Thảo Trường
quê hương
trong trái tim mình
Nguyễn
Mạnh Trinh thực hiện
(1) Xin anh cho một vài dòng về tiểu
sử của mình?
TT: Tôi tên là Trần duy Hinh, bút danh
Thảo Trường chỉ là
một chọn đặt tình cờ, khi đăng những sáng tác trên Tạp chí Sáng Tạo và
dùng
cho đến bây giờ. Vài bút danh khác, ký ở những bài báo trước 1975 hoặc
những thơ
văn thời trẻ, tôi không còn dùng nữa.
Về đường học vấn. Tôi học hết trung học, và chưa
biết đại học văn khoa là gì. Như một kỷ niệm thời đi học, tôi
thích bốn năm học Hán văn với giáo sư Trần
văn Hào. Thầy mến trò, và trò rất kính yêu thầy. Mỗi lần
cụ cho 00/20 điểm trên bài luận văn của tôi thì cụ đều nhìn tôi cười,
và nói:
" Deux zéros! Không lẽ cho điểm âm!".
Năm nay tôi vừa lục tuần và vì cũng
thích coi tử vi nên nhớ tuổi mình là Bính Tý. Quê quán tôi tỉnh Nam
Định, miền Bắc, bên bờ sông Vị Hoàng. Tôi là người thứ chín trong một
gia đình
đông con, mười người. Thân phụ tôi mất sớm. Tôi là đứa con bất hiếu.
Năm 1954,
tôi vào Nam bỏ lại Mẹ tôi ở quê nhà với người chị gái lo phụng dưỡng
ông nội
tôi và coi sóc mồ mả tổ tiên. Sau đó Mẹ tôi bị đấu tố, bị tịch thu hết
nhà cửa ruộng vườn, bị đuổi ra ở ngoài gò đất giữa cánh đồng chiêm,
nước mênh mông.
Vào Nam tôi gia nhập quân đội, theo học Khóa 6 Trường Sĩ Quan Trừ Bị
Thủ Đức.
Và chính thức viết văn.
(2) Là người lính trước 75, là người
tù sau 75 và sau cùng
sang Mỹ tị nạn theo diện HO, anh suy nghĩ thế nào về chiến tranh. Những
suy nghĩ như thế có thay đổi, theo thời gian, cũng như vị trí của anh?
TT: Tôi đã trải qua một thời chiến,
tôi cũng đã trải qua một
thời tù và hiện tôi đang phải trải qua một thời loạn! Tôi đã tham dự
cuộc chiến
tranh Việt Nam suốt 17 năm, làm sĩ quan pháo binh chán rồi chuyển sang
làm sĩ quan
nghiên cứu "Phương châm chiến lược hai chân ba mũi" của Cộng Sản, nhiệm
sở, Cục An ninh Quân Đội. Qua những công việc đó, tôi đã đi và ở hầu
hết các tỉnh thành của Miền Nam Việt Nam, chừng hơn bốn mươi tỉnh, và
còn có dịp ra ngoài Bắc nhìn tận
nơi thành phố Hà nội nhân chuyến nhận tù binh Mỹ ở ngòai đó. Cấp bậc
chót của
tôi là Thiếu tá của QLVNCH. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi bị bắt làm tù
binh.
Tôi bị CS giam giữ gần mười bảy năm, trải qua 18 nơi giam giữ từ Nam ra
Bắc rồi
từ Bắc vô Nam. CS thả ra,tôi ở Saigon hơn một năm thì sang Mỹ đoàn tụ
với vợ và
các con tôi theo hồ sơ IMMI được hơn ba năm nay. Nghĩ về chiến tranh
thì tôi
xác định rằng những người cầm đầu băng đảng cộng sản phải chịu trách
nhiệm với
lịch sử, họ muốn và họ bắt buộc nông dân phải làm ruộng theo cách của
họ, họ
muốn và họ bắt buộc công nhân phải sản xuất theo cách của họ... họ muốn
và họ
bắt buộc con người phải sống theo những khuôn phép của họ, vì thế chiến
tranh
xảy ra. Mà những điều họ muốn chỉ là những thứ họ bắt chước của những
kẻ sai
lầm khác ở bên Nga bên Tầu. Tôi bị cộng sản bỏ tù lâu vào tận đáy vực
của họ để
thấy một điều rõ ràng là họ giả dối một cách thiệt tình, họ tàn nhẫn
rất nhiệt
tâm, độc ác nhân danh lòng nhân đạo. Những người cộng sản cấp dưới
không biết
việc họ làm, vì thế tôi không hề thù hận họ. Song những lãnh tụ của họ
thì phải
chịu trách nhiệm về những tan nát của quê hương Việt Nam. Cái thời
chiến đổ vỡ
tan hoang đó cũng như cái thời tù cơ cực nghiệt ngã đó nó phải có tác
động nhất
định nào đó vào những tác phẩm của tôi. Cũng như bây giờ sống trong một
nước Mỹ
không chiến tranh, nhưng thế giới đang ở một thời loạn, nơi này có kẻ
nhận là
chúa, nơi khác có bà xưng mình là phật, con giết cha mẹ, mẹ trấn nước
con thơ,
vợ chồng giết hại lẫn nhau, bom nổ lung tung giữa trung tâm nước Mỹ,
Anh,
Pháp... hơi độc giết người tại thủ đô Nhật bản..., và ở VN cũng vẫn còn
"ngụy cộng sản" vẫn còn "giả dạng cách mạng"... thì chúng
ta không thể thờ ơ khi làm tác phẩm.
