiếng Anh tiếng Pháp, tôi được chuyển
qua bên quốc tế, làm việc cũng kế bên Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến
Điện, building số 7 Phan Đình Phùng. Đài Phát Thanh Sài Gòn, tòa nhà số
5. Tôi đã có lần kể về những ngày Mậu Thân, đám biệt động thành chiếm
Đài Phát Thanh Sài Gòn, lính Dù được trực thăng đưa tới, từ trên đánh
xuống, chung quanh Đài, xe tăng, thiết giáp vây chặt. Đài Vô Tuyến Điện
Thoại Quốc Tế, nơi tôi làm việc cũng lọt vào trong vòng đai. Thời gian
đó, tôi có làm part time cho một cơ quan thống tấn quốc tế. Thế là tử
thủ luôn tại Đài, chuyển hình chiến tranh đi khắp thế giới, cho tới khi
trận đánh kết thúc. Khi tiếng súng im hẳn, buổi sáng hôm đó, tôi lò mò
hạ sơn [Đài VTĐ ở lầu trên cùng building năm tầng này], xuống tiệm phở
44 Phan Đình Phùng ở phiá bên kia đường, làm một tô điểm tâm, hình ảnh
còn đọng lại mãi cho đến bây giờ, là một chiếc rép râu, trên mặt đường
phía bên ngoài tiệm phở. Chủ nhân của nó, là một xác người nằm trong
nhà để xe, nơi lính Dù kéo vô chất thành đống chờ dọn dẹp, chuyển đi
nơi khác, trả nhà để xe lại cho những chiếc xe đạp, xe gắn máy, của
nhân viên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Nói là nhà để xe, nhưng thực sự chỉ
là một khúc lề đường được lợp tôn, chăng kẽm gai, theo kiểu dã chiến.
Vào những
năm sau cùng của miền nam cộng hòa, tôi xin chuyển về làm ngay tại Bưu
Điện chính Sài Gòn, phía bên cạnh Vương Cung Thánh Đường. Chuyên lo về
kiểm tra tần số vô tuyến điện , và liên lạc với Cơ
Quan Viễn Thông Quốc Tế, trụ sở chính tại Genève.
Dài dòng
như vậy, để xin thưa một điều, là những phòng ốc, hành lang bên trong
Bưu Điện, tôi rất rành rẽ. Văn phòng Tổng Giám Đốc Bưu Điện nằm ở lầu
hai, kế ngay bên chiếc đồng hồ lớn. Thời gian ngay sau khi ông Diệm đổ,
ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện cũ đi theo, ông Điều, thầy dậy Bưu Điện của
tôi, lên làm tổng giám đốc, học trò cũ của ông là lũ chúng tôi vẫn
thường lên gặp thầy tại đây. Đứa mè nheo xin nhà, đứa xin đi nước ngoài
tu nghiệp. Từ đó, theo hành lang có thể đi ra phía sau, và đi ra cổng
sau Bưu Điện, nằm trên đường Hai Bà Trưng. Đây là con đường ra vô hàng
ngày của nhân viên Bưu Điện.
Sau 1975,
tôi đã có lần phải “thoát ra” ra phía cổng sau, bằng con đường này.
Nói rõ
hơn, trước 1975, văn phòng của tôi, là ở bên trong Bưu Điện. Sau 1975,
văn phòng của tôi, là vỉa hè phía đằng trước Bưu Điện. Cái duyên nợ của
tôi với Bưu Điện quả là tuyệt vời. Không có thời gian làm Đài Vô Tuyến
Điện Quốc Tế, và nhân đó làm thêm cho hãng tin UPI, tôi không có cơ hội
làm quen Châu Văn Nam, một nhiếp ảnh viên của hãng này. Sau 1975, nếu
không làm chuyên viên vỉa hè Bưu Điện, tôi không làm sao có cơ hội gặp
lại anh, và từ đó, mới có chuyến vượt biên bằng đường bộ, qua Lào, băng
qua sông Mekong, tới Thái Lan, vô nhà tù quốc tế Bangkok, vô trại tị
nạn, và sau đó, tái định cư Canada, miền “đất lạnh tình nồng”, “miền
đất hứa”, miền đất thiên đàng”… như một ông nhà văn Việt Nam cũng tái
định cư tại đây đã từng ca ngợi, với một chuỗi tác phẩm có tên như trên.
