Viên Linh
Văn chương
tôi không phục vụ niềm vui
Thế Dũng
thực hiện
Viên Linh & NQT
tại Toà Soạn Khởi Hành, Tháng Tư, 2005
Thế Dũng:
Thưa anh Viên Linh, đúng vào năm 1951, chàng thiếu
niên Nguyễn Nam
đã bỏ Đồng Văn lên Hà Nội để học hành. Cho đến bây giờ, từ cái nhìn của
một cậu
ấm con nhà khá giả năm xưa, anh có thể phân biệt được sự ưu việt của
việc dùi
mài kinh sử ở Hà Nội so với việc học hành ở Đồng Văn thuở ấy không?
Viên
Linh: Thuở ở Đồng Văn tôi là một thiếu nhi, lúc năm,
sáu tuổi đã mồ côi cha, nên học với ông nội trước tiên. Ông tôi, người
ta
thường gọi là Cụ Tú Đồng Văn, thi đỗ tú tài khoá chót hình như năm 1915
ở
Trường Nam (Nam Định); thi xong thì Nhà nước bảo hộ dẹp bỏ chữ Nho, nên
sẵn có
thằng cháu mồ côi quanh quẩn bên ông lo đun nước pha trà và sai vặt, cụ
mang
thằng cháu ra dạy. Cụ chỉ có một người bạn là Cụ Cử Ái Niên, thỉnh
thoảng từ xa
vác dép trên vai tới chơi. Thuở đó tôi vừa được học chữ Nho, vừa được
học lóm
"phép làm thơ", là đề tài hai cụ thường nói suốt bữa trà. Tôi học ông
5, 6 năm, những câu còn nhớ cho tới bây giờ là “Đàn ông con trai không
đứng
trước gương chai đầu”, “Sĩ phu bách nghệ”. Mãi năm lên 8 mới được học
ABC rồi
đi học ở trường làng.
Trường
làng là một ngôi nhà gạch ba gian bên cạnh đình làng,
trên một cái đồi nhỏ, có thầy giáo Vịnh từ làng khác tới dạy. Đầu tuần
đứng
trên đồi đợi thầy, thấy bóng thầy từ xa; thầy đi bộ từ làng thầy, không
rõ ở
đâu, tới dạy bọn nhỏ chúng tôi. Lần nào cũng thấy thầy mang một cái cặp
cũ và
một chai nước mắm. Còn ở Hà Nội tôi học trường Đồng Nhân, làng Đồng
Nhân, ngay trong
khu đền thờ Hai Bà Trưng; rồi lớp Nhất ở trường Ngô Sĩ Liên phố Hàm
Long, đệ
Thất ở Chu Văn An, khác nhau xa. Nhưng cũng chẳng dùi mài kinh sử gì,
đọc
truyện nhiều hơn. Sự việc in hằn vào đầu tôi từ khi lên Hà Nội học là ở
đó học
trò là người tứ chiếng, dân tứ xứ tới, mỗi cá nhân là một mục tiêu để
bạn đồng
môn châm chọc, chế giễu, nhiều khi độc ác đến bất nhẫn. Tôi vốn nhút
nhát,
nhưng được cái to con, nên hay can thiệp khi thấy chuyện bất bình.
Thế
Dũng: Tác phẩm đầu tiên anh được trả nhuận bút vào lúc
anh mười bốn tuổi, đăng trên nhật báo Tiếng Dân, Hà Nội. Bây giờ, đúng
năm mươi
năm qua rồi, anh còn nhớ lúc đó anh ký bút danh hay tên thật dưới tác
phẩm tuổi
học trò ấy? Nghe nói năm muời sáu tuổi anh đã mở Hán-Việt Từ điển của
Đào Duy
Anh và chọn cho mình bút hiệu Viên Linh. Anh có thể tiết lộ về những
cảm xúc
của tuổi mười sáu dạo đó với cái bút hiệu mà anh đã dùng suốt đời? Thảo
nào anh
đã tìm kiếm bằng được di cảo của Đào tiên sinh...
Viên
Linh: Chuyện xảy ra quanh cái truyện ngắn đầu tiên được
trả nhuận bút ấy như mới xảy ra mới đây thôi. Tôi gửi cho họ mới vài
hôm đã
thấy nó ở trên mặt báo, không sót một chữ. Ở cuối truyện có dòng nhắn
tin như
sau: “Mời ông Nguyễn Nam
tới Tòa soạn Tiếng Dân trong giờ làm việc để lãnh nhuận bút 150 đồng”.
Chỉ có
thế, nhưng tôi đọc đi đọc lại kỹ lắm. Lúc ấy mỗi sáng tôi được phát hai
đồng ăn
sáng. Chủ nhật nghỉ dĩ nhiên không có hai đồng, vì ăn ở nhà. Vậy một
tuần được
lãnh đâu muời hai đồng. Số tiền nhuận bút 150 đồng là “lương” hơn muời
tuần lễ.
Hai chữ nhuận bút từ đó đối với tôi là hai chữ rất khả ái. Mặt khác,
truyện tôi
viết, nhân vật là đứa nhỏ (thật ra gần bằng tuổi tôi lúc đó), tôi đoán
họ sẽ
đăng trên trang Nhi đồng, ai ngờ họ đăng trên trang Xã hội. Điều này
gây cho
tôi sự tự hào ngầm (và khiến tôi vượt qua giai đoạn viết văn học sinh,
đi cái
một vào văn đàn người nhớn.) Truyện ngắn đầu tiên gửi đi đã được đăng
ngay, và
được trả nhuận bút luôn, cho nên nghề văn đến với tôi trước khi tôi
biết có
nghề văn.
