Giả
Kỳ trước Jennifer giới thiệu nhà văn
Nga, Andrei Makine,
viết văn bằng tiếng Tây, được hai giải thuởng văn chương lớn của Pháp,
Goncourt
và Médicis, trong cùng một năm (1995), cùng
một tác phẩm, Di chúc Pháp (Le Testament
francais); chưa kể giải
Goncourt của giới học sinh trung học. Khi chưa nổi tiếng, ông đã phải
bịa ra
những “nguyên bản ma”, tức là coi những tác phẩm của ông, là những bản
dịch, từ
tiếng mẹ đẻ, bởi vì chỉ như vậy, nó mới gây được sự chú ý ở giới xuất
bản và
độc giả Pháp: Họ muốn tin rằng, đây là một “Kẻ Xa Lạ” (tên một tác phẩm
của
Camus), viết văn bằng tiếng Pháp, về nước Pháp! Và nước Pháp “của chúng
ta” sẽ
còn tuyệt vời tới mức nào, ở trong nguyên bản bằng… tiếng Nga!
Nhưng trái với quan niệm thông thường,
theo đó, dịch là
phản, nhà văn người Argentina,
Jorge Luis Borges, cho rằng: nguyên tác không trung thực bằng bản dịch
(the
original is unfaithful to the translation).
Chứng cớ cũng nhiều: Truyện Kiều của
Nguyễn Du chẳng hạn,
“bản dịch” ăn đứt nguyên bản, của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyên bản bám
chặt vào
“hiện thực” của một thời đại Gia Tĩnh nhà Minh. Phó bản vượt ra khỏi
những câu
thúc mang tính lịch sử, thời đại, và nhập vào một cõi người, như là một
nơi
chốn tương tranh, mà sau cùng cái đẹp sẽ cứu chuộc nó (thế giới). Cũng
vậy,
những tác phẩm của Garcia Marquez đã vượt hẳn nguyên bản, của Faulkner.
Nói một
cách khác, Garcia Marquez làm sống lại Faulkner, nhưng không phải một
Faulkner
của cuộc nội chiến Nam Bắc nước Mỹ, mà là một Faulkner của vùng đất Nam
Mỹ với
những vấn nạn của nó.
Trường hợp James Joyce cũng vậy. Những
phó bản của Ulysses,
nói rõ hơn, dòng văn chương độc thoại nội tâm, vốn thật tối tăm, thật
khó hiểu,
ở Joyce, đã được “tục hoá”, bởi những nhà văn như Faulkner, Hemingway,
Claude
Simon… Theo nghĩa đó, Borges cho rằng,
chính học trò khám phá ra thầy: mỗi nhà văn ‘sáng tạo ra’ những tiền
thân của
riêng mình. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá
khứ, như
nó sẽ sửa đổi tương lai (every writer ‘creates’ his own precursors. His
work
modifies our conception of the past, as it will modify the future).
Nhận định “bản dịch trung thực hơn
nguyên tác” của Borges,
là do thuở nhỏ, ông học tiếng Anh trước khi có thể đọc được tiếng Tây
Ban Nha.
Ông sống trong cả hai ngôn ngữ: tiếng Anh là để nói chuyện với bố mẹ,
tiếng Tây
Ban Nha, trong cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, sau này, khi đọc
Don
Quixote bằng nguyên bản Tây Ban Nha, ông thấy đây là một bản dịch dở,
so với
bản tiếng Anh của thời thơ ấu. (When later I read Don Quixote in the
original,
it sounded like a bad translation to me). Và, “thừa thắng xông lên”,
ông bèn
coi tác phẩm Don Quixote, của Cervantes, là một tác phẩm giả. Ông chứng
minh, đồ
“zin”, là của một tác giả tên là Pierre Menard (do ông bịa ra). Ông
được coi là
một trong những người kể chuyện vĩ đại nhất của thế kỷ 20: một người
viết những
bài điểm sách, về những cuốn sách không hề có, của những tác giả “giả”
(a man
who wrote book reviews of nonexistent books by imaginary authors).
Truy tìm thật giả trong văn chương quả
là một công việc nguy
nan. Mới đây thôi, một cây viết hải ngoại la bai bải, “tài liệu giả, bà
con
ơi!”, khi đọc một số bài viết ở trong nước. “May quá”, đây chỉ là một
báo động
hoảng!
Và cũng mới đây thôi, báo chí Tây
Phương, tờ Time chẳng hạn,
đã ‘thông báo” về một mất mát trong giới văn chương: chuyến tầu suốt,
vào ngày
12 tháng Chín, 2000, của nhà văn Konrad Kujau. Còn tờ Người Kinh Tế
(The
Economist, số Sept 23-29, 2000),
thì đi cả một đường ‘cáo phó’.
Nhưng Konrad Kujau là ai vậy?
Xin thưa, đây là người đã ngụy tạo tác
phẩm: Nhật Ký của
Hitler.
