|
Vladimir’s
Tale
Thời
Không Mặt
The human face disappeared
and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos,
'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks
gloried in
facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ
xưa, kẻ nô
lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy.
Người CS
hãnh diện trong "không mặt".]
Chí
Phèo vs Julien Sorel
[Đỏ
và Đen] vs Tâm [Bếp Lửa]
Trong số báo văn học Pháp,
Le Magazine Littéraire, Avril 2005, dành cho Stendhal, Yves Ansel,
trong bài
Người ‘đẻ ra’ tiểu thuyết hiện thực [Le fondateur du roman réaliste]
viết: Với Đỏ và Đen, Stendhal thực sự phát minh ra tiểu thuyết
hiện
thực: một câu chuyện mà không một hành động, không một tư tưởng
nào mà
không bị quyết định bởi trò chơi xã hội: Julien Sorel phải, bằng mọi
cách, kiếm
được miếng ăn, ‘gagner son pain’.
Nhìn như thế, thì Nam Cao, với Chí Phèo quả là người thực sự
phát minh
ra tiểu thuyết hiện thực của Mít chúng ta.
Đọc Đỏ và Đen, đọc song song với nghiên cứu Mác xít về
‘fétichisme de la
marchandise’, về "vật hóa", la réification, rồi đọc Lukacs, Lý
thuyết tiểu thuyết, thì chúng ta mới nhận ra vị trí của Chí
Phèo của
Nam Cao.
Những dòng sau đây, về Sorel, mà chẳng đúng với Chí Phèo sao:
... nhân vật đầu tiên ' nghiêm túc', được trả luơng, nhân vật thứ nhất
nhìn ra,
giá trị của mình tùy thuộc 'rất căng', vào giá cả trên thị trường;
không một tư
tưởng, không một chiến thuật, không một hành động nào mà thoát ra khỏi
nhu cần
tối cần thiết, là kiếm được miếng ăn [với Chí Phèo, bắt buộc phải có
cút rượu
kèm theo!]
… le premier héros « sérieux» salarié, le premier héros qui voit sa
valeur
dépendre étroitement de son prix sur le marché du travail est Julien
Sorel,
dont pas une des pensées, pas une des stratégies, pas une des actions
n'est
totalement étrangère à la nécessité de « gagner son pain ». Tels sont
quelques-uns des « petits faits vrais» qui ont fait du Rouge une «
chronique»
qui a sa place dans l'histoire du roman réaliste européen.
Cái từ ‘chronique’, trên, làm nhớ tới định nghĩa của Lukacs, về tiểu
thuyết, áp
dụng thật đúng y chang vào Chí Phèo, và sau này, vào nhân vật
chính
trong Bếp Lửa:
Để có tiểu thuyết, là phải có sự đối nghịch căn bản giữa con người và
thế giới,
giữa cá nhân và xã hội.
Il faut, pour qu’il y ait roman, une opposition radicale entre l’homme
et le
monde, entre l’individu et la société.
Tiểu thuyết là một hình thức tiểu sử tối hảo, une forme biographique
par
excellence, và cùng lúc, một ký sự xã hội, trong chiều hướng mà
cuộc tìm
kiếm xẩy ra ở trong lòng xã hội đó [une chronique sociale dans la
mesure où
cette recherche se déroule à l’intérieur d’une société donnée]
Cái xã hội Miền Bắc của Chí Phèo, mà anh ta, khi muốn tìm lại mình, thì
đành
chết, và của nhân vật, Tâm, trong Bếp Lửa, đành bỏ đi, là
y chang!
Ngoài thơ ra, tôi trải qua
hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn đầu, Bếp
Lửa,
1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn
lựa miễn
cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn
cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong
khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân
vật
trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ
diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối
Bếp
Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa vô thường và chút hơi ấm của nỗi
chết
Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra.
TTT
Tiểu thuyết, một thế giới
về chiều [le monde dégradé], nhân vật chính mang trong người căn bệnh
siêu hình
[ le mal ontologique] - nhân vật chính trong Bếp Lửa cũng mang
một con
sâu ở giữa tim, giữa hồn, giữa não - một căn bệnh vô phương cứu chữa:
và chỉ
thoát ra bằng sự thất bại. Thất bại ở đây có nghĩa, như là sự chia lìa
không
sao hàn gắn, giữa nhân vật chính và thế giới bên ngoài, sự thụ động ù
lì của
gã, chỉ vì ý thức của gã quá rộng, trong khi thế giới quá bảo thủ, uớc
lệ,
không sao thỏa mãn nổi. Đấy là nội dung của tiểu thuyết. Về hình thức:
Tiểu
thuyết bắt buộc vừa là một truyện ký [biographie] - tiểu sử, cuộc sống
của anh
chàng tên là Tâm ở trong Bếp Lửa, vừa là một ký sự xã hội
[chronique
sociale] - xã hội Miền Bắc, thành phố Hà Nội đúng hơn, trong cơn xao
động của
lịch sử.
