Một con tầu cho Việt Nam
Phỏng vấn người trong cuộc: Thi sĩ Thi Vũ
Nguồn: Gió O
1
979: Ba triết gia
Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, và Raymon Aron trong cuộc họp báo
"Một con tầu cho Việt Nam" [Un bateau pour le Viêtnam].
[Hình từ báo Văn Học Pháp, Magazine Littéraire, số đặc biệt 1966-1996:
La passion des idées, đam mê tư tưởng.]
Về phía những nạn nhân
Chiến dịch "Một con tầu cho Việt Nam" huy động một số những nhà trí
thức, trong có Sartre, Aron và Glucksmann, vượt lên khỏi những ý thức
hệ, và những bản kẽm cũ mèm về chính trị, một bài học tuyệt vời về đạo
đức.
Bernard Kouchner [người thành lập hội Y Sĩ Không Biên Giới]
30.4.2005
Phỏng vấn
nhà thơ
Thi Vũ
THI SĨ VÀ
ĐỜI SỐNG
Lê Vĩnh Phúc
Lê Vĩnh
Phúc : Chào
anh Thi Vũ. Xin anh vui lòng cho biết anh khởi viết từ lúc nào và các
tác phẩm
đã được xuất bản của anh.
Thi Vũ Tôi
bắt đầu
viết văn, làm thơ năm 10 tuổi do đọc thơ văn Cụ Phan Bội Châu.
Những tác phẩm đã xuất bản :
- Mùa Xuân Xa, thơ, Paris
1966
- Mùa Rêu, thơ, Paris
1966
- Je Vous Parle De Ces Jours Absents,
thơ, Paris
1968
- War Resistance and War Reality, tham
luận, Paris 1968
- Un Ramo D'Incenso, thơ, Isola d'Oro,
Ý đại lợi, 1968
- Tiếng Kêu Trầm Thống Trước Sự Tàn
Phá Con Người, tiểu
luận, Lá Bối, Saigon 1968
- Bất Bạo Động và Bất Tạo động, Vạn
Hạnh, Saigon
1968
- Answer of Fire, thơ, Unicorn Press,
Hoa Kỳ 1969
- Hoa Nắng, thơ, An Tiêm, Saigon
1969
- Twelve Poems, thơ, Unicorn Press,
Hoa Kỳ 1969
- Kinh Ruột Tuệ Giác Siêu Việt (hay
Biện chứng Phá Mê Trừ
Khổ),
dịch và
chú giải bản
kinh Prajnaparamita Hrdaya Sutra), Rừng Trúc, Paris 1973
- Thơ Tình Cho Người Lính, thơ, Rừng
Trúc, Paris
1973
- Nos Pas, thơ, PJ Faulkner, Paris 1975
- Nguyễn Trãi, Sinh Thức và Hành Động,
khảo luận, Quê Mẹ,
Paris 1981 (in lần 3, 1990)
- Mẹ, Quê Mẹ, Paris 1984
- Gọi Thầm Giữa Paris, Quê Mẹ, Paris
1985
- Luận Chiến Nước Ngoài, Quê Mẹ, Paris
(in lần 2, 1991)
- Freedom of Religion and Belief : a
World Report (Vietnam
Chapter), Routlege Press, London
1997
- Religious Freedom in the World : a
global report on
freedom and persecution (Vietnam Chapter),
Center
for Religious
Freedom, Freedom House, USA 2000
- Human Rights and Asian Values: the case of Vietnam,
Nordic
Institute of
Asian Studies,”Democracy in Asia”
series,
Curzon Press, London 2000.
Lê Vĩnh Phúc : Hiện nay anh đang sống
và làm việc tại Pháp.
Anh đến Pháp trong hoàn cảnh nào?