(3) Cuộc đời anh có phản ảnh trong
những điều anh viết
không? Có tác phẩm nào như những điều tự thuật ?
TT: Tác phẩm là sáng tạo, nhưng đây đó
có những chuyện giông
giống người này người kia, hay nhân vật trong truyện xưng tôi thì cũng
không có
nghĩa nhân vật là tác gỉa. Tất cả những gì mà cuộc sống của tôi trải
qua, những
gì mà tôi chứng kiến, những gì mà tôi nghe kể lại và những gì tôi đọc
được ở
sách vở thì đều có thể là chất liệu dùng làm chất xúc tác khi xây dựng
tác
phẩm. Có khi tôi lượm nhiều mẩu đời vụn ở nhiều nơi nhiều lúc sắp đặt
vào một
nhân vật. Đã có một người anh họ nói đùa với tôi: "Coi chừng kể cho nó
nghe nó lại "phang" mình vào trong truyện thì bỏ mẹ!" Cũng có
khi tôi đem những cái của mình gán vào một nhân vật nào đó, như là mình
cho
mượn vậy; bởi vì chính mình, đã có khi phải đi mượn những mối tình của
người
khác đặt vào chỗ của mình. Riêng đời tôi, tôi chưa làm tác phẩm nào tự
thuật.
Tôi không có ý định viết hồi ký.
(4) Chắc anh khởi đầu viết từ những
truyện ngắn trên tạp chí
Sáng Tạo ? Anh có nhớ đó là truyện ngắn với nhan đề như thế nào và anh
có kỷ
niệm nào đặc biệt về nó?
TT: Trước Sáng Tạo tôi có những bài
tuỳ bút và thơ đăng trên
những nội san ở Hà nội và Nam định như nội san của Trường sĩ quan trừ
bị Nam
định. Khi di cư vào Saigòn tôi có viết được một truyện dài nhan đề là
"Đau
thương" nhưng chưa xuất bản. Truyện ngắn đầu tiên của tôi đăng trên tạp
chí Sáng Tạo do nhà văn Mai Thảo làm chủ bút là truyện "Hương gió lướt
đi", truyện ngắn này sau có in trong tuyển tập Sáng Tạo do tạp chí Văn
xuất bản và dĩ nhiên nó cũng có trong "Thử Lửa" là tập truyện ngắn
đầu tay của tôi do cơ sở Tự Do xuất bản năm 1962. Tôi chẳng có kỷ niệm
nào về
nó, có người hồi đó đọc xong tưởng là chuyện có thật của tôi và nói
tôi... yêu
sớm quá. Thực ra đó là chuyện của một - cô "me tây" với một anh học
trò cùng trường lớp với tôi, tôi chỉ "mượn" câu chuyện của họ rồi...
xúc cảm làm thành như là chuyện của mình. Hồi đó tôi nhát và ngớ. Cho
đến bây
giờ hình như tôi cũng vẫn còn nhát và ngớ. Có khi còn hơn thế nữa.
(5) Khi cầm bút anh có mục đích nào ?
Thích là viết hay để
làm đẹp đời sống, nêu cao những chủ trương triết thuyết ?
TT: Tôi làm tác phẩm là để đời.
(6) Anh có một quan niệm khá đặc biệt
về truyện ngắn "
Câu nói hay nhất là câu nói ngắn nhất. Viết truyện ngắn là dùng thứ
kích thước
nhỏ để dựng vấn đề có khi rất lớn." Bây giờ vấn đề lớn là gì? (thời sự,
con người, văn chương...?)
TT: Ông có nhắc thì tôi mới nhớ, tôi
có phát biểu đâu đó như
thế với Nguyễn đông Ngạc trong tuyển tập "Những truyện ngắn hay nhất"
hồi ở Việt Nam trước 1975. Bây giờ tôi cũng vẫn nghĩ như vậy. Và vấn đề
lớn
cũng vẫn là "thân phận con người trong thời đại này". Tôi vẫn có tham
vọng làm sao "nhét" cả một cuộc chiến tranh vào trong một truyện
ngắn, làm sao đưa được cả một thời đại mình đang sống vào trong một
truyện
ngắn. Vâng, tôi vẫn hằng mong muốn làm được như vậy.