Và sau cùng, biểu lộ tình
cảm, "Anh yêu quê hương vô cùng, yêu em vô cùng", kết thúc
Bếp Lửa, là một điểm vượt [le dépassement], khi đó, tác giả -
tiểu
thuyết gia - rời khỏi thế giới về chiều, thế giới mộng ảo của tiểu
thuyết, và
trở lại đời sống thực [Lưu Nguyễn về trần]. Đó là lúc ý thức tiểu
thuyết gia,
vượt ý thức nhân vật, để tìm lại cái chính, cái thực [l'authenticité],
Lucien
Goldmann, diễn ý Lukacs, gọi đó là sự chuyển hoá [la conversion], từ
thế giới
tiểu thuyết qua thế giới thực, là đời sống mất đi tìm thấy lại.
Bếp Lửa trong văn
chương
Bếp Lửa trong văn chương
[Bản scan bài viết 1973]
Bếp lửa trong VC
[Ui choa, khi viết bài này, mới
huyễn hoặc làm sao!
Y chang cả Miền Nam, những ngày 30 Tháng Tư 1975: Vui sao nước mắt lại
trào!]
Sự thực của nhà văn không
phải sự thực của nhà phê bình. Sự thực đời sống [sự thực của những
người đã
chết truyền lưu cho kẻ sống sót. Bếp Lửa, Tựa, lần xuất bản
thứ hai,
1965] lại càng không phải sự thực văn chương. Valéry gọi, đây là ảo
tưởng
hiện thực, lòng tin ngây thơ, văn chương có thể ghi lại thực tại.
Nhà văn
là một kẻ "sống sót", thời gian dùng vào việc viết là một thời gian
xác định, nhưng tác phẩm chỉ sống sót khi vẫn còn là một tác phẩm văn
chương -
vẫn còn tham dự vào dòng thời gian vô định của trí nhớ, của hồi tưởng
và của sự
đọc.
Bếp Lửa trong văn chương. Văn, số đặc biệt về TTT
[1973].
Những dòng trên, bây giờ
nhìn lại, nhận ra, chúng được viết dưới ánh sáng của tiểu thuyết mới,
của
Barthes, chứng tỏ Gấu hoàn toàn hồi phục, sau cú đánh của Lukacs, của
dòng văn
chương dấn thân, của dòng văn chương ý thức hệ.
Bây giờ thì tha hồ mà viết, chẳng cần tại sao viết, viết cho ai, viết
để làm
gì.
Chỉ là, viết thế nào?
Cái
sự gen đột biến, biến
thành ruồi, tay tổ sư Mác Xít Lukasc đã tiên đoán ra được, và gọi là
"vật
hóa", la réification, nhưng ông đổ tội cho tư bản chủ nghĩa, có khuynh
hướng biến con người thành đồ vật, và chỉ có ý thức giai cấp vô sản mới
đảm bảo
cho con người thoát khỏi sự trù ẻo này.
Bài giới thiệu Lukacs, cũng thường thôi, phần lớn đều là những chuyện
được
nhiều người biết, tuy nhiên, sự kiện, nhà xã hội học Joseph Gabel,
trong tác
phẩm Ngụy Ý Thức, tìm ra mắc mớ giữa lý thuyết “ruồi hóa” của
Lukacs, và
chứng bịnh thần kinh phân liệt, thì quả là quá thú vị!
TTT 2012
21. Sinh nhật
húy nhật
Les morts de
Lofoten sont moins morts que moi (a)
Oswald L. de
Milosz
Giữa trưa mệt
té xỉu trên đồi
Quanh mình vẳng
tiếng cuốc liên hồi
Đào huyệt
chôn ư? Ơi chúng bạn
Cứ để yên
xác tù nằm phơi
Nhìn
xem
gương mặt hắn thanh thản
Lộng nắng bừng
say chợp ngủ vùi
Người mang cầm
hãm đặng bêu riếu
Hắn “cũng
đành xấp ngửa theo đời
Cho hết cuộc
ham mê rồ dại” [1]
Hắn tự chôn
huyệt gió đáy trời.
(a)
Tous les morts sont ivres
de pluie vieille et froide
Au cimetière étrange de Lofoten
L'horloge du dégel tictaque lointaine
Au coeur des cercueils pauvres de Lofoten
Et grâce aux trous creusés par le noir printemps
Les corbeaux sont gras de froide chair humaine
Et grâce au maigre vent à la voix d'enfant
Le sommeil est doux au morts de Lofoten
Je ne verrai très
probablement jamais
Ni la mer ni les tombes de Lofoten
Et pourtant c'est en moi comme si j'aimais
Ce lointain coin de terre et toute sa peine
Vous disparus, vous suicidés, vous lointaines
Au cimetière étranger de Lofotene
- Le nom sonne à mon oreille étrange et doux.
Vraiment, dites-moi, dormez vous, dormez-vous ?
- Tu pourrais me conter des choses plus drôles
Beau claret dont ma coupe d'argent est pleine.
Des histoires plus charmantes et moins folles ;
Laisse-moi tranquille avec ton Lofoten.
Il fait bon. Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.