Thi Vũ : Hội nghị Genève 54 kết thúc
chiến tranh nhưng cũng
chia cắt đất nước làm hai, thời điểm ấy tôi mang cuộc khủng hoảng nội
tâm trầm
trọng. Một mặt vỡ mộng với lý tưởng kháng chiến dân tộc bị những người
Mác xít
lợi dụng đưa quê hương vào tròng ách nô lệ mới. Mặt khác tiền đồ quê
hương bị
luân hiểm mà tôi đoán sẽ dài lâu. Nên tôi tìm cách ra đi, sang Pháp du
học giữa
thập niên 50. Nhưng chuyến Tây du, thầm kín là noi gương hai Cụ Phan
Bội Châu
và Phan Chu Trinh, tìm xem nơi chân trời thế giới có phương cách nào
cứu quê
hương thoát khỏi cơn vong tính và vọng ngoại hay không. Lý lẽ thầm kín
này đã
quy hướng và đưa cuộc đời tôi vào những ngõ ngách bất ngờ, sóng gió.
Tôi đến Paris với 2 bộ quần áo xứ nóng
và 200 quan tiền Pháp
trong túi (tương đương 40 Mỹ kim ngày nay).
Lê Vĩnh Phúc : Như thế anh có gặp khó
khăn hay trở ngại gì
trong việc học hành không?
Thi Vũ : Khi ra đi nghĩ rằng vừa làm
vừa học dễ thôi. Nhưng
thực tế Tây phương không như mình tưởng, thập phần khổ ách. Tôi tới
nhằm mùa
đông, rét cóng như chưa từng. Phòng thuê sát mái (mansarde) không có
sưởi, tôi
mua lò cồn nhỏ để nung viên gạch cho thêm nóng. Năm đầu mỗi ngày tôi
chỉ ăn một
bữa. Không phải tu theo phái các thầy Phật giáo Nam tông, mà vì không
có tiền
ăn hai bữa. Các nhà ăn dành cho sinh viên, tuy rất rẻ, nhưng túi tiền
tôi khá
cạn. Phần ăn có hạn, nhưng ở Nhà ăn sinh viên có những rổ bánh mì cắt
sẵn, tha
hồ lấy thêm bao nhiêu cũng được, giống như ở Hoa Kỳ trả xong một lần
tiền tha
hồ uống năm ba cốc. Tội lận vào túi khá nhiều khúc bánh mì, dành làm
phần ăn
cho buổi tối với nước lã.
Tương lai mờ mịt.
Tôi
long đong tìm phương tiện sống để học, một thời gian ngắn ở Ý rồi qua
Đức sau
trở lại Pháp. Thoạt đầu học triết và văn chương ở Sorbonne, vì hồi còn
nhỏ mê
triết, mười tuổi tôi đọc Nietzsche và Kant rồi đọc một số bộ kinh lớn
của đạo
Phật. Thuở bé tí ấy chẳng biết đọc có hiểu gì không, nhưng say mê vô
hạn, ngày
đêm không rời sách. Rồi tôi chuyển qua học Y khoa. Tưởng trót lọt,
không ngờ
một biến động trong nước làm tôi bỏ dở. Phải chăng tôi bị ảnh hưởng câu
viết
của Lỗ Tấn mà tôi đọc hồi nhỏ ? Lỗ Tấn học Y Khoa ở Nhật. Thời cuộc
Trung quốc
rối ren. Một hôm ông suy nghiệm học xong chỉ cứu được vài nghìn người,
trong
khi tâm bệnh thời đại đông triệu lần hơn và cần chữa trị khẩn cấp, nên
ông bỏ
học.
Vì sinh kế, có thời gian tôi giúp việc
cho giáo sư
Filliozat, nhà Ấn độ học, ở Collège de France, đồng thời dưới sự chủ
trì luận
án của giáo sư Maurice Durant rồi Bernard Lafont tôi theo học Trường
Cao đẳng
Thực hành tại Sorbonne, ngành khoa học lịch sử. Nhưng vì tình hình và
hoạt
động, tôi bỏ ngang không trình luận án tiến sĩ đã chuẩn bị xong (Triết
lý hành
động trong Phật giáo Đại thừa). Thời gian này tôi có giảng một số khóa
Phật
giáo tại ngành Phật học (Trường Cao đẳng Thực hành ở Sorbonne) theo lời
yêu cầu
của giáo sư André Barreau, ông cũng là giáo sư tăm tiếng về Phật giáo
tại
Collège de France.