(7) Khi anh viết truyện ngắn, động lực
đầu tiên để thúc đẩy
anh viết ? ( nhân vật, đề tài...?)
TT: Hình như đầu tiên là nhân vật. Tôi
vớ được một nhân vật
nào đó ngoài đời làm cho tôi chú ý, nó bắt tôi phải suy nghĩ xung quanh
nhân
vật đó về những sự kiện, lời nói và hành động tình tiết cùng những băn
khoăn,
mang những ý nghĩa của đời sống, có lý hay phi lý... Rồi có khi những ý
nghĩ
của mình bay về quá khứ hay mịt mùng ở một nơi xa xôi nào đó,ý nghĩ bay
đi lộn
lại, quần thảo một hồi xong có khi xếp xó để đấy, rồi một lúc nào đó nó
lại xẹt
ra, lại quần thảo. Những cơn vật vã như thế sẽ nẩy sinh ra những vấn
đề, nói
cách khác là có lúc nó sẽ nẩy ra đề tài, một đề tài hay nhiều đề tài,
loại bỏ
và chọn lựa... cho đến khi sự xúc cảm đem đến cho mình niềm thích thú
thì dùng
bút pháp riêng của mình mà thể hiện nó ra. Cũng có khi phải "cất" nó
nằm yên trong "bộ nhớ" ở trong đầu mình nhiều năm, thời gian cất đi
để dành này có thể "nó" còn được nhào nặn thêm qua nhiều suy tư nữa.
Trường hợp những truyện ngắn hình thành mà tôi phải "cất đi" lâu
nhiều năm là những hình thành trong thời gian ở tù CS. Qua Mỹ tôi mới
thể hiện
nó ra. Bây giờ tôi cũng vẫn đang đi tìm nhân vật. Tôi tìm trên đường
phố, ngõ
hẻm, và các thành phố Mỹ. Ngồi nói chuyện với ông có lúc tôi cũng chợt
tự hỏi
hay là mình "bắt" người này về làm nhân vật.
(8) Thường thường, anh viết có dễ dàng
không ? Và có sửa
chữa gì nhiều sau khi hoàn tất ?
TT: Thời trước 75 tôi viết dễ dàng.
Bây giờ tôi làm việc vất
vả. Phải sửa chữa chứ, đôi khi phải sửa nhiều. Bây giờ dùng computer
nên công
việc sưả chữa rất thuận tiện.
(9) Nếu sửa chữa nhiều, có thể làm lạc
đi những ý định ban
đầu khi khở viết không ?
TT: Tôi chưa gặp trường hợp phải thay
đổi nhiều, chỉ có nhờ
sửa chữa mà nội dung được phong phú thêm, theo ý tôi.
(10) Nhiều người rất thích thú vì
những cái bất ngờ xảy ra
khi đang viết. Anh có tâm trạng ấy không? Và trong những truyện ngắn
của anh,
có truyện nào anh thấy nhiều "bất ngờ" nhất ?
TT: Có một bất ngờ tôi xin kể: Trong
truyện ngắn "Viên
đạn bắn vào nhà Thục" , nhân vật cô bé hỏi nhân vật người lính rằng bên
nào đã bắn vào nhà cô, lúc đầu tôi cho phe hai người bộđội bắn, sau tôi
nghĩ
trong giao tranh bên nào cũng bắn cả và ai biết được hòn tên mũi đạn nó
đi như
thế nào, với lại cũng may là viên đạn lại chui vào vách tường không
chết ai cả
vậy thì cho nó công bằng một tí, tôi viết câu người lính trả lời cô bé
là:"Đạn này nhãn hiệu Mỹ, nhưng có thể đã bắn ra từ phe tôi và cũng có
thể
đã bắn ra từ phe hai người bộ đội, bởi vì bên nào cũng có thứ súng đó
hết
!" Nhưng khi đưa kiểm duyệt thì Bộ Thông tin xoá bỏ mấy chữ "Đạn này
nhãn hiệu Mỹ" để giữ hòa khí với bạn đồng minh Hoa kỳ, tình nghĩa đến
thế
làcùng. Rồi các ấn bản cứ phải in với sự lọai bỏ những dòng kiểm duyệt,
kể cả
bản in ở Mỹ sau đó. Mà nước Mỹ thì họ đâu cần để ý đến những cái lẻ tẻ
đó. Cho
nên sắp tới khi xuất bản tập sách có truyện ngắn ấy ở nước Mỹ này thì
nó sẽ đủ
nguyên con và mang tên nguyên thủy của nó là "Nhãn hiệu Mỹ".
(11) Trước khi viết, anh có dự trù kết
cấu của câu chuyện sẽ
viết ? Hoặc, không có gì cả và viết một mạch ?