Khi
tôi bước vào báo Tiếng Dân, chỉ thấy một ông đang thu cả
hai chân lên ghế rít thuốc lào. Tôi nói lớn: “Tôi tới lãnh nhuận bút
truyện
ngắn Hắn của Nguyễn Nam”.
Ông xua tay tíu tít: "Về bảo bố em tới lãnh mới được"; "Thưa ông
bố tôi mất rồi"; “Thì bảo anh em đến lãnh, trẻ con không lãnh được, 150
đồng to lắm”; “Nhưng thưa ông, tôi viết cái truyện ngắn ấy”.
Ông
ta nhìn tôi chòng chọc: “Chú mày có chứng minh thư
không?”; “Thưa, chứng minh thư chắc là thẻ học sinh?”. Tôi có cái thẻ
học sinh Chu
Văn An, có hình đàng hoàng. Ông ta lôi trong ngăn kéo bàn ra một cái
phong bì,
ngoài có đề “Monsieur Nguyễn Nam”.
Tôi phải ký tên vào cái sổ là đã nhận tiền đầy đủ. Không nhìn tôi cũng
biết ông
ta ngắm nghía mình kỹ lắm. Ông nói: “Chú mày khá lắm. Cố lên nhé. Xem
ra chú
mày có triển vọng thành nhà văn đấy. Nhà văn gái mê lắm đấy”.
Mấy
ngày sau tôi đãi hơn mười đứa bạn chơi đá bóng với tôi ở
bãi cát gần Viện Viễn Đông Bác Cổ ra hàng Mụ Béo bên hồ Gươm ăn đu đủ
bò kho và
bánh tôm. Chưa bao giờ tôi oai phong đến thế. Sau này ở Sài Gòn, tôi
viết
truyện ngắn gửi các báo với nhiều bút hiệu khác nhau, mục đích lấy tiền
chi
tiêu thay vì như các bạn cùng tuổi phải đi kèm học tư. Trên các báo
Ngôn Luận,
Tiếng Chuông, Văn Nghệ Tiền Phong khoảng 1955-1956, có nhiều truyện ký
tên Sầm
Tham, Nguyễn Văn Ba, Lê Nguyên - đều là tôi. (Tôi là con thứ ba, và lúc
này tôi
đã yêu cô bạn học đệ Tứ lớp hè trường tư họ Lê. Còn Sầm Tham, ai yêu
thơ Đường
đều biết Sầm Tham.) Ký lung tung là vì truyện ngắn gửi nhật báo hay báo
tuần
không hẳn loại văn học nghệ thuật, viết cái vèo vài giờ một cái truyện,
mình
không quan tâm lắm. Với lại tôi không quí văn xuôi bằng quí thơ. Chỉ
khi làm
thơ tôi mới nghĩ đến chuyện phải có một bút hiệu cho ra gì.
Tôi
giở Hán-Việt Từ điển giản lược của Đào Duy Anh ra tìm
một cái tên ra gì như tôi muốn. Có nghĩa là vừa khó trùng, vừa dễ nhớ,
thơ đọc
lên dù dở mà bút hiệu hay người ta cũng nhớ tới mình như thường. Ở
trang 551 có
hai chữ “viên linh”. Cụ Đào viết: “viên linh: trời, vì hình trời tròn,
nên gọi
là viên-linh”. Tôi chẳng muốn làm ông trời với ai bao giờ, nhưng tôi
yêu nắng
miền Nam, yêu nắng đến nồng nàn, nhất là phóng xe máy ào ào trên đường
vắng
giữa trưa Sài Gòn là điều tôi thường làm, nên tôi đã tìm thấy bút hiệu
cho
mình. Bút hiệu ấy đã dùng gần năm mươi năm nay.
Thế
Dũng: Thời anh học đệ Lục ở Phủ Lý với thầy Chu Thiên,
anh đã có một ngày rất đáng nhớ với tác giả Bút nghiên vào mùa hè năm
1954.
Thuở ấy, anh có xe đạp Peugeot nên thầy Chu Thiên đã nhờ anh đèo lên Hà
Nội.
Hình như trong chuyến đi đó thầy Chu Thiên đã hỏi anh: “Sao em không đi
Nam?”
Bấy giờ, trong mắt tác giả Bút nghiên: không đi Nam
là một sự lạ? Tại sao vậy?
Viên
Linh: Hè 1954, tôi về quê Đồng Văn, nơi mẹ, chị và em
gái tôi vẫn ở, chỉ có em trai Nguyễn Hữu Hiệu và tôi lên Hà Nội trọ học
(anh
tôi đi bộ đội ở xa). Mẹ tôi là đại lý độc quyền Muối Văn Lý (bãi bể Văn
Lý, Hà Nam)
ở phố Ga, Đồng Văn, nên hè thì tôi về quê. Ở nhà chán, vả lại có cái xe
đạp vào
loại tối tân nhất lúc ấy, Peugeot Dura (loại nhẹ, một tay nhấc cao lên
được, vì
bằng nhôm cứng, dura), nên tôi xuống Phủ Lý học. Phủ Lý cách Đồng Văn
11 cây
số, đạp nhanh chỉ khoảng 15, 20 phút. Còn từ Đồng Văn lên Hà Nội có 48
cây số,
khoảng một tiếng rưỡi vừa đi vừa ngắm cảnh. Nhưng hôm ấy thầy bảo tôi
ngừng ở
bến xe hàng chứ không muốn tôi chở hẳn lên Hà Nội. Trên đường từ Phủ Lý
về Đồng
Văn, chúng tôi nói nhiều chuyện. Đúng ra là thầy hỏi, và tôi trả lời.