Lê Vĩnh Phúc : Anh là một trong những
người đã từng đưa
chiếc tàu Đảo Ánh Sáng ra biển Đông để cứu người vượt biển. Xin anh kể
qua
những cố gắng của anh trong việc này.
Thi Vũ : Tháng 10.1975 đường về tắt
nghẽn và thấy rõ hơn
Cộng đảng áp dụng chính sách độc tài và trả thù nhân dân miền Nam, tôi
mời một
số bạn bè văn nghệ thành lập "Hội Văn hóa và Liên lạc Người Việt Hài
ngoại", ra tạp chí Quê Mẹ làm cơ quan ngôn luận. Số đầu tiên phát hành
tháng 2.1976. Thoạt đầu chỉ nhắm bảo tồn và phát huy văn hóa Việt trước
nền văn
hóa nô dịch Mác xít. Dần dà thảm nạn Trại Cải tạo lùa hàng triệu dân
vào cảnh
tù đày, rồi thảm nạn kinh tế mới, tạp chí Quê Mẹ gánh thêm hoạt động
nhân
quyền. Hội thành lập 2 phân ban hoạt động, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm
Người Việt
Nam và Ủy ban Cứu Sống Người Vượt Biển.
Sau 75, thế giới lặng câm về vấn đề
Việt Nam. Thời chiến
tranh, nhờ phe tả mà những cuộc biểu tình phản chiến nổi lên khắp thế
giới.
Hàng tuần, người xuống đường tính tới số trăm ngàn, số triệu cho "Hòa
bình
Việt Nam". Nhất là phe phản chiến trong các đại học Hoa Kỳ. Phản chiến
nhưng ủng hộ Hà Nội.
Sau 75, hoặc không tin về những sự
thật sắt máu CS tại Miền
Nam, hoặc xấu hổ nên công luận, và là công luận phe tả ngậm tăm tảng
lờ. Còn
phe hữu thất trận theo ngày 30.4.75 nên chẳng muốn hó hé thêm. Tóm lại
thế giới
thành người câm, chẳng ai đoái hoài đến Việt Nam.
Tôi suy nghĩ thấy phải tranh thủ phe
tả tại Pháp và Âu châu,
chuyển được phe tả mới có bàn tay quốc tế hữu hiệu đánh xuống chế độ
độc tài ở
Hà Nội. May mắn, chúng tôi thành công rực rỡ qua cuộc họp báo tổ chức
tại Paris
trình bày về chế độ nhà tù Việt Nam với một tuyên ngôn của tù nhân trên
70
người ký tên mang từ trong nước ra. Cuộc họp báo nổ lớn. Có thể nói là
cuộc họp
báo quốc tế thứ nhất sau năm 75, tổ chức tại Paris ngày 29.5.1978, với
sự tham
dự của 60 ký giả quốc tế, truyền thanh, truyền hình Âu Mỹ. Đó là cú đấm
nghìn
cân đầu tiên giáng xuống đầu Hà Nội trên lĩnh vực nhân quyền. Sau cuộc
họp báo
tôi đi "tâm công" giới tả khuynh Pháp, khởi sự với giới cựu sinh viên
phong trào Sorbonne 68, giới cựu Mao ít, như Claudie Broyelle, André
Glucksmann,
Alain Geismar, Bernard Henri Levy, v.v... rồi Raymond Aron, Jean Paul
Sartre,
Jean-François Revel, rồi Leonid Pliouchtch, Vladimir Boukowski,
Maximov,
Mstislav Rostropovitch, Czeslaw Milosz, Olivier Todd, Jean Lacouture,
Michel
Rocard, v.v.... Lôi được phe tả là giải quyết xong con đường chiến lược
Tây
phương làm hậu cần cho việc vạch trần sự dối trá, gian ác của Hà Nội.