Qua bài cáo phó, đối với ông vua xài
bạc giả này, thế giới
đúng như Shakespeare nhận định, “một sàn diễn lớn của những tên khùng”
(The
world is a ‘great stage of fools’). Bởi vậy cho nên, ông chẳng hề tỏ vẻ
ngạc
nhiên, khi đám khùng rối rít khen nhặng cả lên tác phẩm của ông: Nhật
Ký
Hitler, đã được vồ vập (bought), bởi báo Stern (Đức), Thời Báo Chủ Nhật
(Sunday
Times, Anh), và Tuần Tin Tức (Newsweek, Mỹ). Theo họ, đây là một ‘tin
động
trời’ (a scoop), của thế kỷ. Nó còn được một trong những chuyên gia số
một thế
giới về thời kỳ Hitler, là Hugh Trevor-Roper ca ngợi. Ông la bai bải:
thứ
thiệt, thứ thiệt! Tuy nhiên, sau đó, người ta khám phá ra rằng, thứ
giấy dùng
để viết nhật ký, được chế tạo sau khi Ông Trùm Nazi đã ngỏm củ tỏi. Ông
vua xài
bạc giả đã nhuộm nó bằng nước trà cho có vẻ… xa xưa!
Chuyện thiên hạ vồ vập nhật ký của ông
trùm Nazi, cũng dễ
hiểu: Hitler đã, và sẽ mãi mãi còn là một trong những con quỉ ‘hớp hồn’
(intriguing) người đọc. Người ta còn tò mò muốn biết, người đẹp của ông
trùm,
là Eva, có ‘sexy’ không?
Konrad thực có tài, (he did have a
gift), theo bài viết trên
Người Kinh Tế. Ông có thể vẽ, và có một con mắt tốt (a good eye), về
chi tiết,
theo thuật ngữ của giới hội họa. Khi còn trẻ, ông học nghệ thuật ở
Dresden, khi
đó còn thuộc Đông Đức. Dời qua Tây phương vào năm 1957, làm ba việc vặt
vãnh,
dành dụm tiền bạc, và mở được một cửa tiệm ở Stuttgart. Mỏ bạc giả của
ông: hồi
tưởng, hình ảnh tướng lãnh, những nhân vật nổi tiếng thời Nazi. Mấy thứ
này dễ
ợt, làm kèm với phiếu ăn trưa (luncheon vouchers). Ngửi thấy mùi, thiên
hạ mê
những món dính tới chính Hitler, ông bèn chế tạo dăm ba bài thơ, một vở
opera,
tranh mầu nước Fuhrer là tác giả. Rồi tới nhật ký về vài tháng trong
năm 1935.
Gerd Heidermann, một nhân viên của tờ Stern, và cũng là người đỡ đầu
tiệm của
Mr. Kujau, rất quan tâm tới nhật ký. Ở đâu ra vậy? Còn nhiều nữa hay
chỉ có
ngần này?
Ông này sau đó đã thuyết phục Stern,
và vài chục triệu đô la
đã được tờ báo chi ra, tiền hoa hồng cho người trung gian cũng khá bộn,
và sau
đó ông cũng đi tù vì tội đồng lõa.
Konrad Kujau bị kết án 4 năm rưỡi,
nhưng gỡ ba cuốn lịch thì
được thả. Hầu hết mọi người cho rằng, ông ta chẳng làm hại ai (no real
harm).
Chính ông ta cũng rất tự hào về tài năng của mình, và sẵn sàng đưa ra
một bài
học, khi được phóng viên hỏi. Ông rất bực, khi một nhà chuyên môn
nghiên cứu
thư khố, cho rằng ‘tác phẩm’ của ông ‘hời hợt’. Ông đã mất hai năm trời
cặm
cụi, tại căn phòng ở phía sau cửa tiệm. Chính cái bề dầy của nó, 62
tập, đã làm
những chuyên gia choáng váng. Hugh Trevor-Roper ghi nhận: chúng tạo nên
một
toàn thể hài hòa. Đủ thứ ở trong đó: nào là những tiểu sử của Hitler,
những
nhật báo thời kỳ đó… Đôi khi, trong khi viết, tác giả thắng bộ đồ ‘hành
quân’
của một tướng lãnh Nazi, để nhập đồng, và có lúc ông cảm thấy, mình
chính là
Hitler! “Khi viết về Leningrad,
tay
tôi run run,”, tác giả thú nhận. Đây là một kinh nghiệm những tay
chuyên môn
xài bạc giả đã từng trải qua. Một trong những bậc thầy trong ngành, là
Thomas
Chatterton, một nhà văn thế kỷ 18, đã giả mạo những bài thơ của một
Thomas
Rowley, một nhà sư thời trung cổ, và được rất nhiều người đọc ái mộ.
Ở Việt Nam,
sau 1961, và sau 1975, có những tài liệu ngụy tạo về gia đình họ Ngô,
nhất là
về Trần
Thị Lệ Xuân. Nào nhật ký, nào hình “khỏa thân” khi đang tắm biển, hoặc
đang làm
tình. Có thể, kẻ thắng trận còn e sợ những tình cảm luyến tiếc nhà Ngô,
ở người
dân Miền Nam.
Nhưng do ngụy tạo quá lộ liễu, đầy sơ hở (thí dụ như khi ghép mặt bà Lệ
Xuân
với một thân hình khoả thân khác…), cuối cùng đã gây phản ứng ngược:
người dân
càng thương nạn nhân, và càng tởm chế độ. Người viết còn nhớ, ngay sau
khi
nhà Ngô
sụp đổ, tại một phòng triển lãm ở đường Tự Do, một ông làm phòng
thông tin
đã cho chơi một bản nhạc chế nhạo miền Bắc, đúng ra là chế nhạo ông Hồ,
nhại
theo điệu “son son son, mì son đố mì, son son son mình yêu nhau đi, nhờ
Bác Hồ
mà ta mê ly”, nhưng chỉ được một hai bữa, là có lệnh dẹp, vì người dân
không có
thói quen sỉ nhục đối phương.