Sau khi
hỏi han gia cảnh, thầy hỏi tôi: “Gia đình em có định đi Nam
không?” Tôi đáp: “Có. Nhiều chú bác đã đi rồi”. Thầy hỏi tôi: “Bao giờ
đi? Sao
chưa đi?”. Cái nhìn của Thầy khiến tôi cảm thấy câu nói có một hàm ý gì
đó.
Tôi
biết Thầy Chu Thiên quý tôi. Tôi từng chơi quanh bên
thầy khi lớp đổi giáo sư giữa hai môn học, vì tôi hay hỏi về Việt văn.
Tôi nhớ
thầy rất rõ: quần áo kaki luộm thuộm bạc sờn, tóc xơ xác, đứng tựa cửa
bóc sắn
hay chuối ăn vào buổi trưa - ngày nào cũng thế. Thầy gầy teo, ngồi lọt
thỏm
trên khung ngang của cái xe đạp, giữa hai vòng tay tôi, mà không đụng
tay tôi.
Lúc ấy tôi đã to con lắm, 16 tuổi mà nặng 54 cân. Cô tôi vẫn gọi tôi là
thằng
Tạ Gạo. Câu nói của thầy không phải do lấy làm lạ, mà nghe như một câu
nhắc
nhở: “Sao chưa đi Nam?
Hãy đi ngay, kẻo muộn.”
Thế
Dũng: Anh đã vào nhập học đệ Ngũ ở trường Chu
Văn An từ ngày 26.10.1954. Trong khi đó họ hàng nhà anh đã đi Nam
từ ngay sau hiệp định Genève, tháng 7.1954. Gia đình anh thì đang ở Hải
Phòng
chỉ chờ anh nữa để đi Nam.
Rốt cuộc, anh đã rời trường Chu Văn An, rời Hà
Nội để có
mặt tại Sài Gòn vào đêm 25.12.1954. Cho đến nay, chưa một lần trở lại
hồ Gươm.
Tính đến năm 2004 là vừa tròn năm mươi năm anh xa Hà Nội. Kể từ cuộc
phân ly ấy
cho đến bây giờ chắc anh thấy rõ sự tàn phá cũng như sức sinh thành của
những
cơn bão thời thế lên số phận của mình?
Viên
Linh: Năm mươi năm giữa những cuộc phân ly của đất
nước, của dân tộc, những cuộc chính biến nửa thế kỷ, bên này cũng như
bên kia,
sự tàn phá hẳn không tránh được, tuy nhiên tàn phá không phải là tiêu
hủy. Trái
lại, tôi cứng cỏi và trưởng thành lên nhiều qua những đổi thay. Tôi
luôn luôn
nhớ một câu thơ của Thế Lữ, và chỉ một câu thôi: Ta là ai giữa mùa thay
đổi ấy?
Câu hỏi để tự định lại vị trí và vị thế mình sau một biến động.
Thế
Dũng: Cha anh mất từ năm 1945. Lúc ấy anh mới bẩy tuổi.
Cho đến tháng 12.1954, anh phải thú thật với thầy Tạ Quang Bửu là anh
phải đi Nam
theo mẹ, theo gia đình (dù không muốn). Như vậy có thể nói, người mẹ
(của anh)
là người đã ảnh hưởng tới cuộc đời anh nhiều hơn người cha của anh ư?
Có lúc
anh đã viết: Anh nhớ lại từ đầu. Anh nhớ lại lúc anh ngọn tóc phất phơ,
chân đi
guốc mộc, trong ngõ trúc, trên đường làng. Lúc anh ngất ngây vì một
giải thắt
lưng màu hoa thiên lý. Một mái tóc ngang vai. Lúc mẹ dẫn anh đến
trường. Lúc
cha cầm roi chỉ sách. Cuộc đời anh từ đó bắt đầu. Nghe nói mộ của ông
cụ hiện
nay đang ở gần ga Đồng Văn. Có lần Phùng Quán đã về đó cắm nhang? Anh
biết
Phùng Quán là người gọi Tố Hữu bằng cậu ruột không?
Viên
Linh: Hồi sau này tôi mới biết chuyện Phùng Quán là
cháu Tố Hữu. Phùng Quán về Đồng Văn, ra mộ thầy tôi thắp một nén nhang,
là vì
anh kết nghĩa huynh đệ với em trai tôi. Những năm 1980, từ Mỹ, Nguyễn
Hữu Hiệu
đã về Hà Nội thu thập tài liệu quanh vụ Nhân Văn – Giai Phẩm và giúp
làm Chòi
Ngắm Sóng cho Phùng Quán trên hồ Tây. Tôi có đọc nhiều thư Phùng Quán
viết cho
Hiệu, trong đó có nói tới những đêm thức đọc sách trong căn phòng của
Hiệu ở
Viện đại học Vạn Hạnh. Trước 1975 Đại đức Chơn pháp Nguyễn Hữu Hiệu là
Trưởng
ban Tu thư của Viện nên có căn phòng trên lầu hai của Viện ở đường
Trương Minh
Giảng. Phùng Quán từ Hà Nội vào đã ở trong căn phòng này của Hiệu.