Oscar Vladislas de Lubicz Milosz
Éditions André Silvaire
Có thể, TTT đọc
bài thơ này, cùng lúc với thơ Nguyễn Bắc Sơn, cùng lúc, viết thư cho
đảo xa
& về lại Sài Gòn từ Đà Lạt…. và, nhận ra cái ý tưởng bàng bạc
giữa thơ
của Oscar Milosz, và của NBS:
Tous les morts sont ivres
&
Nếu ta lỡ
chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến
thành mây bay.
Đúng ý
Alain, như
Steiner trích dẫn làm đề tử trong cuốn mới ra lò của ông, Thơ của Tư
tưởng:
Toute pensée
commence par
un poème.
(Every thought begins with a poem.)
Mọi tư tưởng bắt đầu bằng
1 bài thơ
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953
Tất cả những
người chết thì đều say
Tất cả những
người đã chết thì đều say mưa,
[một thứ mưa]
xưa, và lạnh
Ở nghĩa
trang là lạ là Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn
Đồng hồ băng tan tích tắc ở xa xa
Ở trái tim của
những chiếc hòm nghèo nàn của Sài Gòn
Và nhờ những
lỗ thủng được khoét bởi mùa xuân đen
[VC gọi là Đại
Thắng Mùa Xuân, Đỉnh Cáo -
hay Cao thì cũng được - Chói Lọi]
Những con quạ
mập phì vì thịt người lạnh
Và nhờ ngọn
gió gầy có tiếng nói của con nít
Giấc ngủ mới
mềm dịu biết bao với những người chết ở Sài Gòn
[Cái gì gì
giống như “Ngã ở trên núi khi vác củi”:
Hồn dưng dưng
chẳng chút oán sầu?]
Có lẽ Gấu sẽ chẳng
bao giờ nhìn thấy [lại]
Biển Vũng Tầu,
Không,
Những nấm
mồ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Cũng không.
Nhưng, rõ ràng
là, ở trong thằng cu Gấu
[Thằng cu Nghệ, TTT, đúng hơn],
Mới yêu thương làm sao,
Cái nơi chốn
xa xăm và tất cả nỗi khổ đau của nó.
Lũ Chúng Ta
[chữ của VHC]
Mất tích, tự tử, lạc loài
Ở nơi nghĩa địa
là lạ là Mạc Đĩnh Chi
-Ui chao, chỉ
nội cái tên thôi mà đã dội ở nơi tai Gấu
Một cái gì là lạ và dịu dàng.
Thực sao, hãy
nói cho Gấu biết, bạn ngủ ư, bạn ngủ ư?
Toa có thể kể cho moa
nghe những chuyện tức cười hơn
Rượu vang thì
đẹp và cái ly sành của moa
thì đầy
Những chuyện
thú vị, và ít khùng điên ba trợn
Hãy mặc moa với Sài Gòn của toa
[Toa ở đây là ông bạn miệt vườn, bạn
quí
của thằng Bắc Kít di cư là GCC]
Trời thì đẹp.
Trong bếp lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Của những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những
người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người
chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết
bằng Gấu chết.
13.7.2010
Dear GNV,
Tôi phải đặt
từ "blackguard" vào ngoặc kép, dùng lại, trích dẫn nó. It's not my word.
HÂ.
K. mở ra
‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là
Xịa. ST có
là nhờ nó. ??? (1)
Trong bài phỏng
vấn của Thụy Khuê, Mai Thảo đã cho biết khi báo của ông nổi lên rồi thì
người của
quân đội đến đặt báo một số lượng lớn, đâu có nói họ đưa cho ông một số
tiền để
lập nên tờ báo?
Hay GNV có một
tin bật mí nào khác?
Khi nghe đồn
là Sáng Tạo làm việc cho Xịa ông không viết chống Cộng nữa, thà làm
người hùng
của phòng trà. Và "Thi sĩ của chúng ta" thì không giống K., loay hoay
mãi để làm sao "viết mà như không có gì xảy ra".
Vậy, khi nói
"ST có là nhờ nó" , tức Xịa, trên TV đang được rất nhiều người đọc, Gấu
"giết" hai người ấy thêm một lần nữa rồi.
Xịa cũng đã
không tạo ra cái công thức K [Koestler]
K= 1/3
genius + 1/3 “blackguard” + 1/3 lunatic
Càng chẳng
thể dựng nên được G:
G= 1/3
"confiance” + 1/3 "respect” + 1/3 "je ne sais quoi" (2)
H.A
Phúc đáp:
Như trong bài
phỏng vấn cho biết, thì đúng là MT lấy tiền của Mẽo, dù chỉ là 1 hợp
đồng bán
báo.
Tờ HL lấy tiền
của VC, cũng theo kiểu này, qua 1 danh sách độc giả dài hạn, của đám
Miền Nam bỏ
chạy bợ đít VC.
Lấy tiền cả
của Mẽo nữa. GCC biết qua 1 bạn văn, nhưng mới đây, (8.2011), gặp 1 tay
trong
ban chủ trương HL [LB], cho biết, không có chuyện đó.