Một hai tháng sau, xẩy ra vụ Hải Hồng,
con tàu lớn nhất chở
hàng nghìn người rời Việt Nam, tiếp theo phong trào Người Vượt biển
(tôi cố ý
dùng từ Người Vượt Biển vì liên quan tới yếu tính của chữ Việt, là
vượt. Tổ
tiên ta đã vượt thoát xâm lăng, khổ nạn để dựng lên chủ quyền dân tộc
và văn
hiến. Chữ Thuyền nhân thường dùng dịch từ Boat People không nói đủ hạo
khí một
dân tộc). Tháng 11.1978, nhờ âm hưởng của cuộc họp báo hồi tháng 5, tôi
mời tất
cả các bạn Pháp (đa số khuynh tả như đã nhắc tên trên đây) và giới ly
khai Liên
xô, Đông Âu họp để trình bày thảm nạn Người Vượt Biển và đề xuất tổ
chức tàu ra
Biển Đông vớt người. Đề xuất này biến thành Ủy ban Một Chiếc Tàu cho
Việt Nam
(Un Bateau Pour le Vietnam). Chủ yếu các bạn Pháp cùng với giới ly khai
Đông
Âu, Liên Xô tham gia Ủy ban, trụ sở Ủy ban đặt tại tòa soạn Quê Mẹ ở số
nhà 25,
rue Jaffeux - Gennevilliers, ngoại ô Bắc Paris.
Thoạt đầu, chúng tôi chỉ nghĩ phát
động công luận thế giới
lưu tâm đến thảm nạn Người Vượt Biển, tù nhân chính trị và vi phạm nhân
quyền
tại Việt Nam mà thôi. Không ngờ thành sự thực. Tất cả các tờ báo lớn
của Pháp
cho in quảng cáo 1 trang không lấy tiền. Trong vòng 2 tháng Ủy ban thu
được 5
triệu quan Pháp (tương đương 1 triệu Mỹ kim). Trong khi ấy Đảng Cộng
sản Pháp
mở chiến dịch chống trả chúng tôi, họ in bích chương 3 thước trên 3
thước dán
khắp nước Pháp kêu gọi hỗ trợ Hà Nội băng bó vết thương chiến tranh.
Sau một tháng
vận động Đảng thu được 5 trăm nghìn quan Pháp, bằng 1/10 chúng tôi.
Lê Vĩnh Phúc : Khi tổ chức đưa tàu ra
biển đông cứu người
vượt biển anh có gặp khó khăn gì không?
Thi Vũ : Khi hoạch định chiến dịch đưa
tàu ra biển Đông vớt
người, chúng tôi thăm dò giá cả qua các hãng cho thuê tàu. Năm hãng
thuận cho
thuê với giá 20 nghìn quan Pháp mỗi ngày chưa kể xăng dầu và nhân viên.
Khi có
tiền, thì cả 5 hãng đều nại đủ cớ không cho thuê, hoặc tàu đang sửa
chữa, tàu
đang sơn, v.v.... Sự thật là thời ấy Công đoàn CGT (Cộng sản) rất mạnh,
họ ngăn
cản các hãng mà họ ảnh hưởng không cho chúng tôi thuê. Bức tóc bức tai
mà chịu.
Khởi sự không tin quyên góp đủ tiền. Khi có tiền thì lại không thuê
được tàu.
Nhưng rồi Trời Phật giúp. Một hôm vào lúc 3 giờ sáng, một bà độc giả
Quê Mẹ gọi
điện thoại từ đảo Nouvelle Calédonie sang. Bà nói tôi đọc Quê Mẹ thấy
đang gặp
khó trong việc thuê tàu, hiện chồng tôi có chiếc tàu vừa hết hạn cho
thuê, ông
Ái cần thì qua đây ký hợp đồng. Hôm sau chúng tôi cử người bay nhanh
sang đó, ký
thuê ngay chiếc tàu kẻo sợ có người phỗng tay trên. Đó là chiếc tàu
mang tên
Ile de Lumière (Đảo Ánh Sáng). Không nhờ một độc giả Quê Mẹ thì chưa
biết ra
sao.
Tại Paris, một số người thuộc các hội
đoàn "quốc
gia", trong đó có một ký giải từng làm trong cơ quan thông tin của
VNCH,
nói xấu cá nhân tôi tung chiến dịch để lấy tiền bỏ túi. Họ cung cấp "hồ
sơ" cho tuần báo phát xít Minute (nay đã đóng cửa). Báo này không ngừng
viết bài tố cáo Người Vượt Biển đến Pháp cướp công ăn việc làm của
người Pháp.