Thật
không rõ tôi ảnh hưởng ai giữa cha và mẹ. Bố mất khi
mình mới hơn 6 tuổi, nhưng tôi còn nhớ rõ khi bốn tuổi hơn, ông đã dẫn
tôi đi
cô đầu trên phố Khách; gọi phố Khách vì khu đó có nhiều cửa hàng do
người Tàu
làm chủ. Đồng Văn là một làng đặc biệt, chia làm hai khu bởi một con
sông nhân
tạo, gọi là sông Đào. Bên kia sông Đào là làng, nơi có đình làng và 99%
cư dân;
bên này sông Đào, chạy dọc Quốc lộ số 1 khoảng hơn 2 cây số, có đường
xe lửa
xuyên Việt chạy qua, có ga Đồng Văn, có chùa làng, gọi là chùa Cảnh
Phúc xây từ
thế kỷ XV, và khoảng 1% cư dân của làng. Nhà tôi vừa có nhà trong làng,
nhà
tranh, vừa có nhà ngoài phố, nhà gạch, nơi u tôi (tôi vẫn gọi mẹ bằng
u) buôn
gạo buôn muối (bán sỉ chứ không bán lẻ) và cũng là nơi đặt văn phòng
làm việc
của làng, vì thầy tôi là Lý trưởng. Khoảng năm 1943-1944, đất nước còn
thanh
bình lắm, từ chiều tới đêm trên phố, gần bến xe hàng, gần nhà ga, có
nhà hát êm
đềm vui vẻ, các cô thấy bố con tôi đều vui mừng mở rượu mở bia chiêu
đãi. Các
cô thường ôm tôi chứ thầy tôi rất nghiêm chỉnh, vì là ông Lý trưởng,
con Cụ Tú
Tiên Chỉ, tuy uống nhiều, và tom chát thì tôi không rõ sành điệu hay
không, vì
lúc ông đàn hát thì tôi say bia đã ngủ mất rồi. Đương nhiên là ông có
làm thơ,
phú, hát nói, đưa cô đầu hát. Ông chết trẻ, năm 38 tuổi, tiếc là tôi
không được
đọc, được nghe thơ phú của ông. Đương nhiên là hay thôi. Còn nhớ, u
tôi, sau
này đôi khi có nói: "Anh ấy (tức là tôi), mới 4 tuổi đã đi cô đầu và
uống
bia cơ đấy."
Thế
Dũng: Thỉnh thoảng trong thơ anh có những câu như
Hỡi
ôi hoang phế miếu đường
Lòng son như ngói âm dương tan tành
hoặc:
Các
con ở tám phương trời
Nhớ cha như nhớ một người ngoài hiên.
Nhiều
bạn đọc tò mò vào gia cảnh của nhà thơ, đoán già đoán
non là gia đình họ hàng nhà Viên Linh hiện nay phải phêu bạt khắp thế
giới? Tôi
nghĩ đó vừa như rủi lại vừa như may?
Viên
Linh: Cả hai đều đúng. Vừa rủi vừa may. Gia đình nhỏ
của tôi không ảnh hưởng tới tôi mạnh bằng gia đình lớn: bố chết trẻ, mẹ
goá mới
khoảng ba mươi tuổi, ở vậy suốt đời nuôi năm con, mà tôi là con thứ ba.
Bố chết
hình như sáu, bẩy tháng thì chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, anh cả vào
bộ đội,
rời nhà, dân Hà Nội tản cư về tràn ngập Đồng Văn. Mẹ và bốn chúng tôi
đều còn
bé, em gái út ra đời mấy ngày đã phải bế xuống hố tránh bom. (Mẹ hoài
thai em
ít tháng thì bố mất, em ra đời không thấy mặt bố.) Máy bay hai thân của
Mỹ ném
bom suýt trúng nhà tôi (vì đó là căn nhà gạch nổi bật trong khu phố
dưới giữa
đám nhà tranh). Chính chúng tôi phải tản cư.
Gia
đình nhỏ phân tán ở Hoa Kỳ. Tôi có làm riêng một tập thơ
cho các con tôi, nhan đề là Thơ của một người cha xa vắng. Các con ở
tám phương
trời là nghĩa đen chứ không phải nghĩa bóng: tôi có tám con, bốn trai,
bốn gái,
và lúc này đây thì một đứa ở Thượng Hải, một đứa ở Boston, một ở
Rockview, một
đứa ở Charlotteville, và Las Vegas, Long Beach, Los Angeles, còn một
đứa quanh
đây. Các cháu đều nên người, bẩy đứa tốt nghiệp đại học, từ các chuyên
khoa như
MIT (về vẽ mẫu thời trang) ở New York, cổ ngữ La tinh ở Boston, quản
trị kinh
doanh ở Las Vegas, kiến trúc và ấn hoạ ở Charlotteville, Richmond, đồ
hoạ kỹ
nghệ ở Los Angeles...
Thế
Dũng: Có bao giờ số phận những người thân trong gia đình
ám ảnh anh mạnh đến nỗi họ được tái hiện trong các tác phẩm của anh
không?
trong Hóa thân? Thị trấn miền đông? trong Mã lộ?
Viên
Linh: Số phận những người thân không xuất hiện trong
tác phẩm của tôi, vì tất cả đều thành công tốt đẹp, mà sự thành công
ngoài đời
không có gì hấp dẫn trong một tác phẩm văn chương. Nếu các nhân vật
trong thơ,
trong truyện của tôi có ở trong cảnh chia tan mất mát, có thể vì tôi bị
ám ảnh
với những gì đã thấy trong đời, có lẽ cái máy hình trong đầu tôi khá
tốt, nhìn
cảnh gì cũng thu ngay đuợc vào khía cạnh sắc nét nhất. Chẳng hạn những
xác chết
dọc Quốc lộ số 1 năm 1945, những người chết đói năm Ất Dậu đó; chẳng
hạn khi
bẩy tuổi tôi đang chơi trong chùa làng - ngôi chùa Cảnh Phúc do nhị vị
công
chúa nhà Lê xây cất cách đây đã 500 năm - chợt nhìn thấy một bóng người
bay
ngang đầu mình, nhìn lên thì là một cái xác treo cổ trên cành xoan;
chẳng hạn
đang bơi trong hồ sen sau chùa thì thấy cái xác một hài nhi trắng bệch,
trên
đầu có một cái lỗ tròn như một đồng xu nhẵn thín bơi theo mình; chẳng
hạn chứng
kiến thầy tôi bắt một tướng cướp nhốt vào nhà giam, anh tướng cướp ôm
chặt một
đưá bé gái một, hai tuổi không rời, không cho nó ăn, hơn một ngày thầy
tôi phải
thả anh tướng cướp, vì sợ đứa bé chết đói...; chẳng hạn khi mười tám
tuổi tôi
bắt gặp một ông linh mục đang vén áo dòng làm tình với một phụ nữ có
gương mặt
thánh thiện, sáng như trăng rằm, làm tan nát lòng tin của một thanh
niên vừa
vào đời... Tôi thu những hình ảnh ấy vào trong tâm trí, sống mãi với
những cảnh
vật tang thương, giễu cợt, phỉ báng, thống khổ... Văn chương tôi không
phục vụ
niềm vui. Văn chương tôi đào xới sự bất hạnh, để làm gì thì tôi không
thể nói.