TT: Tôi làm việc có dự trù cẩn thận,
tôi còn có bản ghi chép
những ý tưởng và những chi tiết cần ghi nhớ sẽ cho vào trong truyện,
khi làm
việc tôi thường phải rà xét lại những ghi chép đó để xử dụng nó vào
đoạn nào
trong truyện. Nếu lái xe mà chợt nảy ra ý tưởng gì đó,tôi ấn nút ghi
chép bằng
máy ghi âm nhỏ, vì sợ quên, về nhà tôi chuyển nó sang bản ghi chép
giấy. Những
ghi chép này người khác đọc không hiểu vì tôi ghi theo cách vắn tắt, và
nó là
một mẩu giấy chằng chịt ngang dọc gạch xoá những chữ có khi rất vô
nghĩa. Có
khi đang viết tôi cũng phải ngưng lại để ghi chép. Có khi đang nằm lơ
mơ sắp
ngủ tôi cũng phải vùng dậy lấy bút ghi chép. Thảm lắm ! Và như tôi đã
nói, mặc
dù có dự trù như thế nhưng trong lúc làm việc những ý tưởng nẩy sinh
bất ngờ sẽ
làm cho tác phẩm phong phú thêm, và đó là sáng tạo.
(12) Khi trước 1975 anh là người lính
và làm báo. Vậy những
công việc ấy có ảnh hưởng thế nào đối với công việc cầm bút làm văn
chương của
anh ?
TT: Đời lính có cuộc sống luôn luôn
sôi nổi, tầm hoạt động
thay đổi, đi nhiều và đi xa, gặp gỡ nhiều, nghe được nhiều và có nhiều
cảm giác
lạ... như thế tôi nghĩ có lợi cho công việc đi tìm nhân vật cho tác
phẩm mình.
Thời kỳ làm báo cũng giúp tôi mở rộng tầm nhìn vào xã hội và cuộc sống.
Nhưng
làm báo lúc đó với tôi là để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, tôi nhận
viết những
mục phiếm luận trên một số báo ở Saigòn và cho in hàng ngày những
truyện dài đã
viết của mình, tôi không biết làm tin nên thường không phải đến các toà
soạn.
Bài viết từ nhà hoặc từ trong trại lính đêm trước hôm sau nộp, cuối
tháng lãnh
lương. Do đó viết văn là cứ viết văn thôi, có ảnh hưởng là ảnh hưởng từ
cái
cuộc sống ấy. Nếu nói về thời giờ làm việc thì hồi đó tôi rất sung sức,
làm
việc giờ nào cũng được, viết giờ nào cũng được.
(13) Khi viết anh hay dùng ngôi thứ
nhất hay ngôi thứ ba?
TT: Điều này phải lục lại tất cả các
tác phẩm đếm xem ngôi
nào nhiều hơn ngôi nào, tôi cũng không nhớ rõ nữa ngôi nào tôi hay
dùng, hình
như cả hai đều hay dùng cả. Nhưng ngôi thứ nhất cũng không có nghĩa là
tôi cơ
mà. Mới đây trong một truyện ngắn tôi đã dùng ngôi thứ nhất cho một con
nhện.
(14) Và, trong truyện cũng như tiểu
thuyết anh, sự thật
chiếm bao nhiêu phần trăm? Còn hư cấu thì ra sao ?
TT: Sự thật chiếm 99% , hư cấu cũng
chiếm 99%!
(15) Văn chương phản ảnh thời thế, và
từ đó người ta sẽ quan
sát được cả một thời kỳ qua những điều nhà văn diễn tả ?
TT: Tôi cũng nghĩ như vậy.
(16) Nhưng có người quan niệm ngược
lại, con người là một đề
tài lớn và trường cửu, còn những vấn đề khác xung quanh chỉ là nhất
thời không
có giá trị lâu dài. Theo anh, vấn đề này nên suy nghĩ như thế nào ?
TT: Tôi không thấy có gì ngược lại cả.
Đúng là con người lớn
và trường cửu đối với con người. Chỉ khi nào không còn con người nữa
thì may ra
lúc đó vấn đề mới... nhỏ đi và tầm thường Tác phẩm có thể giúp cho
người ta
hiểu được vào giai đoạn ấy ở nơi ấy cái thời thế ấy nó như thế. Vài ba
trăm năm
nữa hậu duệ của chúng ta có khi phải đi đào xới nơi này nơi khác để tìm
kiếm
những di chỉ hoặc là phải đi lục tìm sách vở báo chí tài liệu trong các
thư
viện để xem cái nền văn minh cộng sản nó là gì. Nếu thế thì một tác
phẩm văn
nghệ cũng có thể chứa đựng một thế giới riêng trong cái thời đại tác
gỉa đã
sống. Mở truyện Kiều ra đọc chúng ta biết được cái thời thế của cụ Tiên
Điền đã
sống. Vấn đề này lớn quá và phải nói dài, có lẽ phải hỏi các vị giáo sư
hay các
nhà nghiên cứu, phê bình.