Nhân có sự tiếp tay của người Việt, báo này đục nước béo cò đánh lận
con đen
rằng Tàu của chúng tôi là hậu thân của một Con Tàu trước kia chở thuốc
men về
giúp Hà Nội trong thời chiến tranh chống Mỹ. Báo dùng hồ sơ của người
Việt
"quốc gia" cung cấp, in hình kèm bài viết tố cáo tôi lợi dụng Người
Vượt Biển "làm tiền" cho cá nhân. Trước ngày Minute phát hành một
ngày, ông ký giả nổi danh "quốc gia" kia dịch ra Việt ngữ bài báo mạ
lỵ tôi đem phân phát trong các chợ người Việt. Lại có tin tôi quyên
được 60
nghìn Mỹ kim gửi về giúp Hà Nội. Tôi kiện tuần báo Minute ra tòa án
Paris. Cuối
cùng tôi thắng kiện. Nhưng mất sức hoạt động, vì 3 tháng ròng phải làm
sổ sách,
dịch các thư độc giả gửi tiền ủng hộ ra Pháp ngữ làm chứng cứ. Bạch hóa
4
chương mục, một chương mục nhà in của tôi, một chương mục riêng của
tôi, một
chương mục của tạp chí Quê Mẹ và chương mục Một Chiếc Tàu cho Việt Nam
do một
bạn Pháp làm thủ qũy. Không một tơ hào lẫn lộn trong 4 chương mục về
các chi
phiếu gửi tới ủng hộ cho con tàu. Ngày xử,
ký giả viết bài trên Minute không ra hầu tòa, chỉ
thuê luật sư chống
kiện. Phía tôi toàn Ủy ban Một chiếc Tàu cho Việt Nam, người Pháp và
ngoại
quốc, trong có Leonid Pliouchtch, Olivier Todd, Claudie Broyelle, v.v..
đến làm
chứng.
Lê Vĩnh Phúc : Đối với các nước ở châu
Âu thì sao? Họ có ủng
hộ và giúp đỡ tàu Đảo Ánh Sáng không?
Thi Vũ : Lúc ấy nhiều đài phỏng vấn
đến từ Anh, Đức, Ý,
v.v... Nhưng Hòa Lan ghi đậm một kỷ niệm. Đó là Đài truyền hình Hòa Lan
sang
Paris phỏng vấn tôi.
Cần biết sự kiện mà nay ai cũng quên
rồi : Miền Nam không có
chính nghĩa trong lòng thế giới. Một phần vì Liên Xô thông qua các đảng
Cộng
sản Châu Âu và toàn thế giới giúp đỡ việc truyền thông thế giới, mua
chuộc báo
chí ; Hà Nội cũng bỏ ngân qũy kếch sù cho việc tuyên truyền quốc tế.
Trong khi
ấy, các tòa Đại sứ VNCH không có đầu óc chính trị, thiếu ý thức dân
tộc, đa số
quan liêu, nên chỉ làm công việc thuần túy hành chính, chẳng làm công
tác
truyền thông và "tâm công" quốc tế. Vì vậy sau 75, người vượt biển
lãnh đủ hậu quả thờ ơ nếu không nói là khinh ghét.
Dư luận báo chí phương Tây xem Người
Vượt Biển là "bọn tội phạm chiến tranh" vì
làm
tay sai cho "đế quốc Mỹ" thì chuyện gì cứu nguy cho chúng ? Tôi hoạt
động trong không khí ác cảm và chống đối của Tây phương. Ký giả Đài
truyền hình
Hòa Lan là người theo đảng Xã hội, tả khuynh chống Mỹ. Nhưng vì tin tức
Con Tàu
sôi nổi thế giới nên Đài phải theo dõi truyền tin. Anh ký giả này đặt
cho tôi
câu hỏi : "Ông là người xướng xuất Con Tàu đi vớt người ở Biển Đông.