TTT đâu có
biết là MT lấy tiền của Mẽo. Khi biết, ông rãn ra, thành thử báo chết
cũng do đó
1 phần.
TTT muốn thật
sạch.
Khác hẳn
Milosz.
Ông Nobel này
chủ trương phải có tí bẩn mới được! (3)
TK:
Sáng Tạo thành lập bằng
tiền của ai?
MT: Bằng cái hợp đồng tôi
ký với một thằng Mỹ ở Virginia, không biết bây giờ sống chết thế nào.
Đó là cái
hợp đồng bán báo, không có điều gì cần giấu diếm hết, đại khái nếu mình
in 5000
tờ, thì nó mua đứt cho mình 2000, vừa đủ tiền in, tiền giấy, không có
cái nghiã
gì khác hết, và cũng không có điều kiện gì khác hết.
Tks & Regards,
NQT
(2)
(Thứ tình
yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có, hay thứ tình yêu gồm
một phần
ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais
quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy... Không, trăm lần không,
ngàn lần không, đừng bao giờ nói như vậy, đừng bao giờ nói anh không
xứng đáng,
cũng đừng bao giờ nói anh làm cho tuổi thơ của Hương bị xáo trộn, những
ngày đầu
tiên quen anh là những ngày sung sướng đối với Hương, anh là người đầu
tiên đã
trò chuyện với Hương, đã làm cho Hương nghĩ tới một điều gì từa tựa như
là
tương lai, hạnh phúc, một điều gì từa tựa như tình yêu...)
Ui chao, làm
sao mà cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài VTD thoại/Quốc Tế, đọc
đoạn
trên -
trong lá thư, độc nhất, của BHD, đi bộ từ Ngã Sáu Gia Long
& Võ Tánh,
tới Đài VTD, số 11 Phan Đình Phùng, gần Đài Phát Thanh Sài Gòn, tới,
bấm thang,
tính lên lầu, đưa tận tay cho GCC, thì gặp ông cảnh sách về hưu, chìm,
canh gác
cho Đài, và đưa cho ông, và nói, đưa giùm, và trở ra, đi về, hay đi
học… - và có
thể phán, "cái cô gái này không thương cậu đâu"?
The wiles of
art
Mưu ma chước
quỉ của nghệ thuật
Guilt
and greatness in the life of Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz
Tôi là kẻ may mắn sống
sót,
nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?
Đây là vấn nạn của “Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby,
trong 1 bài viết trên Người Nữu Ước,
Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra
trình chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù
VC kể như
không có!
Đâu có phải tự nhiên mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả
VC cũng
quí, có thể còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu,
Lò Cải
Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa.
[But the notion that the Holocaust might happen again is exactly what
"Shoah" is not about.]
Hà, hà!
(1)
K.
mở ra ‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa,
là Xịa.
ST có là nhờ nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng hạ!]
Bộ
sách vĩ đại Văn Học Miền Nam
của VP chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi địa
khác!
Rockefeller Foundation, thí dụ. Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is: one third genius, one third blackguard,
and one
third lunatic”, [Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê tiện, và 1/3
khủng, mát]
tay cảnh sát chìm giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù
Pentonville, báo cáo với sếp.
Cái lũ cà chớn
Hậu Vệ và đệ tử của Thầy Cuốc chửi Gấu là mạ lỵ ông tiên chỉ. Làm gì có
chuyện đó:
ông tiên chỉ mạ lỵ ông tiên chỉ là đủ rồi. Thử hỏi, một khi ông VP lấy
tiền của
Mẽo để viết về văn học Miền Nam, liệu ông có dám
chửi thằng chủ chi địa không?
Trong VHTQ có dòng nào nói xấu anh Mẽo, người
bạn quí của dân Mít?
Đồng ý là Mẽo thực sự không hề có ý ăn cướp, dầy xéo nước
Mít, nhưng chúng đến chẳng có ý tốt, mà bỏ chạy lại càng không có ý
tốt!
[Gặp đã
khó, xa lại càng khó, cái này để gửi đảo xa, hà hà].
Nhưng khốn nạn
nhất là những dòng VP viết về đám Sáng Tạo, y chang những dòng MT nhớ
về người
bạn quí, mà ông đã từng lầm với 1 tên thợ sắp chữ, và tay này còn dám
ngửa tay
xin ông 1
điếu thuốc lá!
Cũng vẫn chất
Bắc Kít khốn kiếp mà ra!
Đọc những dòng MT viết về Trung Kít, trong phỏng vấn do TK thực hiện,
rồi đọc
TQVH của VP là nhìn ra ngay lòng hận thù giữa Kít với Kít.
Cái khốn nạn của dân
Mít là còn do chữ S mà ra.
Nếu có 1 chữ “K” cảm tính
của Kafka, (1) thì cũng có 1
chữ S hận thù của giống Mít.
Viết kể với em, lúc này
anh nhớ đến một
câu thơ của Milozs : Je suis plus mort que les morts de Lofoten. Nhảm.