(17) Anh có nhiều thời kỳ cầm bút khác
nhau, trước và sau
1975 là cái mốc phân cách. Vậy, mục đích khi cầm bút có thay đổi không
đối với
anh ?
TT: Không. Trước 75 tôi viết cũng chỉ
muốn tác phẩm của mình
để đời. Mười bảy năm sau 1975 không viết là vì bị chế độ chính trị
khống chế.
Nay thay đổi hoàn cảnh có thể viết được thì lại tiếp tục. Không có gì
thay đổi
cả. Điều này có nghĩa là chế độ chính trị không bắt tôi im được mãi, họ
chỉ cản
trở tôi được một giai đoạn thôi.
(18) Khi anh viết truyện ngắn hoặc
truyện dài, kỹ thuật mà
anh xử dụng có giống nhau không ?
TT: Tôi nghĩ là có khác. Kỹ thuật viết
một truyện ngắn
thường phải xúc tích ngắn gọn, các tình tiết cần phải được gạn lọc, lựa
chọn
lấy những gì là điển hình nhất để đưa vào xử dụng mà thôi. Khi hành văn
thì
càng ngắn càng tốt. Với truyện dài có hơi khác vì một đề tài mình muốn
viết
thành truyện dài là do vấn đề mình muốn nói trong đó cần phải có một
cốt truyện
dàn trải ra với những tình tiết diễn tiến để dẫn tới điều mà mình muốn
tác phẩm
ấy phải đạt tới... Tôi không biết nói sao thêm vì tôi không có khả năng
lý luận
văn học. Tôi chỉ thấy là có khác biệt khi mình làm một tác phẩm ngắn
vàkhi mình
xây dựng một tác phẩm dài. Nhưng tôi không có ý nói một tác phẩm lớn
phải là
truyện dài hoặc thật dài còn một tác phẩm nhỏ thì không thể lớn. Một
người bạn
Mỹ và cũng là độc giả của tôi đã đọc những truyện dài trước 75 và mới
đây sau
khi đọc những truyện ngắn của tôi viết trong năm qua thì ông ta có nhận
xét vui
vui rằng: " Ngày xưa anh sản xuất rượu bia, ngày nay anh nấu rượu
mạnh." Cho tôi phỏng vấn lại N.m.Trinh là anh nhận xét thấy thế nào ?
(19) Hình như trước 1975, anh có viết
những truyện dài đăng
từng kỳ trên các nhật báo. Có người như nhà văn Túy Hồng đã kêu rằng
thể loại
ấy làm hư hoại văn chương của bà đi. Còn với anh thì thế nào ? Có thể
viết được
một truyện dài hay bằng thể loại ấy, theo anh ?
TT: Đúng là như vậy. Nếu phải sản xuất
theo kiểu mỗi ngày
một mẩu thì làm sao có mạch văn và tư tưởng liên tục của một tác phẩm
dài, ấy
là chưa kể khi bận rộn hoặc gặp lúc bí mà vẫn phải "nộp" bài thì sẽ
xẩy ra tình trạng "sản xuất" ẩu. Biết được như thế thì cũng có thể
tránh được nếu muốn, bằng cách viết xong một tác phẩm hoặc ít ra là
xong từng
chương rồi hãy giao cho các toà soạn in dần từng ngày. Nhưng khốn nỗi
vì nhu
cầu sinh sống mà phải viết feuilleton thôi. Tôi có những truyện dài đã
đăng dần
trên nhật baó sau mới xuất bản thành sách mà tôi cũng rất thích. Và
cũng có
những bản thảo in dần trên nhật báo để lấy lương tháng sau tôi bỏ không
xuất
bản thành sách vì nghĩ rằng còn phải mất nhiều công sức sửa chữa hoặc
có thể
còn phải viết lại.
(20) Nhân vật chính của anh thường là
phụ nữ hoặc các cô bé,
có phải ?
TT: Thưa hình như không phải. Điểm lại
16 tác phẩm đã xuất
bản và 6 tác phẩm hoàn thành nhưng chưa in, tôi thấy nhân vật chính của
tôi có
đủ loại người, nam, nữ, già, trẻ, lớn, bé... và còn có cả bò, nhện...
(21) Các chất đặc sắc nào mà anh muốn
diễn tả từ các nhân
vật của anh ? Vì khác thường không giống ai hay vì giống tất cả mọi
người ?
TT: Nhân vật để biểu hiện điều mình
muốn nói trong tác phẩm.
(22) Chiến tranh đã xuất hiện trong
văn chương anh như thế
nào ? Có phải đó là một đề tài tuyệt diệu trong thời kỳ anh viết lúc
trước 75?
TT: Thời chiến mà tôi trải qua thì
thếnào nó cũng
"nhập" vào trong các tác phẩm của tôi.