Đời tôi có nhiều người thân yêu ra đi, như cánh rừng có nhiều muông thú
bị hại.
Tôi sống trong mất mát của đời, tôi khóc trong đêm khuya chia ly mộng
tưởng,
tuy nhiên, ban ngày tôi hớn hở chào đón mọi sự gặp gỡ.
Thế
Dũng: Năm 1969 anh in năm cuốn tiểu thuyết và cưới một
cô vợ trẻ hơn mình 9 tuổi. Lúc ấy chắc anh chưa biết nhà văn Tiệp Milan
Kundera
đã phải chạy sang Pháp tỵ nạn từ năm 1968. Rồi, ngay từ chiều ngày
19.4.1975,
anh đã cùng bầu đoàn thê tử rời Sài Gòn ra đảo Phú Quốc bằng máy may.
Đến đêm
29.4.1975, anh cùng hai người vợ (mang được cả bà cũ) và các con trai
con gái
rời đảo Phú Quốc để tới Mỹ bằng con tàu American Challenger. Gần 30 năm
nay anh
cũng vẫn chưa về lại Sài Gòn, thành phố thời anh viết Hóa thân?
Viên
Linh: Chưa, tôi chưa trở lại Sài Gòn lần nào từ khi bỏ
đi, năm 1975. Tôi cũng chưa trở về Hà Nội lần nào từ lúc từ giã, năm
1954. Thế
kỷ XX là thế kỷ của di dân, của lưu đày; cho nên sống lưu đày hiểu theo
nghĩa
tiêu cực là sống lưu vong, mà hiểu theo nghĩa tích cực là sống tự do.
Ta - Việt
Nam
lưu đày, là
ta - Việt Nam
tự do. Người Việt Nam trong thế kỷ XX và XXI không sống lưu đày là
người Việt
Nam sống trong nô lệ, bị áp bức, bị trị, tha hoá, sống trong môi trường
của
những nhân danh tập thể, quốc tế, từ Liên bang Đông Dương tới Công xã
Xô Viết,
trong khi hạnh phúc đời người là hạnh phúc riêng; con người khác con
vật ở chỗ
gìn giữ cá tính và phẩm giá mình theo truyền thống nhân cách riêng của
mình,
gia đình mình, và xã hội văn hiến miền đất đã nhiều đời khai phá, phát
triển.
Con người sống với thiên nhiên, theo tiếng chim hót, không sống trong
trại tập
thể, theo tiếng kẻng kim khí hay tiếng loa, tiếng đài. Tôi không thấy
cần phải
về khi đã học được một ý nghĩa chân lý của André Malraux: "Nơi nào có
Tự
do nơi ấy là Quê nhà tôi."
Thế
Dũng: Nửa thế kỷ nay anh chưa bao giờ trở lại thành phố
Hà Nội, thành phố thời niên thiếu? Giả sử, bỗng nhiên bây giờ có việc
khẩn
thiết, bằng mọi giá phải hạ cánh ở Nội Bài, anh đã có sẵn một số điện
thoại,
một địa chỉ để trở lại với bằng hữu cũ của Trường Chu Văn An chưa?
Viên
Linh: Có lẽ chưa, nếu đó là số điện thoại của người
thân. Có lẽ có, nếu đó là số điện thoại của một vài bạn văn học. Tôi
thư từ,
gặp gỡ Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng từ năm 1990 khi anh từ Hà Nội qua
Hoa Kỳ
làm việc ở Đại học Cornell, Ithaca, New York. Anh cũng dân Phủ Lý, “nơi
ăn sóng
nói gió” như chữ anh dùng. Tôi vẫn liên lạc với anh. Gặp nhau tại xứ
người, bên
ly rượu, chúng tôi chỉ nói chuyện về các ngõ ngách Hà Nội, về vết đạn
Đường
Thành, tuyệt nhiên không đả động tới chính trị. Tôi cũng liên lạc bằng
điện
thoại, thư từ nhiều lần với cháu Phương Thảo, con gái út nhà thơ Quang
Dũng.
Thế
Dũng: Có lần anh kể, năm 1963 anh sống trên một căn gác
xép (nhà của mẹ ở Chí Hòa), căn gác không đủ cao nên chỉ có khoảng giữa
là đứng
thẳng lưng lên được. Nhiều tháng không ra khỏi nhà vì sợ bị công an của
Ngô
Đình Diệm lùng bắt. Thật ra họ lùng bắt Nguyễn Hữu Hiệu. Vì anh Hiệu
lúc ấy là
sinh viên Đại học Vạn Hạnh, đi rải truyền đơn chống Diệm, nên nếu bọn
nó thấy
anh chắc cũng bắt luôn thôi. Nên phải trốn trên đó khoảng ba tháng.
