Thứ Bảy
25/3/2006
‘Tôi yêu
Tây Nguyên như yêu quê hương mình’
Thu Huyền
Nhà văn Trung Trung Đỉnh tự nhận, bàn
chân mình đã đi khắp
nơi trên đất nước, song những ngày tháng sống và chiến đấu ở Tây Nguyên
có ý
nghĩa đặc biệt trong cuộc đời ông. Dưới đây là cuộc trò chuyện với nhà
văn.
- Duyên nợ của ông
với người dân và núi rừng Tây Nguyên đã
diễn ra như thế nào?
- Tôi là lính chủ
lực, được huấn luyện chính quy để vào Nam
chiến đấu. Đơn vị tôi hành quân đến vùng rừng Quảng Nam thì tôi bị sốt
rét,
phải đưa vào Bệnh viện đường dây 559 điều trị. Ra viện tôi về trạm giao
liên,
định bụng sẽ nghe ngóng tin tức đơn vị, và nếu có thể thì đuổi theo,
nhưng được
một anh cán bộ đường dây bảo, đơn vị cậu vào tuốt trong Nam Bộ rồi,
phân tán
hết rồi, chịu khó chờ sẽ có đơn vị khác đón. Thế là tôi thành lính thu
dung.
May mà tôi không phải chờ lâu, vào một buổi sáng tôi thấy có một đồng
chí cán
bộ đeo cái ba lô rất to, bên hông khẩu K59 bé tẹo rất oai vệ. Bên cạnh
anh là
một đồng chí công vụ người dân tộc rất to khỏe và đẹp mã, đeo một cái
ba lô
nặng trịch. Anh cán bộ ấy đứng lên một cái ụ mối, huơ cái ba-toong một
vòng
trên đầu, nói lớn: Gia Lai gạo trắng nước trong. Anh nào muốn về Gia
Lai chiến
đấu thì xếp hàng theo tôi đây!
Tôi và mấy bạn mới
nữa chỉ cần thấy tướng tá hai thầy trò
anh này là đã đủ tin rồi. Chúng tôi lần lượt khoác ba lô theo. Đó là
thủ trưởng
Điểm, tham mưu trưởng Tỉnh đội Gia Lai, đi họp quân khu về, ra trạm
“kiếm” ít
quân cho tỉnh. Thế là tôi về Gia Lai.
- Cảm nhận đầu tiên
của ông khi đặt chân đến quê hương của
anh hùng Núp?
- Về đến trạm đường
dây của tỉnh thì đồng chí Điểm... biến
mất. Chúng tôi được biên chế về các đơn vị: Trinh sát, thông tin, trợ
chiến của
tỉnh đội. Tôi được điều về Huyện đội Khu 8 (An Khê) và được một đồng
chí giao
liên người BahNar dẫn đường. Trong đầu tôi tưởng tượng huyện đội chắc
phải đông
anh em và lán trại chắc khang trang lắm. Ai ngờ chỉ có mấy người, cỡ
một tiểu
đội còn thiếu, lại ở trong một hang đá.
Thực ra đó là một tổ
công tác cánh Bắc đường 19 của huyện
đội. Thế là tôi nhập cuộc. Không thể kể hết chuyện vui buồn của đội
công tác
cánh Bắc đường chúng tôi. Những năm tháng sống và chiến đấu ở Huyện đội
Khu 8
là những dấu ấn đậm nhất về cuộc chiến tranh nhân dân, nhiều kỷ niệm
nhất đối
với tôi. Huyện đội chúng tôi sống và chiến đấu chung với làng Đê Chơ
Rang - một
ngôi làng BahNar nguyên sơ, rất tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc
BahNar ở
Tây Nguyên. Tôi học tiếng BahNar ở đây, học việc của một người đàn ông
BahNar
cũng ở đây. Tôi ở An Khê từ 1969 đến 1972, năm 1973 tôi về Huyện đội
Khu 10.
Anh hùng Núp lúc ấy là Bí thư Huyện ủy Khu 10. Tôi cảm nhận được cuộc
đời tôi gắn
bó với miền đất này thân thương không kém gì quê hương của mình vậy.
- Liên lạc giữa ông
với các bạn bè ở Tây Nguyên bây giờ thế
nào?