(23) Bây giờ, cái nhìn của anh về
chiến tranh ra sao? Có
khác biệt gì so với lúc trước ?
TT: Chiến tranh VN đã chấm dứt, thực
sự chấm dứt ngày mùng
04 tháng 05 năm 1992. (Ngày Việt cộng thả 4 người tù binh cuối cùng ra
khỏi
trại giam, đó là các quí vị Đỗ kế Giai, Trần bá Di, Lê minh Đảo và Lê
văn
Thân.) Vì thế xin anh cho tôi tạm quên đi giại đoạn đó!
(24) Anh đã viết truyện dài "Bà Phi"
dài gần 2000
trang. Đó có phải là một trường thiên tiểu thuyết, so về bề dày?
TT: Thưa phải.
(25) Vậy trường thiên tiểu thuyết khác
với truyện dài rất
dài như thế nào ?
TT: Theo tôi thì ở tiểu thuyết tác giả
đứng ngoài, đứng
trên, hay đứng trong câu chuyện mà diễn đạt, thậm chí tác giả còn ở
trong đầu,
trong óc, trong tim trong gan nhân vật, trong tư tưởng, trong ý nghĩ
của nhân
vật mà diễn đạt. Ở truyện dài thì tác giả làm vai trò thuật truyện mà
thôi, mỗi
khi muốn cho nhân vật biểu hiện cái gì thì chỉ tả mặt ngoài của nhân
vật hoặc
gán cho nhân vật những câu nói và..bắt "hắn" nói ra cái câu mà mình
muốn nói với độc giả, nhưng không được viết rằng trong đầu "hắn" đang
nghĩ thế này thế kia.
(26) Lúc bây giờ, viết những truyện về
đời sống thực ở trong
tù, ở nơi đang định cư với đời sống của người HO, anh có nghĩ anh đang
làm công
việc tự thuật ?
TT: Thế cơ à? Có ai đọc tôi mà nghĩ
rằng tôi tự thuật toàn
chuyện đời mình thì kể ra truyện của tôi cũng thực đấy chứ! Cái gì cũng
99% cả
thì biết thế nào mà nói bây giờ.
(27) Anh có nghĩ rằng những đề tài như
vậy đã quá quen thuộc
và được nhiều người khai thác nên khó có tính chất lôi kéo người đọc ?
TT: Nếu như thế thì cũng rất đáng
buồn. Nhưng biết làm thế
nào được. Năm ngoái ông Nguyễn văn Trung từ Canada sang có nói cho biết
rằng
nhà văn Mai Thảo cũng có nói với ông ấy rằng tôi viết truyện tù lúc này
thì ai
đọc, tôi nghe và ghi nhận những lời nhận xét và khuyên bảo chí tình của
các anh
ấy nhưng tôi chỉ tưởng rằng mình được lưu ý thế thôi, nay nghe ông hỏi
nữa tôi
mới giật mình rằng nhà văn lại có thể bị nông nỗi ấy thật sao ! Đời
sống của
tôi chỉ nghèo nàn trong ba cái "thời chiến, thời tù, rồi thời loạn",
suốt cả một đời "quanh quẩn" trong những "khe núi" ấy, tôi
không biết uống rượu, nhảy đầm, đánh bạc, lại cả không biết xã giao,
thậm chí
trong thực tế còn không biết nói chuyện với... đàn bà, thì làm sao tôi
có một
đời sống phong phú, làm sao có chất liệu phong phú, để nó ảnh hưởng vào
tác
phẩm mình. Ôi, đành chịu an phận thế thôi, cũng may là tôi không có ý
định
"lôi kéo" người đọc khi viết, độc giả hoàn toàn khách quan và nghiêm
khắc, tôi chẳng thể lôi kéo. Tôi thấy những điều mà tôi cho là phải
viết để đời
thì tôi viết ra. Thế thôi! Trong tù hay ngoài tù, bên ta hay bên tây,
"trong hang" hay "trong hẻm" , thực tế nào kích động và ảnh
hưởng vào trong tôi thì nó có thể là đề tài tôi sẽ chụp lấy.
(28) Có người nói cái chất sôi nổi với
đời sống mà anh có
trong những tác phẩm thời kỳ trước, bây giờ, ở những dòng chữ gần đây
nhất,
trầm lắng đi. Theo anh, điều ấy có đúng không ?
TT: Tôi không đo được điều ấy, có lẽ
phải nhờ các nhà phê
bình và thư độc giả. Tôi chỉ thấy rõ nhất một điều là mình già đi, tuổi
tác già
đã đành, lại thêm bị cay nghiệt và cơ cực, cho nên cái gì cũng già đi
cả.
(29) Có phải sự thăng trầm của đời
sống anh đã tạo ra tâm
thức ấy ?
TT: Hình như vậy.