Truyện Thị
trấn miền đông được viết trong thời gian ba tháng này. Viết đi viết
lại. Cho
nên dạo ấy, dùng hai cái tai rất kỹ. Nghe ngóng tiếng chân ở bên dưới,
biết là
đàn ông hay đàn bà, đi giầy hay đi dép... Năm 1963 ấy, là năm Nhất Linh
Nguyễn
Tường Tam tự tử tại Sài Gòn vào ngày 07.07, cũng chính là năm có đảo
chính. Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị giết vào tháng 11. Phải chăng anh là một
người
luôn luôn bị (được) ràng buộc, gắn bó với một đời sống gia đình nhiều
sự cố?
Điều đó mang lại cho văn nghiệp của anh nhiều may mắn hay hoạn nạn?
Viên
Linh: Tôi không nghĩ một gia đình Việt Nam
như gia đình tôi là có nhiều biến cố như Dũng nghĩ. Rất bình thường
thôi. Các
biến cố gia đình, nếu có, không gây ảnh hưởng bao nhiêu cho văn nghiệp
của tôi.
Thế
Dũng: Tập thơ Hóa thân được anh khởi viết từ lúc còn trẻ
đến năm 1964 mới ra mắt tại Sài Gòn. Thời gian đó, ở miền Bắc, Hà Minh
Tuân bị
treo bút vì viết Vào đời. Sau đó bị đọa đày đến mức phát bệnh nhũn não.
Nguyễn
Dậu cho xuất bản Mở hầm và bị phê phán trù dập đến nỗi thành người lang
bạt tới
tận hơn 25 năm sau mới về lại Hà thành. Tại Liên Xô, cuốn Một ngày
trong đời
Ivan Denisovich của A. Solzhenitsyn xuất hiện. Tập thơ Thủy mộ quan,
anh khởi
sự từ năm 1978, ra mắt lần đầu vào năm 1982, khi anh đã bốn mươi bốn
tuổi. Nay
anh đang chuẩn bị cho ra đời tập thơ thứ ba, tập Âm thất. Tính từ năm
1975
ngược về năm 1960, số lượng đầu sách thơ của anh ít hơn số lượng đầu
sách tiểu
thuyết rất nhiều. Hồi 1962-1968, tôi đã thấy trong loạt bài viết về văn
học
miền Nam trong vùng tạm chiếm trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học của Viện
Văn học
Hà Nội (thuở giáo sư Đặng Thai Mai còn là Viện trưởng), có nhắc đến các
tên
tuổi như Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Viên Linh, Lệ Hằng,
Duyên
Anh, v.v... Mãi tới 1992-1994, tôi (một độc giả vắng mặt hơi lâu của
văn học
miền Nam)
mới
được đọc Hóa thân và Thủy mộ quan. Hồi tưởng lại, anh thấy anh viết
tiểu thuyết
dễ dàng hơn là làm thơ hay ngược lại? Trong số ba tập thơ Hóa thân,
Thủy mộ
quan và Âm thất, anh tâm đắc với thi phẩm nào hơn?
Viên
Linh: Việc tôi viết truyện khó khăn hơn làm thơ là việc
dĩ nhiên. Truyện là sản phẩm của tưởng tượng, cho nên ta thường thấy
các nhà
văn sợ trí tưởng tượng của mình quá hạn hẹp, trùng với sự thật ngoài
đời, nên
phải cảnh giác người đọc "nếu có sự trùng hợp ngoài đời là do sự tình
cờ,
ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của tác giả." Có ai phải cảnh giác người đọc
khi
làm thơ đâu? Cho nên nếu văn là hư cấu, thì thơ là tình thật. Nhân vật
trong
tiểu thuyết là người ta, nhân vật trong thơ là ta - chính ta. Viết về
cái ta
khó lắm, trừ phi ta tha hoá, coi ta là người khác, làm thơ tưới sượi
như phạt
cỏ vét bùn, tát nước sang ao. Làm thơ theo tôi là một cách viết nhật
ký, song
không viết cho mình hôm nay, mà viết cho mình ở đâu đó, có khi là ở tận
mai
sau. Viết truyện là dựng nên, hay vẽ ra, những nhân vật điển hình của
một xã
hội; làm thơ là đào sâu, chôn chặt chính mình vào lòng mộ, có thể là
một ngôi
mộ tâm linh mà thôi. Mà đường đời thì rải rác những mồ hoang, những mồ
vô chủ.
Thơ ta mà có người hương lửa thì ta cũng không mong gì hơn.
Tôi
còn đang bằng lòng với Thuỷ mộ quan. Tuy nhiên Âm thất
là thi phẩm tôi gửi gắm nhiều hơn nữa.
Thế
Dũng: Sau này, từ khi làm báo Khởi hành, tôi thấy anh
hay viết tiểu luận, chân dung nhà Văn. Là một người có năng lực hướng
nội mạnh
mẽ, có khi nào anh tự lý giải tâm lý sáng tạo của mình trước hiện tượng
thay
đổi bút pháp và thể loại trong từng thời kỳ khác nhau?
Viên
Linh: Câu hỏi này nặng lắm, có thể viết thành một cuốn
sách. Tâm lý sáng tạo của một nhà văn, nhà thơ thì vô cùng phức tạp,
nhất là
khi người ấy đã cầm bút năm mươi năm. Tôi lấy hai ví dụ:
Khoảng
1960, tôi lên Ban Mê Thuột dạy học, và bắt đầu đăng
thơ trên các tạp chí Sáng tạo của Mai Thảo và Thế kỷ 20 của Nguyễn Khắc
Hoạch.
Tờ Sáng tạo có khi dành tới sáu trang liền để đăng thơ lục bát Viên
Linh. Như
thế, người ta thấy thơ lục-bát-viên-linh khác với lục bát người khác.