Mai Thảo
nó bảo: ca, c'est de la littérature, sống không như vậy. Điều đó chính
anh vẫn
nói. Anh cũng chẳng hiểu tại sao lại mang kể cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt
để nói
hình như anh cũng đang bám víu vào em. Một kẻ chết đuối bám vào một kẻ
chết đuối.
Nguy hiểm. Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi viết cho em - có thể
sau thư
này - anh bất định quá.
Thư gửi Đảo
Xa
Note:
Milosz, không phải Milozs.
Và cũng không phải Czeslaw mà là Oscar Milosz, cũng
họ hàng với nhau. Czeslaw Milosz tin rằng, phải có tí bẩn mới là thi sĩ
của thế kỷ 20
được, nhưng ông lại thèm được như Brodsky, như ông viết trong entry
“hatred”,
trong Milosz’s ABC’s: Đời
tôi thì là một trong trong những cuộc đời kinh ngạc
nhất mà tôi đã trải qua, one of the most astonishing I have ever
across. Đúng là
nó thiếu sự trong sáng của một câu chuyện đạo hạnh như là của Brodsky.
Ông ta đang
đào “kít” [“như toàn thể dân Nga”, chữ của Brodsky] ở một nông trường
cải tạo,
và vài năm sau “đợp” [collect] mọi vinh quang, kể cả Nobel văn
chương.
TTT, một cách
nào đó, thì cũng giống Brodsky, ông bị lịch sử lọc ra, và đành đóng vai
‘kẻ sĩ
Ngụy’, dù chẳng muốn, như trong thư gửi đảo xa cho thấy:
Thường anh
chẳng hề chú trọng coi xem người ta nghĩ gì về mình, phê bình gì về
mình, bởi mỗi
lần ngó thấy anh đều thấy như mình bị đóng đinh. Anh đã là như thế
nhưng anh
còn có thể khác chứ. Sao cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng bao
giờ xúc
động lâu về những điều đàm tiếu, thị phi hết.
Nhân nhắc tới
Oscar Milosz, "đi" lại một bài viết về ông, của Kundera, trong Gặp Gỡ
L'INTOUCHABLE
SOLITUDE D'UN ÉTRANGER (Oscar Milosz)
1
La première
fois que j'ai vu le nom d'Oscar Milosz, c'est au-dessus du titre de sa Symphonie de Novembre
traduite en tchèque et publiée quelques mois après la
guerre dans une revue d'avant-garde dont j'ai été, à dix-sept ans, un
lecteur
assidu. À quel point cette poésie m'avait envoûté, je l'ai constaté
quelque
trente ans plus tard, en France, où pour la première fois j'ai pu
ouvrir le
livre de poésie de Milosz dans l'original français. J'ai vite trouvé la
Symphonie de Novembre,
et en la lisant j'ai entendu dans ma mémoire toute la
traduction tchèque (superbe) de ce poème dont je n'ai pas perdu un seul
mot.
Dans cette version tchèque, le poème de Milosz avait laissé en moi une
trace
plus profonde, peut-être, que la poésie que j'avais dévorée à la même
époque,
celle d'Apollinaire ou de Rimbaud ou de Nezval ou de Desnos.
Indubitablement,
ces poètes m'avaient émerveillé non seulement par la beauté de leurs
vers mais
aussi par le mythe entourant leurs noms sacrés, qui me servaient de
mots de
passe pour me faire reconnaître par les miens, les modernes, les
initiés. Mais
il n'y avait aucun mythe autour de Milosz: son nom totalement inconnu
ne me
disait rien et ne disait rien à personne autour de moi. Dans son cas,
j'ai été
envoûté non pas par un mythe, mais par une beauté agissant d'elle-même,
seule,
nue, sans aucun soutien extérieur. Soyons sinncères : cela arrive
rarement.
2
Mais
pourquoi justement ce poème? L'essentiel, je pense, résidait dans la
découverte
de quelque chose que jamais nulle part ailleurs je n'ai rencontré: la
découverte de l'archétype d'une forme de la nostalgie qui s'exprime,
grammaticalement, non pas par le passé mais par le futur. Le futur
grammatical
de la nostalgie. La forme grammaticale qui projette un passé éploré
dans un
loinntain avenir; qui transforme l'évocation mélancolique de ce qui
n'est plus
en la tristesse déchirante d'une promesse irréalisable.
Tu seras
vêtu de violet pâle, beau chagrin!
Et les
fleurs de ton chapeau seront tristes et petites
3
Je me
rappelle une représentation de Racine à la Comédie-Française. Pour
rendre les
répliques naturelles, les acteurs les prononçaient comme si c'était de
la
prose; ils effaçaient systématiquement la pause à la fin des vers;
impossible
de reconnaître le rythme de l'alexandrin ni d'entendre les rimes.