Ông
cho biết vì sao lại đi cứu những người cộng tác với Mỹ, nếu không nói
là cứu
bọn tội phạm chiến tranh ?". Tôi trả lời : "Trước hết nếu ông đến các
trại tị nạn Đông Nam Á ông sẽ gặp những Người Vượt Biển thuộc thành
phần nông
dân, thợ thuyền, tiểu thương và đa số trẻ em. Vâng, có nhiều phụ huynh
không đủ
tiền ra đi phải giành dụm tiền bạc gửi con ra nước ngoài vì tương lai
của chúng
đã tắt ngấm dưới xã hội cộng sản. Tôi xin phép hỏi lại ông một câu :
nếu ông đi
dạo tại thành phố Amsterdam chằng chịt những con lạch. Nếu ông thấy một
người
chết đuối, ông sẽ làm gì ? Ông điều tra lý lịch người này xem hắn
khuynh tả hay
khuynh hữu trước khi quyết định cứu hắn ? Hay ông sẽ nhảy ngay xuống
lạch cứu
người chết đuối ?". Câu trả lời như thế đã khiến cho nhân dân Hòa Lan
xúc
cảm. Chương trình dự tính chỉ đưa lên màn ảnh một lần, nhưng do yêu cầu
khán
giả đã chiếu đến 3 lần cuộc phỏng vấn trước lễ Giáng sinh năm 78. Mười
ngày
sau, cơ quan thiện nguyện Hòa Lan điện thoại sang cho tôi mời sang Hòa
Lan nhận
số tiền nhân dân Hòa Lan đóng góp cho Con Tàu đi vớt người vượt biển.
Tôi hỏi
đi hỏi lại mới dám tin vào lỗ tai mình về một ngân khoản kếch sù : tiền
Hòa Lan
quyên góp sau 3 chương trình truyền hình phỏng vấn tôi tương đương 8
triệu quan
tiền Pháp thời bấy giờ ! Tôi cùng toàn thể các bạn Pháp trong Ủy ban
bay sang
Amsterdam bàn thảo việc chi dụng số tiền thu được để cứu sống Người
Vượt biển.
Ở đây cần nhấn mạnh điều quan trọng,
là tất cả vấn đề tài
chánh, chi thu của Con Tàu đều do các bạn Pháp cáng đáng ngay từ khi Ủy
ban
thành lập. Thủ qũy là một người Pháp. Chúng tôi chỉ lo việc vận động
truyền
thông, giao dịch với các tổ chức quốc tế. Cho nên những kẻ muốn làm hại
Người
Vượt Biển bằng việc phá hoại chiến dịch Một Chiếc Tàu cho Việt Nam đã
đem tôi
làm vật tế thần. Duy họ không nắm vững việc tổ chức nội bộ nên đã thiếu
khôn
ngoan trong việc chụp mũ tôi.
Có tiền, có tàu, nhưng việc đi vớt
người cũng rất lao đao
lận đận. Sau này phải viết một cuốn sách để rút kinh nghiệm cho lịch
sử. Một
mặt các quốc gia Tây phương không muốn nhận người đông, nên kém ủng hộ
chiến
dịch Một Chiếc Tàu Cho Việt Nam, vì nó khuyến khích phong trào bỏ nước
ra đi.
Như lập trường của Tổng thống Giscard thân Brejnev thời ấy, nhưng sau
này chúng
tôi đã vận động làm ông thay đổi. Chính
sách của LHQ cũng thế, họ không giải quyết nổi số lượng người Việt đến
các trại
tạm cư ngày càng đông. Mấy lần tôi sang điều đình LHQ ở Genève đều gặp
sự thờ
ơ. Nội bộ Ủy ban Một Chiếc Tàu cho Việt Nam cũng chia hai khuynh hướng,
một
khuynh hướng cộng tác theo đề xuất LHQ, giảm nhẹ chiến dịch Con Tàu ra
Biển
Đông vớt người nhằm thối chí người trong nước muốn ra đi, còn tôi thì
quyết đưa
tàu ra biển Đông vớt người. Cuối cùng chúng tôi thỏa thuận hợp đồng hai
khuynh
hướng. Nghĩa là chấp nhận lời đề nghị LHQ biến con Tàu Đảo Ánh Sáng
thành bệnh
viện nổi tại Pulau Bidong lo việc y tế cho trại, lúc ấy 50.000 người ;
chờ một
buổi tốt trời nào đó xuất kỳ bất ý làm những chuyến đột xuất ra Biển
Đông vớt
người. Cũng may thời gian ấy lượng người Vượt Biển lên cao đỉnh, mỗi
giờ đồng
hồ có 55 người vượt biển tấp vào các bờ biển Đông Nam Á. Thế là Tàu Đảo
Ánh
Sáng kéo cờ chạy ra khơi cứu nạn.