Hẳn phải
có nguyên do. Trong khi ấy tôi lại gửi truyện ngắn đăng ở những báo
khác. Hẳn
tôi có lý do cho sự chọn lựa nơi gửi bài. Ở trường hợp đầu, tôi làm mới
thơ lục
bát, vì Sáng tạo là tạp chí cổ võ "đứng về phiá những cái mới." Ở
trường hợp sau, tôi viết truyện mà không khổ công khai phá kỹ thuật làm
văn cho
lắm, viết để lấy nhuận bút, viết để viết thôi.
Năm
1978, phong trào vượt biển gây dư luận trên thế giới,
thảm cảnh biển Đông với thuyền lật, người chết, hải tặc Thái Lan tấn
công
thuyền nhân, hãm hiếp phụ nữ Việt, gây rúng động lòng người khắp nơi.
Trong
khoảng hai năm liền, mỗi sáng sớm tôi trăn trở với mấy tờ báo The
Washington
Post (vì lúc ấy tôi còn cư ngụ trong vùng thủ đô Hoa Kỳ, là nơi tôi tới
định cư
từ tháng 8.1975), và các báo Việt ngữ (báo tuần, báo tháng, Việt ngữ
chưa có
báo ngày), chỉ cốt đọc tin về thuyền nhân. Tôi không thể viết như cũ
được nữa.
Tôi không thể làm thơ như vẫn làm thơ được nữa. Tôi tự hỏi: Tổ tiên ta
đã làm
gì để phụ nữ Việt, con cháu Việt phải “trả nợ” đến thế? Trong dòng lịch
sử nói
chung, dòng giống Việt đã làm gì để người Việt, đất Việt thảm thương
như thế,
từ Bắc chí Nam, từ trong nước ra hải ngoại?
Tôi
nghe nhiều, đọc nhiều về sự kiêu hãnh ngớ ngẩn của người
cộng sản Việt, sự tự hào thảm thương của người bộ đội bác Hồ, lời nhân
nghĩa
của cán bộ Lý Thông khuyên nhủ người chủ đất nước Thạch Sanh..., hay
chuyện hai
anh em ruột Ngô Xuân Diệu - nhà thơ, vào Nam gặp Ngô Xuân Phụng - nhà
báo, quân
nhân Cục Tâm lý chiến, cũng là nơi tôi từng phục vụ. Phụng làm một bữa
cơm có
con cá nướng đãi anh. Anh không đụng đũa mà cứ ngó ra cửa. Mãi rồi hỏi
em: “Sao
mãi những người khác chưa đến?”. Em nói: “Có ai nữa đâu, chỉ có hai anh
em
mình”. Diệu tác xác: “Con cá này phải tám người ăn là ít, sao lại chỉ
có tôi và
chú? Chú là đại úy nguỵ, quen thói bóc lột nhân dân”, v.v... Đại khái,
vô vàn
chuyện như thế. Anh em trí thức xô xát, chỉ từ cái kim sợi chỉ, miếng
cá hạt
cơm. Tôi tìm đọc lại lịch sử dân tộc, tôi tìm đọc lại cổ tích dân gian,
và tôi
thấy... Và tôi "thay đổi một quan điểm sáng tác", như nhan đề bài
diễn văn tôi đọc trong Đại hội Việt học ở Chicago
sau đó vài năm. Năm 1982 Thuỷ mộ quan ra đời. Tập thơ này sở dĩ có là
do cuộc
vượt biển đó. Trong đó nói tới nhiều chuyện, từ cảnh ăn thịt người của
đám
thuyền nhân trên một cái bè mất hướng trên biển, tới cục đường mang vào
Nam của
người bộ đội man tưởng; và sự hùng dũng của vài nam nhi Việt khi ở Mỹ,
trong có
một nhà văn, người từng ngồi im trên thuyền chứng kiến cảnh hải tặc
hiếp vợ và
con gái mình... Bài thơ Chuyện vãn cùng sách cũ của tôi làm trong giai
đoạn
này:
Chữ
nghĩa đã hàm oan
Tâm kiệt
cùng mực cạn
Ẩn mật chút
men trong
Cất lòng sầu
vô hạn...
Có
chiều thương bút mực
Bàn viết như
mồ hoang
Yên nằm hồn
lệ quỉ
Chờ ý xuống
hộ tang...
Quỉ ơi đời
giấy trắng
Chờ ngươi đã
nhiều năm
Có nghe
nghìn xác sóng
Tìm nhau
ngoài hư không?
Nội dung thay đổi thì bút pháp phải thay đổi. Nội dung và
bút pháp thật ra chỉ là một: nhiều khi nhà văn không ý thức được là có
sự phân
biệt. Thơ khẩu khí chẳng hạn. Chữ khẩu khí là nhà phê bình sau này đặt
ra, chứ
người thi sĩ làm thơ bộc trực, không cần phân biệt nó là khẩu khí hay
tâm khí,
chí khí hay não khí, thân khí hay tinh khí. Nguyễn Biểu thấy cái đầu
người cầm
đũa móc mắt ăn và làm thơ, chưa rõ lúc ấy ông no hay đói. Chưa rõ đó là
thơ
khẩu khí hay can khí, vị khí hay thực khí.
Thế
Dũng: Anh luôn cho rằng cuộc sống đến từ chốn ồn ào,
nhưng cuộc sống được ngắm nhìn từ ánh sáng trong lồng ngực và trong
khối óc.