- Tôi có rất nhiều
bạn bè người Tây Nguyên. Bây giờ đến bất
cứ buôn làng nào cũng có chỗ để... nghỉ chân. Bạn chiến đấu có Đoàn
Minh Phụng
hiện nay là Tổng Biên tập Báo Gia Lai. Hồi tôi 19 tuổi vào đến Huyện
đội Khu 8
thì Phụng mới 13 tuổi, vậy mà đã rất lanh lợi. Có thể nói Phụng là
người thầy
đầu tiên dạy cho tôi biết sống trong chiến tranh. Sau này về Trường
Huấn luyện
tân binh tôi gặp và thân với anh Rơ Lan Thơng, Rơ MahChuốt ở ChPơrông.
Đặc biệt
tôi rất thân với họa sĩ Xu Man. Ông đã kể cho tôi cả cuộc đời ông và
tôi đã
viết một cuốn truyện về ông. Tôi cũng rất thân với vợ chồng nghệ sĩ
H’Ben và
anh Thịnh ở KôngChơRo - chị H’Ben lúc nào cũng coi tôi như em. Hiện tại
tôi vẫn
thường xuyên liên lạc với các bạn tôi.
- Ông thấy người Tây
Nguyên thế nào?
- Mình gắn bó với họ
là vì tình cảm. Họ chân thành, trong
sáng, luôn hết lòng vì người khác dù cuộc sống rất nghèo khổ. Đôi lúc ở
bên họ
mình cảm thấy “ngượng” vì cái sự tính toán cứ luôn ở trong đầu mình.
Gần như năm nào tôi
cũng về ít nhất một đôi lần, mỗi lần vài
tuần, có khi vài tháng. Mục đích gì? Đi và về cho đỡ nhớ. Mỗi lần trở
lại buôn
làng là một lần tắm gội. Tắm gội bụi trần bon chen thị thành, trở về
với cuộc
sống vô tư hồn nhiên trong sáng.
- Ông có bằng lòng
với những sáng tác của mình về Tây Nguyên
không?
- Tôi yêu Tây Nguyên
như yêu quê hương mình. Những cuốn sách
viết về Tây Nguyên của tôi chỉ nói được một phần rất nhỏ, rất rất nhỏ
về cuộc
sống văn hóa và con người nơi đây. Tôi rất buồn vì những sáng tác đặc
sắc về
Tây Nguyên như: Đất nước đứng lên, Bài ca chim Chơ-rao được dịch ra
nhiều thứ
tiếng và được độc giả nhiều nước ngợi ca, đón nhận, nhưng đồng bào Tây
Nguyên
lại chưa hề được đọc. Tôi đã đề xuất nhiều lần với Sở Văn hóa, với Hội
Văn nghệ
rằng cần dịch những tác phẩm trên ra tiếng BahNar, tiếng JRai cho đồng
bào dân
tộc đọc, nhưng đều rơi vào sự im lặng!
- Đánh giá của ông về
văn học sáng tác về miền núi nói chung
và Tây Nguyên nói riêng?
- Theo tôi lực lượng
thì rất đông nhưng chất lượng thì
rất... hạn chế. Có người ở Tây Nguyên hai, ba chục năm nhưng vẫn không
nói
được, hiểu được một thứ tiếng nào của đồng bào. Sáng tác thì quanh đi
quẩn lại
chỉ có rượu cần với lại dã quỳ. Hết dã quỳ lại sang tượng nhà mồ với
cồng
chiêng... Rất hời hợt. Thật là đáng buồn, đáng tiếc lắm thay!
- Ông thấy Tây Nguyên
đã đổi thay như thế nào?
- Tôi thấy sự đổi
thay ở Tây Nguyên rất lớn, nhưng rất đáng
tiếc là nhiều nơi chưa đi đúng với quy luật của tự nhiên. Ví như rừng
bị tàn
phá nhiều quá. Rừng không còn, văn hóa làng rừng bị mai một, biến thể,
rất nguy
hiểm. Muốn bảo tồn văn hóa các dân tộc Tây Nguyên thì trước hết phải
bảo tồn
được môi trường văn hóa của nó, đó là văn hóa làng rừng. Bảo vệ được
rừng tức
là bảo vệ được môi trường văn hóa. Không còn rừng thì lấy đâu ra môi
trường cho
văn hóa Tây Nguyên tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển.
***
Thu Huyền thực hiện
e_Văn