Peut-être
pensaient-ils agir en harmonie avec l'esprit de la poésie moderne qui a
abandonné depuis longtemps et le mètre et la rime. Mais le vers libre,
au moment
de sa naissance, ne voulait pas prosaiser la poésie! Il voulait la
débarrasser
des cuirasses métriques pour découvrir une autre musicalité, plus
naturelle,
plus riche. Je garderai à jamais dans mes oreilles la voix chantante
des grands
poètes surréalistes (tchèques aussi bien que français) récitant leurs
vers! De
même qu'un alexandrin, un vers libre était lui aussi une unité musicale
ininterrompue, terminée par une pause. Cette pause, il faut la faire
entendre,
dans un alexandrin aussi bien que dans un vers libre, même si cela peut
contredire la logique grammaticale de la phrase. C'est précisément dans
cette
pause cassant la syntaxe que consiste le raffinement mélodique (la
provocation
mélodique) de l'enjambement. La douloureuse mélodie des Symphonies de
Milosz
est fondée sur l'enchaînement des enjambements. Un enjambement chez
Milosz,
c'est un bref silence étonné devant le mot qui arrivera au début de la
ligne
suivante:
Et le
sentier obscur sera là, tout humide
D'un écho de
cascades. Et je te parlerai
De la cité
sur l'eau et du Rabbi de Bacharach
Et des Nuits
de Florence. Il y aura aussi
4
En 1949,
André Gide a établi pour les éditions Gallimard une anthologie de la
poésie
française. Il écrit dans la préface: «X. me reproche de n'avoir rien
donné de
Milosz. [ ... ] Est-ce un oubli? Non pas. C'est que je n'ai trouvé rien
qui me
parût particulièrement valoir d'être cité. Je le répète: mon choix n'a
rien
d'historique et seule la qualité me détermine. » Il y avait, dans
l'arrogance
de Gide, une part de bon sens: Oscar Milosz n'avait rien à faire dans
cette
anthologie; sa poésie n'est pas française; gardant toutes ses racines
polono-lituaniennes, il s'était réfugié dans la langue des Français
comme dans
une chartreuse. Considérons donc le refus de Gide comme une noble façon
de
protéger l'intouchable solitude d'un étranger; d'un Étranger.
Không chạm tới được nỗi cô
đơn của người lạ
1
Lần đầu tiên tôi thấy tên Oscar Milosz là
trên cái tựa Bản Giao Hưởng tháng
Mười Một, được dịch ra tiếng Tiệp, được xuất bản vài tháng sau
chiến tranh trong một tạp chí thời thượng mà ở tuổi mười bảy, tôi là
một độc giả chuyên cần. Bài thơ này đưa tôi lên tận mây xanh, ba mươi
năm sau ở Pháp, tôi đã ghi nhận điều này khi lần đầu tiên tôi mở quyển
thơ của Milosz trong ấn bản nguyên thủy tiếng pháp. Tôi nhanh chóng tìm
thấy bài thờ Bản Giao Hưởng tháng
Mười Một, khi đọc lại tôi còn nhớ như in không sót một chữ bài
dịch tiếng Tiệp tuyệt vời ngày xưa. Trong bản tiếng Tiệp, bài thơ này
đã để dấu ấn sâu đậm trong lòng tôi, có thể, còn hơn cả các bài thơ tôi
đọc hồi đó của Apollinaire, Rimbaud, Nezval hay Desnos. Rõ ràng không
chối cãi, các bài thơ này huyễn hoặc tôi không những vì nó hay mà còn
do huyền thoại tạo ra chung quanh tên tuổi thiêng liêng của họ, làm từ
khóa để qua các văn sĩ của tôi, tôi biết ai là người hiện đại, ai là
người tiên phong. Nhưng chẳng có huyền thoại nào chung quanh cái tên
Milosz, một cái tên lạ hoắc, không làm cho tôi liên tưởng đến ai, và
cũng không nhắc tôi nhớ đến ai chung quanh tôi. Trong trường hợp của
ông, tôi ngẩn ngơ không phải vì một huyền thoại mà vì chính cái đẹp của
nó, một mình, trần trụi, không trụ chống bên ngoài. Chúng ta hãy trung
thực với mình chuyện này : chuyện này rất hiếm khi xảy ra.
2
Nhưng tại sao lại chỉ chính bài thơ này ? Tôi
nghĩ, chính yếu, là nó nằm trong cái mà tôi chưa bao giờ thấy ở đâu hết
: sự khám phá mẫu lý tưởng của một hình thức nhớ nhung mà nó diễn tả,
theo ngữ pháp, một loại nhớ nhung không phải qua quá khứ mà qua vị lai.
Thời vị lai ngữ pháp của nhớ nhung. Hình thức ngữ pháp phóng chiếu một
quá khứ đau buồn lên một tương lai xa xăm ; chuyển tải cái gợi nhớ buồn
bã không còn nữa lên nỗi buồn tan nát của một lời hứa không thể nào
thực hiện được.
Nỗi buồn
xinh xắn ơi, em sẽ khoác chiếc áo màu tìm nhạt,
Và các nụ hoa trên mũ của
em sẽ nho nhỏ và buồn buồn.