Anh ra đời đúng vào năm Albert Camus 25 tuổi và viết xong cuốn Ngộ
nhận. Tôi đã
đọc kỹ Thị trấn miền đông, cuốn sách mà anh cũng viết xong lúc anh 25
tuổi. Tôi
ngạc nhiên, thấy giọng người kể chuyện trong suốt cuốn sách là một
giọng lạnh
lùng ảm đạm. Sau này, liên tưởng với không khí hiện sinh đầy hỏa hoạn
và các
cảnh tượng tâm linh trong Hóa thân tôi mới hiểu giọng người kể chuyện
trong Thị
trấn miền đông và tiếng nói của chủ thể trữ tình trong Hóa thân đều
chịu ảnh hưởng
ít nhiều giọng điệu của người kể chuyện trong Ngộ nhận và Người xa lạ
của A.
Camus. Chắc Albert Camus là một nhà văn đã từng có thời là thần tượng
của anh?
Viên
Linh: Đây là câu hỏi số 13, rất là hên xui. Nhiều năm
tôi cứ than thầm tại sao Albert Camus bị nhóm Jean-Paul Sartre mạ lị,
và sống
trong cô đơn. Nhưng sông Seine có hai bờ, và tả ngạn nhiều rác rưởi mà
người ta
vẫn thích. Như Nhĩ hà, Nhị hà, hay sông Hồng, bờ nào là bờ của phù sa,
bờ nào
là bờ của cặn bã thành phố? Tôi yêu Camus nhiều lắm lắm. Trong bài thơ
Lầu
chuông có câu thơ này:
Em
yêu Camus lạnh lùng, Đạt Ma qua biển, Ngộ Không giưã
trời...
Tôi
yêu cả ba người đó. Nếu bạn bảo Ngộ Không là khỉ chứ
không phải là người, thế thì con khỉ này hơn người rất xa. Nếu bạn bảo
Đạt Ma
là Phật chứ không phải là người, thì với tôi Camus là Phật. Camus là ý
thức
dũng cảm, là hùng tâm, là sĩ khí Âu Châu thời băng hoại bởi chủ nghĩa
cộng sản.
Ý thức về sự phải lý là ý thức thống khổ nhất hành hạ những tấm lòng
yêu chuộng
sự công bằng. Tôi biết những bất công khắc nghiệt của cuộc đời, những
trọng
vọng thô bỉ của xã hội, những vinh hoa rực rỡ của bùn lầy, làm sao tôi
không
yêu Camus? Các con tôi cũng biết là bố chúng yêu Camus, khi tấm hình
Camus cắt
từ một tờ báo ngoại quốc ra được bố chúng lồng khung kính treo trong
thư phòng.
Không còn hình ai khác. Làm sao bạn không ngưỡng mộ Sisyphus, ông vua
xứ
Corinth Ai Cập xưa, bị thần Zeus thù ghét bắt phải lăn một tảng đá lên
đỉnh đồi
ở Hades sau khi chết, để rồi tảng đá lại lăn xuống, và ông ta lại phải
đẩy lên,
cứ như thế mãi mãi. Sisyphus bị kết nhiều tội, ngoài những tội lặt vặt
còn hai
tội lớn: sỉ nhục Phuto và kết án thần Zeus đã bắt cóc cô con gái Aegina
của thần sông Asopus. Khi thấy mất con gái cưng, thần sông Asopus đi
tìm, gặp
Sisyphus và hỏi, thì Sisyphus nói những gì mình thấy: "Tôi có thấy một
con
chim diều hâu vĩ đại cắp con gái Aegina của ông
bay về
phiá hải đảo". Sisyphus nghi rằng chính Zeus chủ mưu vụ bắt cóc chứ
không
ai khác. Zeus nổi giận, ra hình phạt như vừa nói. Vấn đề đáng kể là
Sisyphus có
tố gian không? Không. Đó là sự thật. Chính Zeus đã bắt cóc Aegina.
Và "cuộc đời" - dù trong huyền thoại - cũng phi lý biết mấy [nữa là
cuộc đời này].
Tôi
còn yêu Camus ở chỗ có cuộc sống gần gũi với mình: lúc
chưa 20 tuổi Camus đã bước chân vào làng báo, làm phóng viên, rồi viết
kịch,
viết văn, viết về những bất công như đã xảy ra cho những người Kabyles
ở Alger,
sau làm chủ bút tờ báo tranh đấu nức tiếng thời Pháp bị Đức chiếm đóng:
Combat,
và ông lại cũng yêu nắng vô cùng. Ông yêu Alger một tình yêu nồng cháy,
như có
kẻ yêu Sài Gòn một tình yêu cháy nồng: "A Alger, pour qui est jeune et
vivant, tout est refuge et prétexte à triomphes; la
baie,
le soleil, les yeux en rouge et blanc des terrasses vers la mer, les
fleurs et
les stades, les filles aux jambes fraiches." (L'été à Alger) Trên nữa,
như
Hàn lâm viện Thuỵ Điển nhận định khi trao giải Nobel Văn chương cho ông
năm
1957, vì "his important literary production, which with clear-sighted
earnestness illuminates the problems of the human conscience in our
times." [tác phẩm văn chương quan trọng của ông, mà cùng với nó, là sự
thiết tha sáng rõ, luôn soi rọi những vấn nạn của lương tâm con người
trong
thời đại chúng ta.]
Viên
Linh, tên thật là Nguyễn Nam,
sinh năm 1938, quê ở Đồng Văn, Phủ Lý. Ngày 25.12.1954, rời Hà Nội vào
Sài Gòn,
và rời Sài Gòn sang Mỹ ngày 29.4.1975. Là tác giả của hơn hai mươi cuốn
sách,
Viên Linh là một tên tuổi khá nổi tiếng của văn học miền Nam
từ những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Hiện đang là Chủ bút báo Khởi
hành, một
tờ nguyệt san văn học nghệ thuật của người Việt tại Mỹ.
© 2005
talawas