Phan Chính
Hồ
Hữu Tường - Những ngày
cuối đời
Note: Khi HHT bị Diệm kết án
tử, trí thức thế giới lên tiếng, Diệm phải đổi án tử qua án tù.
VC nhân đạo hơn, khi biết ông
sắp chết bèn tha án tù.
Truyện ngắn “Con thằn lằn
chọn nghiệp” trong tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng
ta (NXB
Sóng, Sài Gòn 1974), theo bà Huệ Minh là truyện ông tâm đắc nhất. Phải
chăng
kiếp con thằn lằn có gì đó là hình ảnh của kiếp người ông đang cưu
mang? Suốt
đời lầm lũi tìm đủ phương kế ngăn chặn kẻ cuồng tín, u mê, tự hủy hoại,
giết
hại nhau… vì một mục đích hão huyền, lại cho đó là thiên đường! Chuyện
kể trong
tù, một hôm có người tù trẻ cùng phòng hỏi Hồ Hữu Tường: "Bác Tường ơi,
bác biết tại sao từ thời Pháp đến Mỹ, rồi cả bây giờ bác cứ ở tù dài
dài
không?" – Ông nói, "Mày trả lời giùm tao đi!" Anh ta nhanh nhẩu:
"Dễ quá, Bác có tên là Hữu Tường nên bác 'hưởng tù' dài dài thôi!"
Ông trầm ngâm, "Có thể thằng này nói đúng."
Đây là một tài liệu tuyệt
quí. Cám ơn tác giả Phan Chính. NQT
*
V/v Truyện ngắn Con thằn lằn
chọn nghiệp. Theo như Gấu được biết, truyện này được đưa vô tuyển tập
“Những
truyện ngắn hay nhất của thế giới”. Sau khi ra tù [HHT bị Diệm kết án
chung thân
khổ sai, sau khi Diệm bị đệ tử làm thịt, ông được ra tù], HHT cho đăng
lại truyện
ngắn trên tờ Văn, và viết thêm đoạn kết: ông cho con thằn lằn chọn
nghiệp, nhà
văn hóa.
Thời gian này, giới văn nghệ Quán Chùa đang tranh luận về quan điểm của
Roland Barthes, ông này phân biệt giữa nhà văn, écrivain, và nhà dùng
văn, écrivan, và HHT cũng tham gia, trên tờ Văn. Ông tin rằng, ông có
văn tâm, những không có văn tài. Theo Gấu, ông nghĩ, ông sử dụng văn
chương cho những mục đích, lý tưởng của mình, và ông không nghĩ, ông là
nhà văn.
*
Trong tuyển tập có một truyện
ngắn đã theo tôi từ ngày học trung học. "Con thằn lằn chọn nghiệp", của
Hồ Hữu Tường. Thời gian đó, tôi đã phải vô Thư viện Quốc gia ở đường
Gia Long,
để nắn nót chép từng chữ truyện ngắn trên, bên cạnh những dòng chữ Tây,
chép từ
cuốn "Biện chứng pháp" của Trần Đức Thảo. Đám chúng tôi vẫn thường
tâm sự, hạnh phúc nhất, mà cũng bất hạnh nhất của những người 20 tuổi
vào những
năm 60, đó là chúng tôi có quá nhiều ông thầy, quá nhiều triết thuyết,
chủ
nghĩa, nào hư vô, hiện sinh, hiện tượng luận, cơ cấu luận... Những đàn
anh
chúng tôi, dù sao cũng chỉ chịu khổ với một chủ nghĩa Cộng Sản.