3
Tôi còn nhớ buổi trình diễn kịch của Racine ở nhà
Kịch Comédie-Française. Để làm cho lời đối đáp được tự nhiên, các diễn
viên đọc thơ như đọc văn vần; họ xóa một cách có hệ thống phần nghĩ
đàng sau mỗi câu thơ; không thể nào nhận ra nhịp điệu alexandrin, cũng
không nghe lối họa vần. Có thể họ nghĩ làm như vậy sẽ hài hòa với tinh
thần thơ văn hiện đại, loại bỏ từ lâu vừa vần vừa âm luật. Nhưng vần
thơ tự do, từ khi sinh ra đã không muốn làm thơ văn tầm thường ! nó
muốn loại cái vỏ ngoài kích thước để thấy tính âm nhạc, tự nhiên hơn,
phong phú hơn. Tôi lúc nào cũng giữ trong tai tôi giọng nói như hát của
các thi sĩ lớn siêu hiện thực đọc thơ (tiệp cũng như pháp) !
4
Năm 1949, André Gide làm một quyển hợp tuyển
thơ Pháp cho nhà xuất bản Gallimard. Ông viết trong lời mở đầu: «X.
trách tôi đã không dành một chỗ nào cho Milosz. [ ... ] Quên sao?
Không. Là vì tôi không thấy một cái gì đặc biệt để đáng đưa ra. Tôi lặp
lại: lựa chọn của tôi không có tính cách lịch sử gì hết, chỉ có phẩm
chất mới làm tôi quyết định.» Câu nói phách lối của Gide có lý một
phần: Oscar Milosz chẳng dính gì trong hợp tuyển này ; thơ của ông
không phải là thơ tiếng Pháp; vì ông giữ tất cả nguồn cội gốc rễ Ba
Lan-Li-tu-a-ni, ông núp trong ngôn ngữ Pháp như trốn trong tu viện.
Chúng ta hãy xem lời từ chối của Gide như một cách quý phái để gìn giữ
cái cô đơn không chạm tới được của một người lạ ; một Người Xa Lạ.
[LN dịch]
April 26,
2012
Anne
Applebaum.
The Man
Without a Face: The Unlikely Rise of Vladimir Putin
by Masha
Gessen
Riverhead,
314 pp., $27.95
Người Không
Mặt, Cao Bồi, PXA, "Bạn Quí Của GCC", sống lại,
và nhập thân ông Trùm Putin.
Anne
Applebaum đọc Người Không Mặt: Cuộc Lên
Voi Đếch Giống Ai Của Putin, của Masha Gessen.
Tuyệt cú mèo!
TV sẽ lai rai ba sợi, sau.
Có câu này,
In a country
where political role models ran from leather-jacketed commissar to
decrepit
apparatchik, Galina was trying to be an entirely new creature, a
politician who
was also a human.
Làm nhớ Sến:
Nguyên thủ
quốc gia Việt Nam không nên mặc áo nhái Adidas đi cày ruộng. (1)
Và,
đây là cái cảnh “Người Không Mặt”... đi xa.
Những phút cuối cùng của Thiếu tướng Phạm
Xuân Ẩn
SGGP:: Cập nhật ngày
20/09/2006 lúc 23:38'(GMT+7)
Bà ngồi đọc cho ông nghe
những bức thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới gửi về thăm ông khi
nghe tin
ông ốm nặng. Hôm nay bà đọc đến bức thư của người bạn Mỹ, mà thuở ông
còn học ở
trường báo chí ở quận Cam - California, ông đã ở trong nhà và họ coi
ông là
người trong gia đình.
Bà đọc bằng một thứ tiếng
Anh nghe cứng cáp của người đứng tuổi dù xưa kia bà rất giỏi tiếng Anh
và có
khi ông còn giải thích cho bà những từ khó mà bà không hiểu.
Bây giờ dù đã già nhưng
phát âm rất chuẩn, mỗi từ tiếng Anh phát ra chắc chắn. Bà đọc tới đâu
nước mắt
chảy quanh tới đó. Thỉnh thoảng bà dừng lại và ghé sát tai ông hỏi nhỏ:
Anh có
nghe được không? Ông khẽ gật đầu, nước từ trong khóe mắt đục nhờ của
ông lại
chảy ra.
Tất cả y tá, bác sĩ, hộ lý
đều đứng nhìn. Thỉnh thoảng có người lén lau nước mắt. Họ nói với nhau
hãy yên
lặng để bà đọc cho ông nghe...
Lúc ông nhắm mắt lại, những
dây nhợ chằng chịt trên người ông nối với nhiều máy móc phát ra âm
thanh nghe
rột rột. Bà vội đứng dậy đi ra ngoài, nhường chỗ cho các bác sĩ.
Công việc của họ là thông
phổi để ông dễ thở hơn một chút, nhưng rồi ông lại chuyển vào giai đoạn
lúc
tỉnh lúc mê, ông gọi bà thều thào mê sảng: “Em ơi chúng đang tra tấn
anh, chúng
bỏ đá vào miệng anh, mệnh chung của anh sắp đến rồi, em và các con đừng
xa anh
nhé...”.
Bà nắm chặt tay ông. Các
bác sĩ yêu cầu bà đi ra ngoài. Các con của bà đứng nhìn ông qua ô cửa
kính. Họ
đều khóc và cố gắng như muốn chia sẻ đau đớn thể xác cùng ông.