(30) Hậu quả của cuộc chiến có phải là
sự căm hận, theo anh
? Và anh có nghĩ đến một tương lai hoà giải hoà hợp của dân tộc VN ?
TT: Căm hận hay không, theo tôi, thì
tôi đã nói ở trên rồi.
Dân tộc Việt Nam bao giờ cũng vẫn chỉ là một. Không có vấn đề hoà hợp
hoà giải
dân tộc. Chỉ có các chính quyền hay phe phái mới nói đến chuyện đó.
Chính quyền
CS hiện nay chiếm được đất nước và cai trị theo mánh khoé của họ nhưng
đất nước
và dân tộc Việt Nam thì vẫn là đất nước và dân tộc Việt Nam. Chế độ tồi
thì đất
nước có lụn bại đi nhưng lịch sử đã diễn ra bao đổi thay, thử hỏi có
chính
quyền nào tồn tại mãi được không.
(31) Lằn ranh quốc-cộng, theo anh bây
giờ còn hiện hữu
không? Trong thực tế đời thường và trong văn chương ?
TT: Trên thực tế ngày nay chế độ VNCH
đã tiêu vong. Trên
thực tế bây giờ chế độ cộng sản cũng chẳng còn, toàn thế giới cũng như
ở trong
nước ta. Chính quyền ở VN bây giờ chỉ là ngụy cộng sản. Xét theo mác
xít thì
đảng cộng sản VN bây giờ là nghịch đồ của Karl Marx. Văn chương không
có lằn
ranh nên cũng chẳng cần hòa hợp hòa giải. Chuyện đó là của các phe phái.
(32) Đối với thế giới, vai trò của
VNCH rất mờ nhạt trong
cuộc chiến vừa qua, kể cả trên phương diện văn chương. Theo anh, đó có
phải là
một hình thức bất công không? Và nhà văn phải có nỗ lực nào để được
công bằng
hơn?
TT: Về mặt chính trị, nếu VNCH có mờ
nhạt trên trường quốc
tế trong cuộc chiến vừa qua là vì chế độ đó không được chơi bựa trong
khi phía
đối phương thì mánh nào họ cũng có thể giở ra. Tôi nói thế cho dễ hiểu.
Nếu văn
chương miền Nam là mờ nhạt thì tại nhà văn miền Nam chúng tôi viết tồi,
nhưng
tính cho đến 1975, có lẽ miền Bắc cũng chẳng có gì khởi sắc. Bằng cớ là
sau
1975 nhiều người từ miền Bắc đã tìm cách đọc và có được những tác phẩm
văn nghệ
miền Nam. Nếu nói về âm nhạc thì "nhạc vàng" từ miền Nam đã ra giải
phóng miền Bắc một cách thần tốc, (Mặt kinh tế, xe honda cũng kinh
lắm!). Văn
chương không cần thế lực nào ban phát công bằng, văn chương soi sáng
cho các
thế lực tập tành tự do dân chủ, văn chương tạo ra sự công bằng.
(33) Trong văn chương anh thấy có biên
giới nào giữa những
người cầm bút ở trong nước và hải ngoại ? Hoặc, ở trong nước giữa những
người
miền Bắc và người miền Nam ?
TT: Các nhà văn Việt Nam chỉ có tổ
quốc chung duy nhất là
Quốc Ngữ.
(34) Anh đã cầm bút ở hai thời kỳ,
trước 75 ở trong nước và
sau 75 ở hải ngoại. Vậy anh có thể cho một vài nhận xét cũng như so
sánh về hai
nền văn học này ?
TT: Tôi mới sang, còn rất ngớ trước
một xã hội văn minh thế
này và chưa đọc được bao nhiêu tác phẩm hải ngoại xuất bản 20 năm nay
rải rác
trên khắp thế giới. Tôi xin phép chưa có ý kiến và so sánh. Nhưng tôi
nghĩ là
chắc có nhiều thơ văn Việt ngữ giá trị đã được sáng tác ở hải ngoại.
Chẳng hạn
mới tháng trước đây tôi đọc thấy trong tập thơ "Tôi chim ngủ đậu cành
xanh" của thi sĩ Nguyễn Nam An nhiều câu thơ làm tôi bàng hoàng. Thơ
của
Nguyễn Nam An rất hay và tôi đã thuộc nhiều câu nhiều đoạn. Chẳng hạn
như:
"Hai mươi năm sau nghe lại tiếng mày
trên điện thoại
tha phương
Nhận rõ không, giấy bút đâu ghi địa chỉ
Tọa độ hôm nay là những thành phố Mỹ
Chi chít trên bản đồ đại pháo bắn hụt
hơi !
Thằng lính thân thương ơi"
.........
"Có nhận ra không, về hú một tiếng vang
Như tiếng lựu đạn của mày xưa nổ trận
đầu trên tàn
hoang
Quảng Trị
Kỳ lạ quá sao tao mày ở Mỹ?"