Trở lại
với những năm tháng sống bên vỉa hè phía bên ngoài toà nhà Bưu Điện Sài
Gòn. Đây đúng là nhà của cả nhà chúng tôi. Cả hai vợ chồng đều ra đây
kiếm sống, nuôi bốn đứa nhỏ; hai đứa lớn, những lúc không tới lớp,
thường ra đây phụ bố mẹ, nhất là trong những dịp lễ hội, Giáng Sinh,
Tết… Có khi còn đem công việc về nhà làm, thí dụ như những ngày hội,
cần hoa giấy, confetti, thế là cả nhà xúm nhau làm, có khi thức suốt
đêm. Hay những ngày hè nắng gắt, đứa cháu lớn mở ngay bàn bán nước giải
khát kế bên bà mẹ đang cặm cụi viết một bức thư cho khách hàng.
Người
khám phá ra vỉa hè Bưu Điện, là bà xã, tức nhà văn Thảo Trần, tác giả
một vài truyện ngắn đã từng được bà chủ báo Sài Gòn Nhỏ thương tình cho
đăng. Đó là thời gian sau khi tôi đi cải tạo về, không biết làm gì, bà
xã một bữa đi đâu về, hớn hở nói, kiếm ra việc làm rồi. Tôi hỏi việc
gì. Bà nói, viết điện tín, viết đơn mướn. Nhất là viết điện tín. Tôi
trợn ngược con mắt, đã lé lại càng thêm lé, và hỏi
lại:
-Viết
điện tín? Làm sao cái có cái nghề gì kỳ cục vậy?
Hóa
ra là có cái nghề viết điện tín thiệt, ở ngay vỉa hè Bưu Điện.
Thời gian
này, đã có nhiều người vượt biển. Con số những người chết trên biển cả
chắc là nhiều, nhưng người may mắn tới trại tị nạn, tái định cư đệ tam
quốc gia cũng tăng lên. Thư từ, điện tín, rồi thùng quà theo nhau mà
về. Gia đình thân nhân nhận xong thùng quà vội vàng chạy ra Bưu Điện,
nhờ một ông viết mướn đánh giùm cho một cái điện tín, đã nhận đồ. Với
ông viết mướn, ba chữ “đã nhận đồ” đó biến thành một chữ, tính tiền
cũng chỉ một chữ, đó là “danhando”.
Bởi vì
tiếng Việt đơn vận, nên Bưu Điện cho ghép như vậy. Tôi không nhớ, con
số tối đa những mẫu tự được ghép. Nhưng quả là thật tuyệt vời, cái nghề
tuyệt vời, nghề ghép chữ, những năm tháng đói khổ như thế đó, nhưng bây
giờ nhớ lại, thật là tuyệt vời.
Quả là
tuyệt vời, theo cả nghĩa tiếu lâm, tức cười của nó. Do không có dấu,
cho dù nếu viết riêng ra, vẫn có thể hiểu theo nhiều cách. Đã có lần,
trong phòng tranh của một họa sĩ, đám chúng tôi, khi đó còn là học sinh
trung học, đã làm mấy cô gái đỏ mặt trước một bức tranh, vẽ ba người
đàn ông, với lời chú không bỏ dấu, và nếu bỏ dấu, thì một trong những
nghĩa của nó là như vầy: “Ba Người Nhóm Cãi Lộn”. Bởi vậy, có lần, tôi
bị khách hàng mang bức điện đã gửi đi, được bà con của khách hàng ở
nước ngoài gửi trả về, với lời chú: Đọc không hiểu gì cả.
Chính
vì làm cái nghề ghép chữ đó, mà đám chúng tôi bị nhân viên bảo vệ Bưu
Điện làm khó dễ. Có lần tôi bị bắt, dẫn vô chính văn phòng ông giám đốc
Bưu Điện thuở nào, bắt ngồi đó, chờ mấy ông công an đến làm việc. Tôi
đã men theo hành lang, chuồn ra cổng sau, ra trở lại phiá trước, và
tiếp tục hành nghề. Đám bảo vệ không làm sao hiểu nổi, tại làm sao mà
cái thằng mắt lé đó lại ra thoát được!
Tổng cộng
tôi bị bắt hình như ba lần