Điều quan yếu nhất và kết quả không
ngờ là chiến dịch Một
Chiếc Tàu cho Việt Nam được quốc tế hóa. Với sức hoạt động xông xáo của
chúng
tôi, Tàu Đảo Ảnh Sáng đẻ ra hằng loạt tàu đi vớt người. Cuộc thuyết
trình của
tôi và triết gia André Glucksman tại Ý do Đảng Xã hội Ý tổ chức đã đưa
đến việc
chính phủ Ý điều 3 tàu hải quân ra Biển Đông vớt người, một con tàu của
Na Uy
rồi tàu Đức...
Sau đó xẩy ra nạn hải tặc Thái mà tôi
ngờ có sự làm ngơ của
chính quyền Thái cốt chồn lòng những ai muốn rời nước ra đi. Tôi liền
mở cuộc
vận động quốc tế chống hải tặc Thái, viết thư riêng can thiệp với người
bạn đã
mất, ông Lane Kirkland, cựu Chủ tịch Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO. Một thời
gian
ngắn ông đánh điện cho tôi biết thành quả là Chính phủ Hoa Kỳ đã điều
Hài quân
Hoa Kỳ vào vịnh Thái Lan truy kích hải tặc.
Lê Vĩnh Phúc : Nghe nói hồi ấy có
người âm mưu đốt nhà in
của anh. Việc này đã diễn ra như thế nào?
Thi Vũ : Hôm ấy chúng tôi đi họp 12
giờ khuya về thấy lính
chữa lửa đầy đường, nhà in cách nhà in chúng tôi 3 căn bị đốt. Bọn cực
hữu hay
cực tả đốt lầm. Đường chúng tôi có 2 nhà in. Nhà in bạn nằm trước rồi
mới đến
nhà in chúng tôi trên đường một chiều. Năm giờ sáng hôm ấy, tôi lấy làm
lạ thấy
rất nhiều thùng gỗ chất trước nhà in của tôi. Tôi bèn chở đi vất. Sau
này cảnh
sát Paris
cho
biết đó là dấu hiệu kẻ gian đốt nhà. Chắc là tối hôm ấy kẻ gian chạy xe
vào
đường Jaffeux không thấy dấu hiệu mấy chục thùng gỗ chất đống, lại gặp
ngay nhà
in đầu tiên nên nổi lửa đốt. Gennevilliers là vùng thị xã Cộng sản
Pháp, gọi là
vùng đai Đỏ bao quanh Paris.
Chúng tôi không biết ai là Bà Hỏa. Nhưng chắc một điều nếu không là phe
tả, thì
cũng là phe cực hữu.
Lê Vĩnh Phúc : Anh có
tâm tình gì muốn gửi đến chúng tôi và
bạn đọc không?
Thi Vũ : Việc các bạn
đang làm trên lĩnh vực văn học là cơ
bản và quan trọng. Văn chương thay đổi lòng người, mà lòng người là gì,
nếu
không là sinh phong mới cho văn hóa : một nền văn hóa mới chữa vết
thương khủng
hoảng tâm thức. Thơ là gì nếu không là mẹ đẻ của triết học : một người
nhìn lên
trời cao lúc xế chiều và mơ mộng, đó là bước đầu của triết học và tư
tưởng.
Lê Vĩnh Phúc : Xin cám ơn nhà thơ Thi Vũ.
© 2006 gio-o