Như nhiều người đã biết, Hồ
Hữu Tường lúc đầu theo Trotsky, dính vô vụ Bình Xuyên và bị ông Diệm
kết án tử
hình, sau nhờ sự can thiệp của một số nhà văn, trí thức tên tuổi trên
thế giới,
án tử hình đổi thành khổ sai chung thân, tại Côn Đảo. Trong lúc đối
diện với
cái chết, ông viết "Trầm tư của một người bị tội tử hình", và mơ
tưởng Đức Phật lại trở lại với thế gian này. Hồi còn mồ ma tờ Nghệ
Thuật, Thanh
Tâm Tuyền có viết một loạt bài về cuốn Trầm Tư, qua đó ông cho rằng
giấc mơ về sự
nhập thế của Đức Phật cũng nát tan như mảnh đồng bằng chằng chịt những
bờ của
Miền Bắc. Thanh Nam, lúc đó là Tổng Thư Ký tòa soạn, nói đùa, bộ anh
tính đụng
vô vị thần linh Miền Nam hay sao. Ít người biết chuyện, chính Hồ Hữu
Tường đã
quyết định con đường cầm bút của ký giả Ba Tê (bút hiệu của Thanh Tâm
Tuyền khi
viết trên mục Tạp Ghi của nhật báo Tiền Tuyến tại Sài-gòn). Khi Hồ Hữu
Tường
làm tờ Phương Đông [hay Đông Phương?] tại Sài-gòn, Thanh Tâm Tuyền lúc
đó còn
là sinh viên ở Hà-nội, có gửi bài tham dự cuộc thi truyện ngắn. Truyện
được
giải nhì, không được đăng, vì không thể đăng được. Người viết được nghe
bà cụ
của thi sĩ kể lại, những ngày còn đi học, đám chúng tôi, những bạn bè
của người
em thi sĩ, vẫn lấy nhà bà cụ làm nơi tụ họp.
Trong
Bếp Lửa, Thanh Tâm Tuyền
đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi nhập thế
trong
xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con người nào,
mọi
thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và chỉ
thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho các đa
số các
nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre: Con
người bị
kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc. (Sisyphe
là nhân
vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh núi,
hòn đá
lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Như lính giữa rừng
Gấu biết HHT từ những
ngày ở
Hà Nội, thời gian sắp sửa xẩy ra vụ di cư, báo Sài Gòn vẫn ra tới Hà
Nội. HHT hồi
đó làm tờ Đông Phương, hay Phương Đông. Gấu đã từng nhìn thấy tờ báo đó
tại một
tiệm sách ở Hà Nội. Kỷ niệm chỉ có thế, nhưng không chỉ có thế. Người
chỉ cho Gấu
thấy tờ báo, là một anh bạn cùng học. Khi xẩy ra vụ di cư, bà cô của
Gấu, lấy Tây,
theo chồng về Pháp, bà cụ Gấu và đứa em đã xuống Hải Phòng, Gấu ở lại
Hà Nội,
quyết tâm theo Bác và Đảng, và anh bạn học trên đã xin gia đình cho Gấu
tới nhà
anh, nuôi ăn học. Cả hai đứa lúc đó cùng mê Sài Gòn. Anh bạn, bố theo
Cách Mạng
lên rừng, đúng ngày tiếp quản thì biết tin bố đã mất, chắc là vì bịnh
sốt rét.
Khoảng
tháng sau, tôi nhận được vài dòng thư của bà Huệ Minh: “Chú Chính,
không biết lời nào để nói hết được lòng biết ơn của gia đình tôi đối
với chú” kèm theo 30 đồng. Tôi mới nhớ lại, hôm bà ra chăm sóc ông, đến
ngày phải về Sài Gòn bà lúng túng bảo rằng không còn tiền và tôi vét
được 30 đồng đưa cho bà. Lương tôi lúc đó là 47 đồng, tiêu chuẩn gạo
tháng 13 kg nhưng trên 60% là độn bột mì hoặc bo bo…
Tình
cờ Gấu hiện đang có số Văn, 79, ra ngày 1 Tháng Tư 1967, trong có
truyện ngắn của HHT, Nàng Lúi, nickname của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Số
báo này, là của một người bạn ở Lào tặng. Tin Văn sẽ scan, gửi tới độc
giả, để cùng tưởng niệm Phi Lạc.