Bà quay sang nói với tôi -
vẫn đứng đây từ nãy giờ bất động: Ông ấy khổ suốt cả một giai đoạn dài
căng
thẳng. Bây giờ đã đau thể xác thế này mà tâm hồn cũng không được thanh
thản.
Bao nhiêu dồn nén chỗ góc khuất đã trải qua trong nguy nan căng thẳng
nay trong
vô thức trào ra. Bà bật khóc, tôi nắm chặt tay bà.
Cái mánh
loại trừ là bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex.
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)
VC rất rành
về cái mánh loại trừ - loại trừ mọi rủi ro, bị phanh phui, bị
bật mí - vậy mà chúng cho cả thế giới thấy những giây phút khốn khổ, đi
không nổi
của Người Không Mặt.
Chán
như Con Rán!
Dã man như VC!
Thời
Không Mặt
The human face disappeared
and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos,
'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks
gloried in
facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ
xưa, kẻ nô
lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy.
Người CS
hãnh diện trong "không mặt".]
Nói cho cùng, đó là thời "không
mặt". Như một hình ảnh khủng khiếp của
Anna
Akhmatova, về Cách Mạng:
As though, in night's
terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear
[Như thể,
trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]
D.M.
Thomas: Alexander
Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.
Gấu tui cứ băn khoăn hoài, tại sao tội ác thì có, mà không có thủ phạm?
Cho tới khi được đọc những dòng trên.
Từ đó, tôi "hiểu" Văn Cao, khi ông nhất định "có mặt".
"Hồi nhận viết Tiến Quân Ca,
tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài
hát, mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt
động vũ
trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một
thành phố,
để giết một người..."
Nhưng cũng có thể hiểu câu nói của ông, qua câu của Walter Benjamin: Ở
nền của
một tác phẩm lớn, là một đống man rợ. Theo nghĩa, ông có thể ôm lấy tất
cả niềm
vinh quang, là tác giả bài hát của cả nước, ["Bài Tiến Quân Ca đã là
của
dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó"], nhưng ông chỉ cho thấy, ở
dưới
nền của nó, là cả một đống man rợ: tôi đã là một con mồi, một con thú,
bị đẩy đến
đường cùng, khi viết nó, trong bài tự thú
Tại Sao TQC
Thời Không
Mặt
The human face disappeared
and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly,
one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ
xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos,
'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong không
mặt.]
Nói cho cùng, đó là thời không mặt. Như một hình ảnh khủng khiếp của
Anna Akhmatova, về Cách Mạng:
As
though, in night's terrible mirror
Man,
raving, denied his image
And
tried to disappear
[Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]
D.M.
Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một
thế kỷ ở
trong ta.
Gấu tui cứ băn khoăn hoài, tại sao tội ác thì có, mà không có thủ phạm?
Cho tới khi được đọc những dòng trên.
Từ đó, tôi "hiểu" Văn Cao, khi ông nhất định "có mặt".
"Hồi nhận viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài
hát, mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt
động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng,
vào một thành phố, để giết một người..."
Mùa
Thu, Những Di Dân
Nhưng cũng có thể hiểu câu nói của ông, qua câu của Walter Benjamin: Ở
nền của một tác phẩm lớn, là một đống man rợ. Theo nghĩa, ông có thể ôm
lấy tất cả niềm vinh quang, là tác giả bài hát của cả nước,["Bài Tiến
Quân Ca đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó"], nhưng
ông
chỉ cho thấy, ở dưới nền của nó, là cả một đống man rợ: tôi đã là một
con mồi, một con thú, bị đẩy đến đường cùng, khi viết nó, trong bài tự
thú
"Tại
sao tôi viết TQC"
Một bữa, vào thời kỳ
đó, giữa thập niên 1950, Olga Ivinskaya nhận cú điện thoại từ người
yêu, Pasternak. Giọng ông nức nở, đứt đoạn, đầy nước mắt.
Bà hoảng quá, hỏi dồn, "Chuyện gì, chuyện gì?"
"Ông ta chết, chết, chết", ông lập đi lập lại.
Ông ta nói về Yuri Zhivago. Đó là đoạn vị bác sĩ bị bịnh tim quật sụm
trên xe điện Moscow, (cũng không xa nơi sau này con trai của Pasternak
bị chết)...
Nghệ thuật, Pasternak viết, luôn luôn là suy tư về cái chết từ đó đẻ ra
đời sống.
Gấu bỗng nhớ đến cái chết của nhân vật Kiệt trong Một Chủ Nhật Khác,
của Thanh Tâm Tuyền.
Anh chàng này, may mắn được du học, nhưng ngu si, bỏ về, và chết lãng
nhách tại Đà Lạt...
Chương Zhivago bị quất sụm coi như chấm dứt "thời kỳ đó".
Như cái chết
của Kiệt.
Không ai có thể ngờ, đời sống lại được bắt đầu từ những trại tù.
Từ biển cả.
|
|