Tôi nghĩ rằng tôi phải dành một thời
gian để đọc.
(35) Có người cho rằng văn học VN ở
hải ngoại là nền văn học
miền Nam trước 75 nối dài. Theo anh có chính xác không khi phát biểu
như vậy ?
TT: Chẳng nên nói gộp chung lại như
vậy. Có những tác giả
sang đây viết nối dài như cái cũ. Nhưng cũng có những bút pháp rất lạ,
như
Nguyễn Nam An mà tôi vừa nói đến ở trên.
(36) Anh đã có một thời gian vài năm ở
trong nước sau khi
cải tạo về. Vây anh có theo dõi tình hình văn học ở trong nước lúc ấy
không ?
Nếu có xin anh một vài ý kiến.
TT: Rất không may là tôi bị tù lâu
quá, về Saigòn rất trễ và
lại đi ngay, nên chẳng theo dõi được bao nhiêu. Tôi chỉ có đọc được mấy
truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, và tôi rất thích.
(37) Anh có băn khoăn nào về tương lai
văn học VN ở hải
ngoại. Sẽ suy tàn dần, biến dạng thành một nhánh khác viết bằng ngôn
ngữ bản xứ
hoặc hội nhập với dòng văn học ở trong nước ?
TT: Văn học VN thì phải viết bằng Quốc
Ngữ. Viết bằng chữ
khác thì không nên gọi làvăn học VN. Tôi thấy có thi sĩ người Việt làm
thơ
tiếng Anh hay tiếng Pháp, tôi coi các vị ấy là thi sĩ Mỹ hay thi sĩ
Tây. Văn
học VN viết bằng Quốc Ngữ rồi Tây Tầu Nga Mỹ gì đó nếu thấy hay thì
dịch ra
tiếng nước ấy mà thưởng thức, cũng như mình, ngược lại thấy của người
hay thì
chuyển ngữ về mà đọc, hoặc là học biết tiếng nước ấy màđọc. Văn học VN
ở hải
ngoại viết bằng Quốc Ngữ thì cũng vẫn là văn học VN, chỉ có tác giả vì
một lý
do nào đó phải sống ở nước ngoài nhưng vẫn làm văn học VN mà thôi, có
cần gì
phải nhập mới vào được Quốc Ngữ. Quốc Ngữ không phải xuất cảnh, nhập
cảnh bao
giờ. Nhà văn đi đâu cũng mang Tổ Quốc của mình trong tim.
(38) Theo anh, có tín hiệu lạc quan
nào từ những người trẻ ở
hải ngoại ? Về phương diện chính trị cũng như về văn hóa ?
TT: Lúc tôi ra tù, ở Saigòn chờ xuất
cảnh, có người cháu mà
bố mẹ anh ta đều là người Việt sống ở bên Pháp, về thăm quê hương, đến
chào
tôi, anh ta đi đâu cũng phải mang theo một thông ngôn. Tôi bâng khuâng
trước
câu hỏi này của ông!
(39) Đời sống của anh bây giờ ra sao ?
Có còn thuận tiện cho
công việc cầm bút nữa không ?
TT: Thưa có.
(40) Một ngày của nhà văn Thảo Trường ?
TT: Vấn đề ăn ngủ: Đêm ngủ sáu tiếng.
Trưa ngủ mười lăm
phút. Ắn ngày ba bữa, uống trà Thái nguyên. Làm việc: thức mười bảy
tiếng gặp
gì làm nấy, nhưng có bốn tiếng ngồi trước máy viết cái gì đó. Với gia
đình:
sáng sớm đi bộ cùng với nhà tôi tới nhà thờ và chiều ở bãi biển; Tôi
thích tiếp
chuyện với các con tôi (bảy người đã trưởng thành) và thích nhìn đứa
cháu nội.
(41) Anh có dự định nào cho văn chương
trong tương lai ? In
một tập truyện ngắn viết một cuốn truyện dài hoặc mang những kinh
nghiệm viết
của mình trên những trang hồi ký ?
TT: Dự định xuất bản một tập truyện
ngắn nhan đề "Những
Mảnh Vỡ Của..." gồm 7 truyện ngắn mới làm xong. Đang viết ba cái truyện
ngắn nữa. Sửa chữa bản thảo sáu truyện dài viết trước 75 để có dịp là
in. Không
có ý định viết hồi ký.
(42) Sau cùng, anh có điều gì muốn nói
thêm với độc giả?
TT: Sau gần hai chục năm vắng mặt trên
văn đàn, nay tôi lại
tiếp tục viết. Tôi đã có lời chào gửi đến độc gỉa, qua tập truyện ngắn:
"Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai", do nxb Tin, Paris, xuất bản năm
vừa qua. ?n bản ở Hoa kỳ do Văn nghệ phát hành.
Nguyễn Mạnh Trinh
thực hiện